I. Lí do, mục đích, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đổi mới phương pháp đọc văn đã và đang mở ra cho người dạy và người học những cơ hội khám phá, tiếp cận tác phẩm đúng với quan niệm văn bản văn học là một “cấu trúc ngôn từ động”, một “kết cấu vẫy gọi” liên tục sản sinh các lớp nghĩa.
Tiếp cận tác phẩm văn học giai đoạn 1945 – 1975 vừa có những thuận lợi cơ bản do yếu tố thời đại như: khuynh hướng thẩm mỹ, loại hình tác giả, phong cách thời đại, quan niệm nghệ thuật về con người .chi phối khá thống nhất. Nhưng, từ những tiền đề tưởng như thuận lợi ấy lại là cái bẫy giữ chân những người quen với lối mòn, ngại tư duy sáng tạo, nhất là đối tượng những thầy cô giáo dạy văn rất dễ biến giờ đọc văn thành giờ giảng văn nhàm chán, mòn sáo.
Thế kỉ XX là một trong những thế kỉ đầy biến động. Riêng bộ môn nghiên cứu, phê bình văn học cũng có những đột phá, bung nở của nhiều trường phái nghiên cứu, phê bình ra đời trên tinh thần trăm hoa đua nở và tiêu chí tính thẩm mỹ, các đặc trưng của văn chương được tiếp cận và khai phóng. Nghiên cứu văn hóa học là một khuynh hướng mới rất sôi động trong khoa học nhân văn trên thế giới từ những năm 60 của thế kỉ. Ở nước ta, kể từ khi đất nước Đổi mới, tư duy, phương pháp nghiên cứu khoa học văn học đã tiếp thu những thành tựu nghiên cứu của thế giới để đổi mới căn bản hướng nghiên cứu khoa học nhân văn. Trong đó các hướng nghiên cứu như: thi pháp học trở thành một hướng nghiên cứu có sức hấp dẫn lớn; hướng nghiên cứu liên môn, liên ngành đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận.
Riêng ở Việt Nam, hướng tiếp cận tác phẩm văn học dưới góc nhìn văn hóa cũng đã gặt hái những thành tựu đáng kể. Trong đó những nhà nghiên cứu có những đóng góp ở hướng nghiên cứu này phải kể đến Phan Ngọc, Trần Đình Sử, Trần Đình Hượu, Trần Ngọc Vương, Trần Nho Thìn, Đỗ Lai Thúy. trong mấy chục năm cuối thế kỉ XX lại nay đã mang đến cho người đọc một kênh tiếp nhận thú vị. Bởi suy đến cùng, văn học là một phần của văn hóa, mọi thành tố của sáng tạo nghệ thuật chân chính không thể không hình thành trong một môi trường văn hóa cụ thể và đến lượt mình, tác phẩm nghệ thuật sẽ làm thăng hoa các giá trị văn hóa tinh túy của dân tộc và thời đại.
14 trang |
Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 2338 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hướng dẫn học sinh tiếp nhận truyện “những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi dưới góc nhìn văn hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.
HƯỚNG DẪN HỌC SINH TIẾP NHẬN
TRUYỆN “NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH” CỦA NGUYỄN THI DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA
I. Lí do, mục đích, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đổi mới phương pháp đọc văn đã và đang mở ra cho người dạy và người học những cơ hội khám phá, tiếp cận tác phẩm đúng với quan niệm văn bản văn học là một “cấu trúc ngôn từ động”, một “kết cấu vẫy gọi” liên tục sản sinh các lớp nghĩa.
Tiếp cận tác phẩm văn học giai đoạn 1945 – 1975 vừa có những thuận lợi cơ bản do yếu tố thời đại như: khuynh hướng thẩm mỹ, loại hình tác giả, phong cách thời đại, quan niệm nghệ thuật về con người ...chi phối khá thống nhất. Nhưng, từ những tiền đề tưởng như thuận lợi ấy lại là cái bẫy giữ chân những người quen với lối mòn, ngại tư duy sáng tạo, nhất là đối tượng những thầy cô giáo dạy văn rất dễ biến giờ đọc văn thành giờ giảng văn nhàm chán, mòn sáo.
Thế kỉ XX là một trong những thế kỉ đầy biến động. Riêng bộ môn nghiên cứu, phê bình văn học cũng có những đột phá, bung nở của nhiều trường phái nghiên cứu, phê bình ra đời trên tinh thần trăm hoa đua nở và tiêu chí tính thẩm mỹ, các đặc trưng của văn chương được tiếp cận và khai phóng. Nghiên cứu văn hóa học là một khuynh hướng mới rất sôi động trong khoa học nhân văn trên thế giới từ những năm 60 của thế kỉ. Ở nước ta, kể từ khi đất nước Đổi mới, tư duy, phương pháp nghiên cứu khoa học văn học đã tiếp thu những thành tựu nghiên cứu của thế giới để đổi mới căn bản hướng nghiên cứu khoa học nhân văn. Trong đó các hướng nghiên cứu như: thi pháp học trở thành một hướng nghiên cứu có sức hấp dẫn lớn; hướng nghiên cứu liên môn, liên ngành đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận.
Riêng ở Việt Nam, hướng tiếp cận tác phẩm văn học dưới góc nhìn văn hóa cũng đã gặt hái những thành tựu đáng kể. Trong đó những nhà nghiên cứu có những đóng góp ở hướng nghiên cứu này phải kể đến Phan Ngọc, Trần Đình Sử, Trần Đình Hượu, Trần Ngọc Vương, Trần Nho Thìn, Đỗ Lai Thúy... trong mấy chục năm cuối thế kỉ XX lại nay đã mang đến cho người đọc một kênh tiếp nhận thú vị. Bởi suy đến cùng, văn học là một phần của văn hóa, mọi thành tố của sáng tạo nghệ thuật chân chính không thể không hình thành trong một môi trường văn hóa cụ thể và đến lượt mình, tác phẩm nghệ thuật sẽ làm thăng hoa các giá trị văn hóa tinh túy của dân tộc và thời đại.
Bởi thế, việc sử dụng cái nhìn văn hóa thích hợp sẽ hiểu văn học sâu hơn. Nghiên cứu văn học trong tầm nhìn văn hóa đã mở ra các hướng như: Định hướng nghiên cứu thi pháp văn hóa, bao gồm thi pháp đối thoại và thi pháp cacnaval kiểu M.Bakhtin, nghiên cứu mẫu gốc huyền thoại kiểu Northrop Frye...các tác giả nghiên cứu theo hướng này tiêu biểu có Trần Đình Sử, Đỗ Đức Hiếu, Đỗ Lai Thúy. Hướng nghiên cứu thứ hai là nghiên cứu mối quan hệ văn học với các truyền thống văn hóa, tôn giáo, chẳng hạn văn học với Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo...tiêu biểu có các nhà nghiên cứu như Trần Đình Hượu, Trần Ngọc Vương, Phan Ngọc, Trần Nho Thìn... Hướng tiếp cận tác phẩm văn học dưới góc nhìn văn hóa vừa trả lại cho văn học những giá trị đặc thù của bộ môn vừa là một hướng nghiên cứu mở. Dựa vào đặc trưng thẩm mĩ của văn chương và tầm đón đợi của người đọc, văn bản văn học sẽ trở thành tác phẩm khi người đọc trở thành người đồng sáng tạo với tác giả trên cơ sở gặp gỡ của các giá trị văn hóa.
Vì thế, việc hướng dẫn học sinh đọc hiểu tác phẩm văn học dưới góc nhìn văn hóa không phải là hướng đọc hiểu theo trào lưu, theo mốt mà là một hướng tiếp cận có cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn.
Ở chương trình môn Ngữ văn lớp 12, truyện Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi đã được các nhà soạn sách định hướng cách học và cách dạy qua hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài và Sách giáo viên. Tính từ khi truyện được đưa vào sách giáo khoa Cải cách đến Sách phân ban (Ban KHTN và Ban KHXH&NV), truyện được định hướng tiếp cận từ góc độ xã hội học, phong cách tác giả, thi pháp học và phong cách thời đại. Riêng đối với đề tài này, chúng tôi đề xuất hướng tiếp cận mới.
Qua các tiết dự giờ của đồng nghiệp (dự giờ thao giảng định kì, dự giờ Thanh tra toàn diện, dự giờ Hội thi giáo viên giỏi cấp tỉnh), chúng tôi nhận thấy các giáo viên bộc lộ một số hạn chế khi định hướng học sinh học tập qua những câu hỏi sách giáo khoa. Những hạn chế dễ thấy trong các tiết dạy là người dạy lệ thuộc quá lớn vào cách định hướng của sách giáo khoa dẫn đến việc phân bố nội dung cần tiếp cận không hợp lí giữa tiết 01 và tiết 02. Giáo viên có thói quen ở tiết 01 dừng lại ở câu hỏi về điểm nhìn trần thuật. Tiết 02 tổ chức học sinh so sánh điểm giống và khác nhau về tính cách của hai chị em Chiến và Việt. Và khi dừng lại theo các tiểu mục như trên, giờ dạy thường rơi tình trạng là hết kiến thức dạy nhưng còn thừa thời gian. Giáo viên dạy tiết 01 lấn kiến thức sang phần tiết 02 và ngược lại, giáo viên thường dạy lại kiến thức của tiết 01 ở tiết 02. Cá biệt, một số giáo viên thiếu kiến thức và kĩ năng dẫn đến hiện tượng biến giờ đọc văn sang hướng tiếp cận xã hội học dung tục.
Nhiệm vụ, đối tượng và phạm vị của đề tài là: “Hướng dẫn học sinh tiếp nhận truyện Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi dưới góc nhìn văn hóa”. Hướng tiếp cận này không loại trừ các định hướng tiếp cận đã có. Với đặc thù của bộ môn khoa học về văn học, sự giao thoa giữa các phương pháp là điều không thể loại bỏ. Và tham vọng của đề tài là góp phần bổ sung và giải quyết một số tồn tại của giờ đọc - hiểu truyện ngắn Những đứa con trong gia đình trong chương trình sách giáo khoa hiện hành.
Xuất phát từ cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn trên đây, chúng tôi đề xuất thêm hướng tiếp cận mới hầu mong bổ sung cách tiếp cận để giải quyết những bất cập trong giờ đọc văn ở nhà trường phổ thông hiện nay.
II. Giải quyết vấn đề
Những đứa con trong gia đình là tác phẩm xuất sắc của nhà văn liệt sỹ Nguyễn Thi và cũng là một trong những thiên truyện ngắn tiêu biểu của văn học thời chống Mỹ. Việc tác phẩm tiếp tục được đưa vào chương trình môn Ngữ văn trong lần thay đổi sách vừa qua chứng tỏ giá trị tự thân của tác phẩm đủ sức gây xúc động cho các thế hệ độc giả, nhất là đối tượng bạn đọc là những học sinh lớp 12 có cùng lứa tuổi với những người con thân yêu của mảnh đất Thành đồng của Tổ quốc trong những năm tháng hào hùng đã qua.Và cũng thêm một lần các em học sinh có cơ hội “đối chứng” để chuẩn bị bước vào đời với những hoài bão, dự định, những ước mơ và lẽ sống của thế hệ mình.
Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình là một thiên truyện hấp dẫn nhưng do yêu cầu thời lượng chương trình nên sách giáo khoa chỉ trích dẫn một phần cuối tác phẩm cho phần đọc-hiểu ở lớp. Đây là một khó khăn đối với việc dạy và học của giáo viên và học sinh hiện nay. Ngoài những học sinh học theo Khối C có ý thức tự giác tìm đọc trọn vẹn tác phẩm và phân tích trích đoạn trong tính chỉnh thể của văn bản truyện thì phần lớn học sinh không hoặc chưa có cơ hội tiếp cận trọn vẹn tác phẩm. Thậm chí một số giáo viên trẻ cũng rơi và tình trạng chỉ tìm hiểu những gì đóng khung trong sách giáo khoa. Hệ lụy trên dẫn tới việc người học và người dạy chưa thấy hết được giá trị sâu sắc của tác phẩm.
Những đứa con trong gia đình được nhà văn Nguyễn Thi hoàn thành vào tháng 2 năm 1966. Nếu lấy mốc ngày 08/03/1965 đế quốc Mỹ ồ ạt đổ quân vào nước ta tiến hành cuộc Chiến tranh Cục bộ ở miền Nam và những dòng nhật kí chiến trường nhà văn để lại, bạn đọc hôm nay mới thấy hết được không khí hào hùng trước cuộc chạm trán đầy thử thách của dân tộc ta trong những ngày lịch sử đó. Thiên truyện đã ra đời trong những ngày tháng “sôi sục, nghiêm trang, nghiêm trọng, lo lắng, quyết liệt, hào hứng, hào hùng: dân tộc ta bước vào cuộc chạm trán mất còn trực tiếp với đế quốc Mỹ” (Nguyên Ngọc).
Truyện Những đứa con trong gia đình thuộc vào những tác phẩm xuất sắc nhất được viết trên báng súng trong cuộc chiến trang ái quốc vĩ đại của dân tộc. Mở trang sách ra độc giả như còn nghe mùi của thuốc súng. Một tác phẩm viết trong khói lửa chiến tranh nhưng đã không rơi vào số phận của những tác phẩm minh họa, những trang nhật kí chiến trường ghi vội mà đã trở thành một truyện ngắn đặc sắc làm rung động trái tim bao thế hệ bạn đọc. Và hôm nay đọc lại tác phẩm, chúng ta không khỏi kinh ngạc và tự hào bởi ra đời trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt nhưng truyện ngắn của Nguyễn Thi đã gặp gỡ với thi pháp dòng truyện ngắn viết theo dòng ý thức của văn học phương Tây hiện đại.
Trong quá trình giảng dạy, mỗi lần đi tìm câu trả lời cho câu hỏi tại sao một tác phẩm chảy cùng dòng văn học sử thi một thời nhưng nó đã có một sức hấp dẫn riêng, gợi cho người đọc một khoái thú thẩm mỹ riêng? Làm sao nhà văn lại viết nên những trang văn vô cùng xúc động, vừa dữ dội lại vừa nên thơ, vừa khốc liệt lại vừa yên bình đến thế. Và có lẽ phần trầm tích của những giá trị ở tác phẩm chính là nhà văn Nguyễn Thi đã nhìn cuộc chiến tranh dưới góc nhìn văn hóa. Người nghệ sỹ - chiến sỹ ấy đã cầm bút không chỉ với tư cách một người lính, một nhà văn chiến trường mà còn với tư cách, tâm thế một nhà văn hóa viết về chiến tranh, đối thoại với thời đại bằng tiếng nói của những giá trị bất diệt, trường tồn của dân tộc - giá trị văn hóa truyền thống.
Và khi nói tới giá trị văn hóa lâu đời mà không một kẻ thù nào hủy diệt được của dân tộc Việt Nam không gì khác đó là giá trị văn hóa gia đình. Chính sức mạnh của các giá trị văn hóa truyền thống đã trở thành sức mạnh mềm của người Việt để hóa giải mọi hiểm họa (trong đó có hiểm họa ngoại xâm) và kiến tạo nên cốt cách, phẩm tính rất độc đáo của con người Việt Nam.
Trước một kẻ thù mạnh hơn chúng ta về kinh tế và tiềm lực quốc phòng, khi chúng đưa quân đổ bộ lên đất nước của chúng ta, cuộc đối đầu ấy vô vàn cam go và khốc liệt. Nếu như nhà chính trị, nhà quân sự đã nêu cao khẩu hiệu chiến tranh toàn dân, chiến tranh toàn diện, trường kì kháng chiến nhất định thắng lợi, “Dù có phải đốt dãy Trường Sơn chúng ta cũng phải giải phóng miền Nam”...thì người nghệ sỹ - chiến sỹ Nguyễn Thi lại lấy điểm tựa là văn hóa để lí giải sức mạnh chiến thắng của nhân dân Việt Nam, truyền lửa niềm tin cho độc giả, mang đến một cái nhìn đối sánh giữa sức mạnh của tinh thần, giá trị văn hóa của dân tộc với sức mạnh hủy diệt của súng đạn kẻ thù.
Vì thế, trong giờ đọc văn, công việc đầu tiên của người giáo viên là đưa người học sống lại không khí hào hùng, quyết liệt về cuộc đối đầu sống còn của dân tộc trong những tháng năm đánh Mỹ. Tiếp đó, việc định hướng học sinh giải nghĩa nhan đề tác phẩm không chỉ dừng lại ở lớp nghĩa tường minh: nhan đề cho chúng ta biết đối tượng mà nhà văn miêu tả là câu chuyện anh hùng của các thành viên trong một gia đình Nam Bộ kháng chiến. Hơn thế, qua nhan đề, tác giả còn hé mở cho người đọc (chính tác giả cũng là một độc giả đặc biệt) một tâm thế tiếp nhận, một cách lí giải về sức mạnh của đồng bào, của dân tộc ta dưới góc nhìn văn hóa gia đình. Từ câu chuyện của một gia đình, người đọc hình dung ra câu chuyện của một đất nước, một dân tộc; từ câu chuyện của một thời đại, bạn đọc nhận diện được tầm vóc lịch sử, bản sắc dân tộc của cộng đồng năm mươi tư dân tộc anh em sống trên lãnh thổ Việt Nam với một truyền thống lâu đời giữ nước đi liền với dựng nước. Đó là một đất nước “Lớp cha trước lớp con sau/Đã thành đồng chí chung câu quân hành” (Tố Hữu).
Bởi từ rất lâu, trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, gia đình chính là hạt nhân văn hóa của dân tộc. Chưa và sẽ không một kẻ thù nào chia rẽ được dân tộc ta khi chúng ta biết giữ gìn, phát huy được sức mạnh, tình đoàn kết thân tộc, giữ được cái gốc văn hóa. Chính giá trị văn hóa truyền thống đã trở thành sức mạnh vô địch, sức mạnh Việt Nam chống lại mọi âm mưu đồng hóa và tiêu diệt của các nước đế quốc từ xưa đến nay.
Từ quan niệm mẫu hình con người văn hóa, Nguyễn Thi đã lựa chọn phương thức trần thuật từ điểm nhìn tâm lí góp phần làm nổi bật con người tâm lí, con người văn hóa bên trong con người sử thi của thời đại.
Trần thuật chủ yếu theo điểm nhìn nhân vật không chỉ tạo nên tính hấp dẫn, tự nhiên, lô gích của tiến trình phát triển cốt truyện và thế giới nội tâm nhân vật còn mang đến cho người đọc những trang văn thẫm đẫm chất thơ. Chất thơ được tỏa ra, được toát lên từ tình yêu quê hương đất nước, tình yêu gia đình và lòng căm thù giặc sâu sắc của những người con nơi Thành đồng Tổ quốc. Chất thơ được toát lên từ tình cảm gắn bó sâu sắc, chân tình giữa những người đồng chí anh em trong một đơn vị chiến đấu. Đi vào chiến trường, mọi người vẫn quen gọi Việt là “cậu Tư”, một cách xưng hô giàu tính thân tộc để “Mỗi lần nghe, Việt lại toét miệng cười. Cái tiếng “cậu”, nghe như có họ, lại vui nữa”. Câu văn vừa trích thoạt đọc tưởng như là một lời dẫn chuyện thông thường nhưng đặt nó trong tính chỉnh thể của tác phẩm, trong tính liên văn bản với nhiều tác phẩm văn học khác thì người đọc sẽ nhận thấy tình động đội đã được ánh chiếu qua tình cảm thân tộc là một nét đặc thù của người lính Việt Nam trong các cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại mà ở đó “Tướng sỹ một lòng phụ tử” (Nguyễn Trãi). Người lính từ “Bốn phương trời chẳng hẹn quen nhau” (Chính Hữu) nhưng khi dừng chân gặp mặt “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy” (Phạm Tiến Duật).
Chất thơ còn được toát lên từ điệu tâm hồn, cách cảm, và lối so sánh vừa gần gũi vừa bất ngờ thú vị. Nói về sự gắn kết, ngưng kết các giá trị trong đó có giá truyền thống gia đình, nhà văn đã nhắc đến dòng sông như khởi nguồn của lịch sử mà truyền thống gia đình Việt là một dòng sông chảy vào biển lớn của dân tộc. Trong đó cuộc đời, chiến công của mỗi người như một khúc sông. Và cuốn sổ gia đình như một cuốn gia phả ghi chép lại lịch trình dòng chảy bất diệt của dòng sông gia đình.
Dưới góc nhìn văn hóa, và bằng thủ pháp nghệ thuật hồi tưởng, qua một truyện ngắn Nguyễn Thi giúp người đọc “gặp gỡ” được rất nhiều thành viên trong gia đình Việt. Đó là thím Năm, ông nội, bà nội, thằng Hai con chú Năm, ba, má và chị em Việt...Mỗi nhân vật dù chỉ được giới thiệu thoáng qua trong một vài câu văn nhưng ở đó tính cách và số phận hiện lên rất sắc nét, độc đáo.
Một tập thể nhân vật vừa đa dạng về lứa tuổi, khác nhau về giới tính nhưng họ có điểm chung là yêu gia đình, yêu quê hương sâu sắc, yêu cách mạng và có mối thù sâu nặng với giặc Mỹ. Ở họ có sự nối tiếp, kế thừa và phát triển. Thế hệ sau noi gương và nối gót thế hệ trước, và thế hệ cha anh đặt trọn niềm tin, hi vọng vào cháu con. Thế hệ trước in dấu lên con cháu từ ngoại hình đến tính cách tâm hồn. Mỗi lần nghe tiếng ná thun của con trai bắn chim, má Việt lại nói: “Đó, lại giống thằng cha nó rồi! Để má ráng nuôi bay lớn coi bay có làm được gì cho cha mày vui không?”. Tương tự như vậy, mỗi hành vi, cử chỉ đến dáng điệu tính tình của chị Chiến, Việt đều thấy chị “nói in như má vậy”, “giống hệt như má vậy”.
Và thế hệ sau trưởng thành hơn thế hệ trước, cháu con xứng đáng với sự kì vọng, trở thành niềm tự hào của các bậc cha chú. Khi chứng kiến cảnh thu xếp chuyện nhà của các cháu, chú Năm “cứ ngồi yên trên ván nhìn hai cháu thiệt lâu. Một lát, chú nói: Khôn! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non. Con nít chúng bây kì đánh giặc này khôn hơn chú hồi trước”. Trong lời động viên đầy cảm kích của chú Năm, người đọc xúc động trước sự trưởng thành vượt bậc của những đứa trẻ Nam Bộ trong những năm tháng chiến tranh ác liệt. Dường như số phận đã luôn muốn thứ thách con người Việt Nam, dân tộc Việt bằng những cam go và ác liệt nhất. Những thử thách của lịch sử trong mấy ngìn năm qua buộc đứa trẻ lên ba khi cất tiếng chào đời thì câu nói đầu tiên là câu nói xin đi đánh giặc. Và hôm nay bọn “con nít chúng bay” chưa đủ tuổi nhập ngũ nhưng đã đủ khôn để trưởng thành sớm để đi tới chân trời mặt bể, vượt lên bão tố phong ba.
Chính sức mạnh của nguồn cội, truyền thống của gia đình đã làm cho mỗi thành viên trở nên chín chắn hơn, vững vàng hơn trước bão táp của lịch sử. Cái quá khứ đang hiện hình trong cái hôm nay, đau thương xưa đang hun đúc thêm lòng quyết tâm chiến đấu. Bề dày văn hóa, chiều sâu tâm linh đã giúp cho con người thêm vững niềm tin. Không hề ngẫu nhiên mà riêng ở đoạn trích trong sách giáo khoa hình ảnh người má được Việt nhắc lại tới nhiều lần và mỗi lần như thế là một sự so sánh với người chị kính yêu của nhân vật. Trước đêm xa nhà đi chiến đấu, “Cả chị cả em cùng nhớ đến má. Hình như má cũng về đâu đây. Má biến theo ánh đom đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thùng lúa mà cầm nón quạt? Đêm nay, dễ gì má vắng mặt, má cũng phải về dòm ngó coi chị em Việt tính toán việc nhà làm sao chớ?”. Đoạn văn được trần thuật theo điểm nhìn của nhân vật đã giúp người đọc hiểu được vì sao nhân dân Nam Bộ đã anh dũng kiên cường đến thế, và mảnh đất ấy được cả nước suy tôn là thành đồng Tổ quốc. Chính dòng chảy của văn hóa đã bồi thấn thêm niềm tin ở mỗi người về một ngày mai tất thắng. Người đọc thêm một lần tin và yêu hơn khi nghe chú Năm dặn dò hai cháu: “Chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó. Chú kể chuyện con sông nào ở nước ta cũng đẹp, lắm nước bạc, nhiều phù sa, vườn ruộng mát mẻ cũng sinh ra từ đó, lòng tốt của con người cũng sinh ra từ đó. Trăm sông đổ về một biển, con sông của gia đình ta cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm, chị em Việt lớn lên rồi sẽ biết, rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta”. Các hình ảnh, chi tiết trong thiên truyện vừa giàu chất hiện thực vừa đậm chất tượng trưng. Và ở đây, tính biểu trưng của văn hóa đã nâng cánh cho tính hiện thực đạt tới tính điển hình của hình tượng.
Văn học viết về chiến tranh, viết về những cuộc ra đi của những đứa con yêu của giống nòi đã từng làm xúc động lòng người trong các trang văn của các nhà văn nhà thơ cùng thời. Nhưng có lẽ chẳng ai có thể quên, có thể dửng dưng khi đọc đến đoạn văn Nguyễn Thi miêu tả cảnh chị em Việt khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm trong ngày tòng quân. Đoạn văn gây xúc động mạnh bởi chi tiết ấy đã chạm tới cõi tâm linh sâu thẳm của mỗi người con dân Việt. Bàn thờ tổ tiên ông bà muôn đời là không gian thiêng, là cõi tâm linh bền vững của con người Việt Nam. Không gian tâm linh đó bao giờ cũng được người Việt đặt nơi trang trọng nhất của ngôi nhà. Là hiện thân của sự giao thoa giữa người đã mất và người còn sống, giữa cõi tâm linh và thế giới hiện tồn.
Nhưng lúc này đây, bom đạn của giặc đã xé nát xóm làng, giết chết người má kính yêu của Việt khi người mẹ mái đầu còn xanh. Ngày má mất chưa đoạn tang, hai chị em đã phải gồng gánh đưa bàn thờ má đi gửi nhà chú. Đọc đến đoạn văn này, người đọc nhói lên một niềm đau chung cùng nhân vật, uất lên mối căm thù giặc sâu sắc. Giữa người đọc và nhân vật lúc này có một sự đồng nhất về tâm trạng, về tâm lí và “mối thù thằng Mỹ thì có thể rờ thấy được, vì nó đè nặng ở trên vai”.
Những đứa con trong một gia đình đã ra đi kháng chiến, trong lòng họ luôn đầy ắp một niềm tin ngày mai chiến thắng và họ sẽ trở về đoàn tụ, sum vầy. Trong lời nói của nhân vật, người đọc nghe được niềm tin vào ngày mai của đất nước sạch bóng quân thù: “Nào, đưa má sang tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập con lại đưa má về”. Trong giây phút xúc động ấy, cái khoảnh khắc đã hóa thân thành bất diệt, lòng yêu thương được thắp sáng thêm lòng căm thù giặc...Tất cả truyền đến người đọc một phức cảm tâm trạng đặc biệt.
Dân tộc ta là thế, một dân tộc anh hùng, một dân tộc yêu hòa bình. Đã bao phen đất nước bị xâm lăng thì tâm thế bước vào cuộc chiến tranh là tâm thế của những anh hùng vệ quốc. Và sau mỗi lần chiến thắng ngoại bang, dân tộc ta lại “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” (Nguyễn Đình Thi). Con người Việt Nam đi vào chiến tranh là để chấm dứt chiến tranh, kiến tạo hòa bình, xây dựng tương lai tươi sáng. Ra đi là để trở về, chấm dứt chiến tranh là xây dựng hòa hảo bang giao. Lịch sử dân tộc đã chứng minh điều đó. Và vì thế dân tộc ta mãi mãi là một dân tộc bất khả chiến bại. Con người Việt Nam đi qua chiến tranh là những con người văn minh, mang phẩm cách văn hóa của dân tộc và nhân loại. Sự kế tiếp về cách nhìn con người trong chiến tranh của Nguyễn Thi vì thế vừa gần gũi vừa hấp dẫn đối với tâm lí độc giả nhiều thế hệ. Câu chuyện con người Việt Nam trong chiến tranh và sau chiến tranh mãi mãi là một chú đề hấp dẫn cho các nghệ sĩ, cho các nhà văn hóa đi sâu tìm hiểu và khám phá.
Lấy điểm tựa văn hóa gia đình để soi chiếu sức mạnh Việt Nam, nhà văn Nguyễn Thi đã gửi đến một thông điệp vừa giàu tính nhân văn vừa thẫm đẫm chất lãng mạn. Một thứ lãng mạn không ở vẻ rực rỡ mà ở chiều sâu của niềm tin bất diệt, niềm tin tất thắng.
III. Kết luận và kiến nghị
Đề tài “Hướng dẫn học sinh tiếp nhận truyện ngắn Những đứa con trong gia đình dưới góc nhìn văn hóa” là một hướng đọc hiểu góp phần bổ sung cho nội dung và phương pháp đọc hiểu của sách giáo khoa Ngữ văn hiện hành. Tính hiệu dụng của nó đã được chúng tôi áp dụng trong quá trình thiết kế giáo án và tổ chức hoạt động giờ dạy ở trên lớp. Góp phần khắc phục tình trạng giáo viên dạy đoạn trích một cách biệt lập với chỉnh thể tác phẩm và môi trường văn hóa mà truyện ra đời, chấm dứt cái nhìn thiên kiến thấy cây mà không thấy rừng của người dạy. Vì những lí do trên, đề tài đã được đăng trên Tạp chí Giáo dục Số 304 (kì 2-2/2013) và đăng ở Tập san Chào mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 của Sở GD&ĐT Hà Tĩnh.
Để góp phần bổ sung định hướng giờ đọc văn ở chương trình sách giáo khoa hiện hành, chúng tôi xin bổ sung hệ thống câu hỏi cho 02 tiết đọc hiểu trích đoạn Những đứa con trong gia đình như sau:
A. Chùm câu hỏi cho phần Tiểu dẫn và Đọc - hiểu khái quát:
Phần tiểu dẫn cung cấp nhũng nội dung thông tin nào giúp các em trong việc đọc - hiểu văn bản?
Cuộc đời của nhà văn có những điểm nào cần chú ý?
Vì sao Nguyễn Thi được mệnh danh là “nhà văn của người nông dân Nam Bộ” thời chống Mỹ?
Em hãy nêu tên một số tác phẩm tiêu biểu của tác giả.
Truyện “Những đứa con trong gia đình” được sáng tác trong hoàn cảnh nào?
Nêu xuất xứ của tác phẩm.
Em hãy tóm tắt cốt truyện.
Em hãy nêu vị trí và nội dung cơ bản của đoạn trích?
B. Chùm câu hỏi cho phần Đọc - hiểu chi tiết.
“Những đứa con trong gia đình” là một truyện ngắn hiện đại. Đọc hiểu thể loại truyện ngắn, theo em cần chú ý những phương diện nào của tác phẩm?
Em hãy nêu các lớp ý nghĩa của nhan đề truyện “Những đứa con trong gia đình”?
Em hãy nêu tóm tắt tình huống của truyện.
Các nhà nghiên cứu văn học thường chia tình huống truyện thành 3 loại: Tình huống hành động, tình huống nhận thức, tình huống tâm lí. Theo các em truyện “Những đứa con trong gia đình” thuộc loại tình huống nào?
Phân tích hiệu quả nghệ thuật của tình huống truyện “Những đứa con trong gia đình”?
Trong tác phẩm tự sự, căn cứ vào ngôn ngữ nhân vật trong truyện, có những phương thức trần thuật cơ bản nào?
Truyện “Những đứa con trong gia đình” được trần thuật theo phương thức nào?
Truyện chủ yếu trần thuật theo dòng hồi tưởng của nhân vật Việt, việc lựa chọn phương thức trần thuật này mang lại hiệu quả nghệ thuật gì?
So sánh những nét giống và khác nhau trong tính cách của nhân vật Chiến và Việt.
Trong đoạn trích có nhiều chi tiết cảm động, đặc sắc, em hãy lựa chọn chi tiết và trình bày cảm nhận của mình.
Qua đọc hiểu trích đoạn, em hãy rút ra chủ đề của tác phẩm và chỉ ra những nét đặc sắc về nghệ thuật.
So sánh nhân vật Chiến trong tác phẩm và nhân vật Dít trong truyện Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành.
IV. Tài liệu tham khảo
1. Nhật kí Nguyễn Ngọc Tấn, Nxb Hội Nhà Văn, H. 2005;
2. Phan Ngọc, Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, H. 2002;
3. Đỗ Lai Thúy, Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa, Nxb Văn hóa Thông tin, H. 2005.
4. Ngữ văn 12 – Ban Cơ bản, Nxb Giáo dục, H. 2007
5. Trần Đình Sử, Một nền Lí luận văn học hiện đại, Nxb Sư Phạm, H.2012
File đính kèm:
- SKKN Huong dan HS tiep nhan truyen Nhung dua con tronggia dinh.doc