Hướng dẫn ôn tập Lịch sử Lớp 12

Tình hình phân hoá xã hội

+ Đối với giai cấp địa chủ

Sau chiến tranh, giai cấp địa chủ tăng thêm về số lượng. Trước sau Pháp vẫn áp dụng chính sách dung dưỡng đối với địa chủ để làm chỗ dựa cho nền thống trị của chúng. Phần lớn địa chủ trở thành kẻ thù của cách mạng.

Tuy vậy cũng có một bộ phận, nhất là địa chủ vừa và nhỏ, có tinh thần yêu nước, tham gia các phong trào yêu nước khi có điều kiện.

+ Đối với giai cấp tư sản Việt Nam

Sau chiến tranh, tư sản Việt Nam lần lượt có mặt ở nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau mà phần lớn là các ngành dịch vụ, chế biến nông sản, công nghiệp nhẹ. Đáng kể có: Công ty Tiên Long thương đoàn (Huế), Hưng hiệp hội xã (Hà Nội), Công ty rượu Nam Đồng ích (Thanh Hoá), xưởng nấu xà phòng của Trương Văn Bền ở Sài Gòn. Cũng có người bỏ vốn vào khai thác mỏ (Bạch Thái Bưởi), trồng cao su (Lê Phát Vĩnh). Phát triển đến một mức nào đó thì họ phân hoá thành hai bộ phận:

- Tầng lớp tiểu tư sản mại bản bao gồm những người làm đại lý thương mại cho Pháp những nhà thầu khoán có quan hệ với đế quốc, có quyền lợi gắn liền với đế quốc nên câu kết chặt chẽ về chính trị với chúng, trở thành kẻ thù của cách mạng.

- Tầng lớp tư sản dân tộc có khuynh hướng kinh doanh độc lập. Do bị đế quốc, tư bản nước ngoài chèn ép về kinh tế, chính trị, tư sản dân tộc có mâu thuẫn nhất định với đế quốc và phong kiến, có khuynh hướng dân tộc dân chủ.

+ Giai cấp tiểu tư sản :

Giai cấp tiểu tư sản ra đời sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Họ bao gồm giáo viên, học sinh, sinh viên, viên chức, dân nghèo thành thị, những người buôn bán nhỏ, thợ thủ công và những người làm nghề tự do.

Họ bị đế quốc, phong kiến chèn ép, bạc đãi, khinh rẻ, đời sống bấp bênh, dễ bị xô đẩy vào con đường thất nghiệp. Trong tình trạng đó, tầng lớp trí thức, học sinh, sinh viên lại có điều kiện tiếp xúc với các trào lưu tư tưởng văn hoá tiến bộ ben ngoài nên có tinh thần hăng hái cách mạng. Đây là tầng lớp nhạy cảm về chính trị, yêu nước, gần gũi với công nông, nên họ là một bộ phận quan trọng trong lực lượng cách mạng Việt Nam.

+ Nông dân

Giai cấp nông dân là thành phần chiếm đại đa số trong xã hội, khoảng 90% dân số.

Nông dân là nạn nhân chủ yếu của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, gánh chịu hậu quả nặng nề của chính sách cướp đoạt ruộng đất, sưu cao thế nặng. Họ bị bần cùng hoá và phá sản trên quy mô lớn, họ sẵn sàng vùng dậy khi được tổ chức, lãnh đạo của một đường lối đúng đắn và trở thành lực lượng quan trọng đặc biệt hết sức to lớn của các mạng Việt Nam, người bạn đồng minh của giai cấp công nhân.

 

doc62 trang | Chia sẻ: trangtt2 | Ngày: 20/07/2022 | Lượt xem: 181 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Hướng dẫn ôn tập Lịch sử Lớp 12, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I: lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 -1930 Câu 1: Tình hình phân hoá xã hội Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất như thế nào? 1. Hoàn cảnh lịch sử + Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918) nền kinh tế của nước Pháp bị tàn phá nặng nề. Để bù đắp những thiệt hại to lớn do chiến tranh Pháp đã ra sức tăng cường bóc lột nhân dân lao động trong nước, đồng thời tăng cường đầu tư khai thác các thuộc địa đặc biệt là ở Việt Nam và Đông Dương. + Chính sách khai thác thuộc địa sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất của thực dân Pháp đã đưa tới những biến đổi về kinh tế và xã hội Việt Nam. Biến đổi về mặt xã hội là làm cho sự phân hoá giai cấp ở Việt Nam thêm nhanh chóng và sâu sắc hơn. Địa chủ phong kiến tăng lên về số lượng, nông dân thêm bần cùng hoá, công nhân đông hơn về số lượng, tư sản và tiểu tư sản ra đời. 2. Tình hình phân hoá xã hội + Đối với giai cấp địa chủ Sau chiến tranh, giai cấp địa chủ tăng thêm về số lượng. Trước sau Pháp vẫn áp dụng chính sách dung dưỡng đối với địa chủ để làm chỗ dựa cho nền thống trị của chúng. Phần lớn địa chủ trở thành kẻ thù của cách mạng. Tuy vậy cũng có một bộ phận, nhất là địa chủ vừa và nhỏ, có tinh thần yêu nước, tham gia các phong trào yêu nước khi có điều kiện. + Đối với giai cấp tư sản Việt Nam Sau chiến tranh, tư sản Việt Nam lần lượt có mặt ở nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau mà phần lớn là các ngành dịch vụ, chế biến nông sản, công nghiệp nhẹ.... Đáng kể có: Công ty Tiên Long thương đoàn (Huế), Hưng hiệp hội xã (Hà Nội), Công ty rượu Nam Đồng ích (Thanh Hoá), xưởng nấu xà phòng của Trương Văn Bền ở Sài Gòn..... Cũng có người bỏ vốn vào khai thác mỏ (Bạch Thái Bưởi), trồng cao su (Lê Phát Vĩnh). Phát triển đến một mức nào đó thì họ phân hoá thành hai bộ phận: - Tầng lớp tiểu tư sản mại bản bao gồm những người làm đại lý thương mại cho Pháp những nhà thầu khoán có quan hệ với đế quốc, có quyền lợi gắn liền với đế quốc nên câu kết chặt chẽ về chính trị với chúng, trở thành kẻ thù của cách mạng. - Tầng lớp tư sản dân tộc có khuynh hướng kinh doanh độc lập. Do bị đế quốc, tư bản nước ngoài chèn ép về kinh tế, chính trị, tư sản dân tộc có mâu thuẫn nhất định với đế quốc và phong kiến, có khuynh hướng dân tộc dân chủ. + Giai cấp tiểu tư sản : Giai cấp tiểu tư sản ra đời sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Họ bao gồm giáo viên, học sinh, sinh viên, viên chức, dân nghèo thành thị, những người buôn bán nhỏ, thợ thủ công và những người làm nghề tự do. Họ bị đế quốc, phong kiến chèn ép, bạc đãi, khinh rẻ, đời sống bấp bênh, dễ bị xô đẩy vào con đường thất nghiệp. Trong tình trạng đó, tầng lớp trí thức, học sinh, sinh viên lại có điều kiện tiếp xúc với các trào lưu tư tưởng văn hoá tiến bộ ben ngoài nên có tinh thần hăng hái cách mạng. Đây là tầng lớp nhạy cảm về chính trị, yêu nước, gần gũi với công nông, nên họ là một bộ phận quan trọng trong lực lượng cách mạng Việt Nam. + Nông dân Giai cấp nông dân là thành phần chiếm đại đa số trong xã hội, khoảng 90% dân số. Nông dân là nạn nhân chủ yếu của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, gánh chịu hậu quả nặng nề của chính sách cướp đoạt ruộng đất, sưu cao thế nặng. Họ bị bần cùng hoá và phá sản trên quy mô lớn, họ sẵn sàng vùng dậy khi được tổ chức, lãnh đạo của một đường lối đúng đắn và trở thành lực lượng quan trọng đặc biệt hết sức to lớn của các mạng Việt Nam, người bạn đồng minh của giai cấp công nhân. + Giai cấp công nhân: Giai cấp công nhân ra đời sớm, lúc này có sự phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng. Trước chiến tranh số lượng chỉ có khoảng 10 vạn người. Đến năm 1929, số công nhân làm việc thường xuyên cho tư bản Pháp lên tới 22 vạn người, sông tập trung tại các trung tâm kinh tế quan trọng của thực dân Pháp. Giai cấp công nhân Việt Nam có đầy đủ những đức tính, phẩm chất của giai cấp vô sản quốc tế (đại biểu cho lực lượng sản xuất tiến bộ nhất của xã hội, điều kiện lao động và sinh sống tập trung...) Giai cấp công nhân nước ta có những đặc điểm riêng: - Chịu 3 tầng áp bức bóc lột của đế quốc, phong kiến, tư sản bản xứ nên có tinh thần triệt để cách mạnh nhất và đại diện cho quyền lợi của cả dân tộc. - Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, có điều kiện thuận lợi vươn lên giành quyền lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc. - Không có sự khác biệt lớn về ngôn ngữ, thành phần dân tộc và không có tầng lớp công nhân quý tộc, là một giai cấp thuần nhất do đó không có sự phân biệt về tư tưởng, tổ chức. - Phần lớn xuất thân từ nông dân và có mọi liên hệ thường xuyên, chặt chẽ với nông dân, có điều kiện xây dựng mối liên minh bền vững với lực lượng xã hội đông đảo này. - Ra đời trong lòng một dân tộc giàu truyền thống yêu nước nên kế thừa được những di sản tinh thần tốt đẹp để bồi đắp tinh thần cách mạng. - Sớm tiếp thu được chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm của phong trào công nhân quốc tế do lãnh tụ Nguyễn ái Quốc truyền bá vì vật nhanh chóng chuyển hoá từ giai cấp tự phát thành giai cấp tự giác. Do những đặc điểm trên đã góp phần tạo nên phẩm chất chính trị và năng lực cách mạng, giúp giai cấp công nhân có đủ điều kiện trở thành giai cấp duy nhất lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Câu 2: Trình bày phong trào dân chủ công khai (1919 - 1926) a. Phong trào đấu tranh của giai cấp tư sản dân tộc + Trong quá trình hình thành và phát triển, tư sản dân tộc Việt Nam luôn bị tư sản nước ngoài cạnh tranh, chèn ép. Vì vậy họ đã tham gia các phong trào dân tộc dân chủ sau chiến tranh. Giai cấp tư sản dân tộc muốn nhân đà làm ăn thuận lợi vươn lên giành lấy vị trí khá hơn trong nền kinh tế Việt Nam. + Đấu tranh kinh tế: - Để chống lại sự cạnh tranh của tư sản Hoa Kiều, họ đã phát động những phong trào chấn hưng nội hoá, bài trừ ngoại hoá (1919). Họ nêu ra khẩu hiệu: "Người An Nam không gánh vàng đi đổ sông Ngô", "Người An Nam mua bán với người An Nam". - Đấu tranh chống độc quyền thương cảng Sài Gòn và độc quyền xuất cảng lúa gạo Nam Kỳ của tư sản Pháp (1923)..... + Đấu tranh chính trị: - Cùng với những hoạt động kinh tế, giai cấp tư sản cũng đã dùng báo chí để bênh vực quyền lợi của mình. - Một số nhà tư sản và địa chủ lớn trong Nam (đại biểu là Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long....) tổ chức Đảng Lập hiến để tập hợp lực lượng, rồi đưa ra một số khẩu hiệu đòi tự do dân chủ để tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng làm áp lực đối với Pháp. Nhưng khi được thực dân Pháp nhượng bộ cho ít quyền lợi (như được tham gia Hội đồng quản hạt Nam kỳ, hoặc Viện dân biểu Bắc Kỳ) thì họ lại sẵn sàng thoả hiệp, vì vậy đã bị phong trào quần chúng vượt qua. b. Phong trào đấu tranh của tầng lớp tiểu tư sản: + Các tầng lớp tiểu tư sản trí thức (gồm sinh viên trường Cao đẳng Hà Nội, học sinh, giáo viên, nhà văn, nhà báo...), bị đế quốc phong kiến khinh rẻ, bạc đãi, họ căm thù đế quốc phong kiến nên đã tham gia các phong trào đấu tranh đòi những quyền tự do dân chủ hăng hái chống lại cường quyền áp bức. Đấu tranh trên lĩnh vực chính trị Họ được tập hợp trong những tổ chức chính trị, như Việt Nam nghĩa đoàn, hội Phục Việt, hội Hưng Nam, đảng Thanh Niên...(đại biểu là Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai, Trần Huy Liệu, Nguyễn An Ninh....) Họ có nhiều hoạt động phong phú và sôi nổi (mít tinh, biểu tình, bãi khoá...) nhằm đấu tranh đòi các quyền tự do dân chủ. Đấu tranh báo chí: Họ đã ra những tờ báo tiến bộ "Chuông rè", "An Nam trẻ", "Người nhà quê".... lập ra các nhà xuất bản tiến bộ: "Nam Đồng thư xã" (Hà Nội), "Cường học thư xã" (Sài Gòn)... để phản ánh các nguyện vọng về tự do dân chủ của quần chúng, tuyên truyền tư tưởng văn hoá tiến bộ. Tổ chức các hoạt động dân chủ công khai: Họ có nhiều hoạt động phong phú và sôi nổi (mít tinh, biểu tình, bãi khoá...) nhằm đấu tranh đòi các quyền tự do dân chủ. Trong cao trào yêu nước dân chủ công khai hồi đó có sự kiện nổi bật là cuộc đấu tranh đòi nhà cầm quyền Pháp thả Phan Bội Châu (1925), tổ chức đám tang Phan Châu Trinh (1926). Câu 3: Vai trò của Nguyễn ái Quốc đối với việc thành lập Đảng của giai cấp vô sản ở Việt Nam. 1. Hành trình tìm đường cứu nước: + Người sinh ngày 19/5/1890 tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An trong gia đình nhà nho yêu nước. Người thanh niên Nguyễn Tất Thành sớm có lòng yêu nước và cũng sớm nhận thấy những hạn chế trong chủ trương cứu nước của các vị tiền bối nên đã quyết định sang Phương Tây tìm con đường cứu nước mới. + Ngày 5 - 6 - 1911 Người đi tìm đường cứu nước từ cảng Nhà Rồng (Sài Gòn nay là TP. HCM). Người lấy tên là Văn Ba, làm phụ bếp cho tầu vận tải Latusơ Tơrêvin sang Pháp cấp bến cảng Mac Xây ngày 6/7/1911. Trên đường đi, Người có ghé qua cảng Colôngbô (Xâylan), cảng Poxait (Ai Cập)....Sau những năm bôn ba qua nhiều nước TBCN và thuộc địa, và làm nhiều nghề khác nhau, Người đã nhận thấy kẻ thù của cách mạng là bọn đế quốc và lực lượng của cách mạng là giai cấp công nhân. + Tháng 11/1917, CM tháng 10 Nga thành công đã ảnh hưởng quyết định đến xu hướng hoạt động của Người. + 1919 Người lấy tên Nguyễn ái Quốc, gửi đến hội nghị Vecxai (của các nước đế quốc) bản yêu sách 8 điểm về quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. Sự kiện đó đã thức tỉnh ý thức đấu tranh của nhân dân ta. + Tháng 7/1920, Người đọc "Sơ thảo luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa" của Lênin và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc ta là CMVS. + Tháng 12/1920 Người tham gia hội nghị Tua (của Đảng xã hội Pháp), Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ ba, tham gia sáng lập ĐCS Pháp và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Như vậy sau nhiều năm bôn ba hải ngoại, Người đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn: kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, kết hợp độc lập dân tộc với CNXH. 2. Nguyễn ái Quốc chuẩn bị cho việc thành lập Đảng cộng sản(1920 - 1930) a. Thời kỳ ở Pháp (1920 - 1923) + 1921: Người cùng với một số nhà yêu nước ở các thuộc địa Pháp sáng lập "Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa" để xây dựng tình đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân thuộc địa thế giới. + 1922: Người xây dựng báo "Lơ Paria" (Người cùng khổ). Trong thời gian ở Pháp, Người viết nhiều bài đăng trên báo "nhân đạo" cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Pháp), báo "Đời sống công nhân" (của Tổng liên đoàn lao động Pháp). Người viết vở kịch "Con Rồng tre" để chế giễu tên vua bù nhìn Khải Định khi hắn sang Pháp. Song tiêu biểu nhất là cuốn "Bản án chế độ thực dân Pháp". Những sách báo do Người viết một mặt tố cáo tội ác của bọn đế quốc, nhất là đế quốc Pháp ở Đông Dương, mặt khác khích lệ lòng yêu nước cho đồng bào, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin và vận động quần chúng đấu tranh. b. Thời kỳ ở Liên Xô (1923 - 1924) + Tháng 6 - 1923, Nguyễn ái Quốc bí mật rời Pháp đi Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế nông dân (10/1923). Trong thời gian này, Người viết nhiều bài báo đăng trên tờ "Sự thật" cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sant Liên Xô, tạp chí "Thư tín quốc tế" của Quốc tế cộng sản. + Người còn dự nhiều hội nghị quốc tế quan trọng như Đại hội lần thứ V của Quốc tế cộng sản (1924), các Đại hội của Quốc tế thanh niên, Quốc tế phụ nữ... + Tại Đại hội V Quốc tế cộng sản (7/1924). Người đã trình bày lập trường quan điểm của mình về vị trí chiến lược cách mạng các nước thuộc địa, mối quan hệ giữa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản chính quốc, về vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông dân ở các nước thuộc địa... c. Thời kỳ ở Trung Quốc (1924 - 1928) + Tháng 11/1924 Nguyễn ái Quốc từ Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc) để tập hợp những người yêu nước của Việt Nam, truyền bá, giáo dục cho họ chủ nghĩa Mac - Lênin. + Tháng 2/1925, Người thành lập nhóm cộng sản đoàn. Trên cơ sở ấy tháng 6/1925, Người thành lập "Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng". Người lập báo "Thanh niên" (21/6/1925) để truyền bá chủ nghĩa Mac - Lênin về nước. + Tháng 7/1925, Người tham gia sáng lập "Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức á Đông" để xây dựng tình đoàn kết giữa cách mạng các nước trong khu vực. + Từ 1924 đến 1927, tại Quảng Châu, Người đã mở nhiều lớp huấn luyện ngắn ngày được đào tạo được 75 cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Sau đó một số cán bộ được cử đi học tập ở Liên Xô, Một số học ở trường quân sự Hoàng Phố của Trung Quốc, còn lại được đưa về nước để hoạt động cách mạng. + Năm 1928, Người phát động phong trào "Vô sản hoá" đưa các cán bộ đã đào tạo về nước hoạt động cách mạng. Những bài giảng của Người sau này tập hợp trong cuốn "Đường Cách mệnh" (xuất bản lần đầu vào năm 1927). Những quan điểm cứu nước là: - Chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù chung của giai cấp vô sản và nhân dân các thuộc địa. Chỉ có làm cách mạng đánh đổ chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thì mới giải phóng được giai cấp vô sản và nhân dân các thuộc địa. Do đó cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa của mối quan hệ gắn bó với nhau. - Lực lượng cách mạng chủ yếu để đánh đổ ách thống trị của đế quốc là công nhân và nông dân. - Giai cấp công nhân có đủ khả năng lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong của mình là Đảng cộng sản theo chủ nghĩa Mác - Lênin. - Giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Báo Thanh niên và sách Đường cách mệnh đã vũ trang lý luận cách mạng cho cán bộ của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, tuyên truyền vào giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân Việt Nam, kết nạp hội viên, thành lập tổ chức cơ sở của hội. d. Sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam + Phong trào công nhân và phong trào yêu nước lên cao đòi hỏi phải thành lập Đảng cộng sản để đủ sức lãnh đạo cuộc đấu tranh. Từ đó dẫn đến sự phá sản các tổ chức "Thanh niên" và "Tân Việt" để thành lập 3 tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929); An Nam Cộng sản Đảng (7/1929) và Đông Dương Cộng sản liên đoàn (9/1929). + Đến cuối năm 1929, ở Việt Nam có ba tổ chức cộng sản, hoạt động riêng rẽ và còn công kích lẫn nhau. Tình hình đó càng kéo dài, càng bất lợi cho cách mạng. Yêu cầu khách quan đòi hỏi các tổ chức cộng sản phải hợp nhất mới đủ sức lãnh đạo cách mạng. + Được sự uỷ nhiệm của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn ái Quốc triệu tập hội nghị gồm đại biểu các tổ chức cộng sản trong nước để bàn về việc hợp nhất thành một Đảng. Hội nghị diễn ra từ ngày mồng 3 đến ngày 7/02/1930 tại Cửu Long thuộc Hương Cảng - Trung Quốc, do Nguyễn ái Quốc chủ trì. Ngày 3/02/1930, Đảng đã ra đời, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong hội nghị này Nguyễn ái Quốc còn thảo ra những văn kiện quan trọng, được hội nghị thông qua: "Chính cương vắn tắt", và "Sách lược vắn tắt", "Điều lệ vắn tắt", "Chương trình hành động vắn tắt". Tuy còn sơ sài, song là những văn kiện vạch ra những nét cơ bản nhất về đường lối chiến lược và sách lược cho cách mạng Việt Nam. Câu 4: Trình bày quá trình từ tự phát đến tự giác của giai cấp công nhân Việt Nam (1919 - 1930) 1. Nguyên nhân: + Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời ngay từ khi thực dân Pháp thực hiện chương trình khai thác thuộc địa. Từ sau CTTG I, giai cấp công nhân Việt Nam đã phát triển nhanh về số lượng. + Bị áp bức về giai cấp và áp bức về dân tộc, nên đời sống vật chất tinh thần của giai cấp công nhân Việt Nam hết sức thấp kém và khổ cực nên đã đấu tranh. 2. Quá trình phát triển của phong trào công nhân Việt Nam: a. Từ 1919 đến 1925 + Có 25 vụ đấy tranh riêng rẽ và có quy mô tương đối lớn, nhưng mục tiêu đấu tranh còn nặng về kinh tế, chưa có sự phối hợp giữa các nơi, mới chỉ là một trong các lực lượng tham gia phong trào dân tộc, dân chủ, cuộc đấu tranh còn mang tính chất tự phát. + Mở đầu là cuộc bãi công của thuỷ thủ Hải Phòng, Sài Gòn đòi phụ cấp đắt đỏ. + Năm 1920, công nhân Sài Gòn, Chợ Lớn đã thành lập Công hội (bí mật) do Tôn đức Thắng đứng đầu. + Năm 1921, một số công nhân, thuỷ thủ Việt Nam làm việc trên các tàu của Pháp gia nhập Liên đoàn công nhân tàu biển Viễn Đông. + Năm 1922, công nhân viên chức Bắc Kỳ đòi chủ phải cho nghỉ ngày chủ nhật có trả lương. Cùng năm đó, còn có cuộc bãi công của công nhân thợ Nhuộm ở Chợ Lớn đòi tăng lương. + Từ năm 1924, nhiều cuộc bãi công của thợ nhà máy đèn, xát gạo, rượu, dệt ở Nam Định, Hà Nội, Hải Dương nổ ra. + Đặc biệt vào năm 1925, cuộc bãi công của thợ máy sửa chữa tàu thuỷ của xưởng Ba Son (Sài Gòn) đã ngăn không cho tàu Pháp đưa lính sang tham gia đàn áp cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Trung Quốc và các thuộc địa Pháp ở Châu Phi. Sự kiện đó, đánh dấu bước tiến mới của phong trào công nhân Việt Nam, giai cấp công nhân nước ta từ đây bước đầu đi vào đấu tranh tự giác. Qua cuộc bãi công này thấy rõ tư tưởng cách mạng tháng mười Nga 1917 đã thâm nhập vào công nhân Việt Nam đã biến thành hành động của giai cấp công nhân Việt Nam. Nhận xét: Phong trào công nhân thời kỳ 1912 - 1925 diễn ra còn lẻ tẻ tự phát song ý thức giai cấp đã phát triển lên rõ rệt. Phong trào công nhân chưa có sự phối hợp giữa công nhân các ngành và địa phương, mục tiêu đấu tranh chủ yếu vẫn là đòi quyền lợi kinh tế hàng ngày. Nhìn chung, phong trào công nhân giai đoạn này còn mang tính tự phát. b. Từ 1926 - 1929 Hoàn cảnh Trên thế giới, cách mạng dân tộc, dân chủ ở Trung Quốc phát triển mạnh mẽ với những bài học kinh nghiệm về sự thất bại của Công xã Quảng Châu 1927. Đại hội V của Quốc tế cộng sản với những nghị quyết quan trọng về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa. Trong nước, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và Tân Việt đã đẩy mạnh hoạt động trong phong trào công nhân (mở lớp huấn luyện cán bộ), ra báo "Thanh niên", Nguyễn ái Quốc viết cuốn "Đường cách mệnh", phong trào "Vô sản hoá".... Phong trào đấu tranh: + Trong hai năm 1926 - 1927, ở nước ta đã liên tiếp nổ ra nhiều cuộc bãi công của công nhân, học sinh học nghề. Lớn nhất là cuộc bãi công của 1000 công nhân nhà máy sợi Nam Định, của 500 công nhân đồn điền cao su Cam Tiêm, tiếp đến là bãi công của công nhân đồn điền cà phê Rayna, đồn điền cao su Phú Riềng. + Trong hai năm 1928 - 1929, có khoảng 40 cuộc bãi công của công nhân nổ ra từ Bắc chí Nam. Tiêu biểu là: + Năm 1928, bãi công của công nhân nổ ra ở mỏ than Mạo Khê, nhà máy nước đá La - ruy (Sài Gòn), đồn điền Lộc Ninh, nhà máy cưa Bến Thuỷ, nhà máy xi măng Hải Phòng, đồn điền cao su Cam Tiêm, nhà máy Tơ Nam Định.... + Năm 1929, bãi công của công nhân nổ ra ở nhà máy chai Hải Phòng, nhà máy xe lửa Trường Thi (Vinh), nhà máy AVIA (Hà Nội), nhà máy điện Nam Định, dệt Nam Định, đồn điền cao su Phú Riềng v.v: Nhận xét: Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân trong thời gian này nổ ra liên tục, rộng khắp. Nhiều nhà máy, xí nghiệp thành lập được công hội đỏ. Đặc biệt công nhân Nam Kỳ đã bắt đầu liên lạc với Tổng liên đoàn lao động Pháp. Các cuộc đấu tranh đã có sự phối hợp và có sự lãnh đạo khá chặt chẽ, khẩu hiệu đấu tranh được nâng lên dần: đòi tăng lương, thực hiện chế độ ngày làm 8 giờ, phản đối đánh đập...Phong trào đấu tranh với nhiều hình thức , ngoài mục tiêu kinh tế phong trào thời kỳ này mang hình thức đấu tranh chính trị, mang tính tự giác. c. Sự ra đời của các tổ chức chính trị Phong trào công nhân ngày càng lên cao đòi hỏi tổ chức lãnh đạo cũng phải cao hơn mới đáp ứng được yêu cầu của cách mạng. Vì vậy, dẫn đến sự tan vỡ của tổ chức Thanh Niên và Tân Việt, xuất hiện ba tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (7/1929) và Đông Dương Cộng sản liên đoàn (9/1929). Đến ngày 3/02/1930 ba tổ chức đó được thống nhất lại thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự kiện đó đánh dấu phong trào công nhân đã hoàn toàn phát triển tự giác. Câu 5: Trình bày quá trình hình thành ba tổ chức Cộng sản ở Việt Nam trong năm 1929? 1. Hoàn cảnh ra đời Phong trào cách mạng thế giới trong những năm 1924 - 1927 phát triển mạnh mẽ. Cách mạng Trung Quốc phát triển với trung tâm là Công xã Quảng Châu và Nghị quyết của Đại hội V Quốc tế Cộng sản đã ảnh hưởng đến phong trào cách mạng nước ta. Từ khi được hướng dẫn của các tổ chức cách mạng (Thanh niên, Tân việt, Công hội v.v...), phong trào công nhân ngày càng phát triển đã tiến lên tự giác, ý thức giai cấp, tính tổ chức và đoàn kết của giai cấp công nhân ngày càng cao. Đến năm 1929, phong trào công nhân, phong trào nông dân và các tầng lớp khác cũng đã phát triển, kết hợp thành một làn sóng cách mạng dân tộc, dân chủ mạnh mẽ trong đó giai cấp công nhân đã trở thành lực lượng tiên phong. Từ ba đòi hỏi phải có một chính đảng vô sản lãnh đạo. 2. Sự xuất hiện của ba tổ chức Cộng sản * Sự thành lập ĐDCSĐ + Cuối tháng 3/1929, với sự nhạy cảm về chính trị, một số hội viên tiên tiến của HVNTNCM ở Bắc Kỳ đã họp tại số nhà 5D phố Hàm Long (Hà Nội) lập ra chi bộ cộng sản đầu tiên có 7 đảng viên. Chi bộ đã mở rộng cuộc vận động để thành lập một Đảng Cộng sản nhằm thay thế cho HVMTNCM. + Từ 1 đến 9 /5/1929, Đại hội lần thứ nhất của HVNCMTN họp ở Hương Cảng, đoàn đại biểu Bắc Kỳ đặt vấn đề thành lập Đảng Cộng sản để thay thế cho HVNCMTN, ý kiến đó không được đại hội chấp nhận nên đoàn bỏ đại hội về nước. + Ngày 17/6/1929, đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở miền Bắc họp tại nhà số 312 Khâm Thiên (Hà Nội) thành lập ĐDCSĐ, thông qua tuyên ngôn. Điều lệ, ra báo Búa liềm và cử ra BCHTW của Đảng. Sự thành lập ĐDCSĐ đã thúc đẩy trực tiếp cho sự ra đời nhanh chóng của ANCSLĐ trong những tháng tiếp theo. * Sự thành lập ANCSĐ Sau khi ĐDCSĐ ra đời, các cán bộ lãnh đạo tiên tiến trong Tổng bộ HVNCMTN và Kỳ Bộ ở Nam Kỳ đã quyết định ANCSĐ tháng 7/1929. Đảng có một chi bộ hoạt động ở Trung Quốc và một chi bộ hoạt động ở Nam Kỳ. Tờ báo Đỏ là cơ quan ngôn luận của Đảng. ANCSĐ đã tích cực vận động để hợp nhất với ĐDCSĐ, liên lạc với Quốc tế Cộng sản. Đảng cũng thúc đẩy mạnh cuộc vận động phát triển Đảng. * Sự thành lập ĐDCSLĐ Tổ chức Tân Việt có nguồn gốc từ hội Phục Việt (1925), đổi thành Hưng Nam (Tháng 11/1925), đổi thành VNCMĐ (7/1926), VNCMĐCH (7/1927), TVCMĐ (14/7/1928). Nhiều Đảng viên tiên tiến của Tân Biệt chịu ảnh hưởng của khuynh hướng cách mạng vô sản đã tích cực vận động lập các chi bộ cộng sản. Tháng 9/1929, những người cộng sản trong Tân Việt công bố trước toàn thể đảng viên cùng những người lao động biết ĐDCSLĐ đã chính thức thành lập. ĐDCSLĐ lấy chủ nghĩa cộng sản làm nền tảng, lấy công nông binh làm đối tượng vận động, đấu tranh cho Đông Dương độc lập, xoá bỏ nạn người bóc lột người, xây dựng chế độ công nông chuyên chính, tiến lên chủ nghĩa cộng sản. 3. ý nghĩa lịch sử + Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản trong năm 1929 là sản phẩm rất yếu của lịch sử, là một xu thế khách quan của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.Nó chứng tỏ hệ tư tưởng vô sản đã giành được ưu thế trong phong trào dân tộc + Đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của giai cấp công nhân Việt Nam từ tự phát đến tự giác. Chuẩn bị những điều kiện tiến tới thành lập một chính Đảng cộng sản duy nhất ở Việt Nam. giai đoạn 1930 -1945 Câu 6: Trình bày hội nghị thành lập Đảng 3/02/1930 1. Hoàn cảnh lịch sử + Trong năm 1929, phong trào công nhân phát triển mạnh, ý thức chính trị rõ rệt. Các tổ chức cộng sản trên đã nhanh chóng xây dựng cơ sở Đảng trong nhiều địa phương và trực tiếp lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân. Phong trào công nhân kết hợp chặt chẽ với phong trào nông dân và các tầng lớp khác thành một làn sóng cách mạng dân tộc dân chủ khắp cả nước trong đó giai cấp công nhân thực sự trở thành lực lượng tiên phong. + Ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam: Đông Dương cộng sản đảng; An Nam cộng sản đảng và Đông Dương cộng sản liên đoàn hoạt động riêng rẽ, công kích lẫn nhau, tranh giành quần chúng của nhau, gây nên một trở ngại lớn cho phong trào cách mạng. Yêu cầu bức thiết của cách mạng lúc này là phải có một chính đảng cộng sản thống nhất trong cả nước. + Cuối năm 1929, được sự uỷ nhiệm của Quốc tế cộng sản, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc từ Xiêm về Hương Cảng (Trung Quốc) triệu tập Hội nghị đại biểu của ba tổ chức cộng sản. Hội nghị họp từ ngày 3 đến 7/2/1930 ở Cửu Long - Hương Cảng - Trung Quốc. Tham dự có 2 đại biểu của ĐDCSĐ, 2 đại biểu ANCSĐ và dưới sự chủ trò của NAQ. 2. Nội dung hội nghị Tại hội nghị, Người đã phân tích tình hình thế giới và trong nước, phê phán những hành động thiếu thống nhất vừa qua và đề nghị thống nhất thành một Đảng duy nhất. Hội nghị đã nhất trí: + Bỏ mọi thành kiến, thành thật hợp tác. + Thống nhất các tổ chức cộng sản để thành lập một Đảng duy nhất lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam. + Thông qua chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ vắn tắt do Nguyễn ái Quốc khởi thảo. Nội dung của "Chính cương vắn tắt", "Sách lược vắn tắt": 1. Phương hướng của cách mạng là:cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng XHCN. Hai giai đoạn này kế tiếp nhau, không có bức tường nào ngăn cách. Cương lĩnh viết: "Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Ngay từ đầu, Đảng ta đã thấu suốt con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là kết hợp vàgiương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. 2. Về nhiệm vụ của cách mạng: chống đế quốc xâm lược, chống vua quan phong kiến, tư sản phản Cách mạng. Giành độc lập dân tộc, tự do dân chủ, ruộng đất cho dân cày, thành lập chính phủ công nông binh. Các nhiệm vụ đó bao hàm cả nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và phong kiến, nhưng nổi bật lên là nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai phản độ

File đính kèm:

  • dochuong_dan_on_tap_lich_su_lop_12.doc