Năm học 2006 – 2007 là năm thứ năm thực hiện chương trình thay sách giáo khoa và được triển khai đại trà trên toàn quốc. Trong bối cảnh ngành Giáo dục và Đào tạo đang nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh. Phương pháp dạy học được coi là cách thức hoạt động của giáo viên khi tổ chức các hoạt động học tập, nhằm giúp học sinh đạt được các mục tiêu dạy học. để thực hiện công cuộc đổi mới giáo dục đòi hỏi phải có sự đầu tư quan tâm thích đáng từ nhiều mặt. Chương trình ngữ văn 9 của THCS được xây dựng theo nguyên tắc tích hợp. Theo chương trình này, ba phân môn: Văn – Tiếng Việt và Tập làm văn được thống nhất lại thành một môn học, gọi là môn Ngữ văn. Coi trọng tính thực hành, sách giáo khoa Ngữ Văn 9 đã tập trung theo hướng phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập, trong đó phần Tiếng Việt và lí thuyết Tập làm văn đã được coi trọng.
Qua thực tế giảng dạy, tôi đã nhận thức rõ: Tiếng Việt là phân môn nền tảng, là công cụ giao tiếp quan trọng trong đời sống và là cơ sở cho các môn học trong hệ thống trường phổ thông. Từ sự vận dụng Tiếng Việt trong việc lý giải vẻ đẹp và hiệu quả của nghệ thuật ngôn từ trong tác phẩm văn học, trong Tập Làm Văn và giao tiếp hằng ngày. Học sinh sẽ tự nâng cao các tri thức Tiếng Việt và Văn học để tạo lập các kiểu văn bản nói và văn bản viết.
Như vậy sản phẩm của Tập Làm Văn là căn cứ cơ bản để đánh giá kết quả việc học Tiếng Việt và Văn học của học sinh để hướng tới kỹ năng cơ bản: đọc, nói, viết mà chương trình đã đặt ra. Chính từ việc nhận thức được tầm quan trọng như trên, tôi xin một vài ý kiến về việc giảng dạy tích hợp đối với môn Ngữ văn lớp 9.
Dạy học theo nguyên tắc tích hợp ở Ngữ văn 9 có một sự liên hệ chặt chẽ với những kiến thức đã học ở bậc Tiểu học: từ thực tiễn giảng dạy, tôi nhận thấy sự tiếp thu kiến thức và khả năng thực hành cảu học sinh khi học ở THCS còn nhiều hạn chế. Do vậy khi đưa những câu hỏi tích hợp từ kiến thức ở Tiểu học để hình thành, củng cố, khắc sâu kiến thức cho học sinh. Tích hợp là một vấn đề rất lớn không riêng gì đối với môn Ngữ văn. Tuy nhiên, môn Ngữ văn có nhiều điều kiện thuận lợi để thực hiện trước một bước. Văn học – Tiếng Việt và Tập làm văn đều có một yếu tố chung là Tiếng Việt, dù dạy văn học, Tiếng Việt hay Tập làm văn thì tất cả đều do một giáo viên đảm nhiệm và người giáo viên đó do một khoa đào tạo. Dĩ nhiên, việc cải tiến chương trình Ngữ Văn theo hướng tích hợp có vận dụng kinh nghiệm của nhiều nước, song trước hết là xuất phát từ thực tiễn giáo dục của Việt Nam. Việc tách môn văn thành 3 phân môn trên 20 năm qua tuy đưa lại một số kinh nghiệm nhất định song đã ngày càng bộc lộ nhiều nhược điểm, đặc biệt ở bậc THCS. Hướng phấn đấu bao quát cua việc thực hiện chương trình môn Ngữ văn theo tinh thần tích hợp là làm sao kết hợp được thật tốt việc hình thành 4 kĩ năng: Nghe, nói, viết. Chương trình viết không nhằm mục đích riêng cho từng phân môn mà chỉ viết mục tiêu chung cho môn Ngữ văn chính là vì thế
9 trang |
Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 1169 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về phương pháp giảng dạy tích hợp đối với Ngữ văn 9, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Một số vấn đề về phương pháp giảng dạy tích hợp đối với ngữ văn 9
Phần thứ nhất
I .Lý do chọn đề tài
Năm học 2006 – 2007 là năm thứ năm thực hiện chương trình thay sách giáo khoa và được triển khai đại trà trên toàn quốc. Trong bối cảnh ngành Giáo dục và Đào tạo đang nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh. Phương pháp dạy học được coi là cách thức hoạt động của giáo viên khi tổ chức các hoạt động học tập, nhằm giúp học sinh đạt được các mục tiêu dạy học. để thực hiện công cuộc đổi mới giáo dục đòi hỏi phải có sự đầu tư quan tâm thích đáng từ nhiều mặt. Chương trình ngữ văn 9 của THCS được xây dựng theo nguyên tắc tích hợp. Theo chương trình này, ba phân môn: Văn – Tiếng Việt và Tập làm văn được thống nhất lại thành một môn học, gọi là môn Ngữ văn. Coi trọng tính thực hành, sách giáo khoa Ngữ Văn 9 đã tập trung theo hướng phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập, trong đó phần Tiếng Việt và lí thuyết Tập làm văn đã được coi trọng.
Qua thực tế giảng dạy, tôi đã nhận thức rõ: Tiếng Việt là phân môn nền tảng, là công cụ giao tiếp quan trọng trong đời sống và là cơ sở cho các môn học trong hệ thống trường phổ thông. Từ sự vận dụng Tiếng Việt trong việc lý giải vẻ đẹp và hiệu quả của nghệ thuật ngôn từ trong tác phẩm văn học, trong Tập Làm Văn và giao tiếp hằng ngày. Học sinh sẽ tự nâng cao các tri thức Tiếng Việt và Văn học để tạo lập các kiểu văn bản nói và văn bản viết.
Như vậy sản phẩm của Tập Làm Văn là căn cứ cơ bản để đánh giá kết quả việc học Tiếng Việt và Văn học của học sinh để hướng tới kỹ năng cơ bản: đọc, nói, viết mà chương trình đã đặt ra. Chính từ việc nhận thức được tầm quan trọng như trên, tôi xin một vài ý kiến về việc giảng dạy tích hợp đối với môn Ngữ văn lớp 9.
Dạy học theo nguyên tắc tích hợp ở Ngữ văn 9 có một sự liên hệ chặt chẽ với những kiến thức đã học ở bậc Tiểu học: từ thực tiễn giảng dạy, tôi nhận thấy sự tiếp thu kiến thức và khả năng thực hành cảu học sinh khi học ở THCS còn nhiều hạn chế. Do vậy khi đưa những câu hỏi tích hợp từ kiến thức ở Tiểu học để hình thành, củng cố, khắc sâu kiến thức cho học sinh. Tích hợp là một vấn đề rất lớn không riêng gì đối với môn Ngữ văn. Tuy nhiên, môn Ngữ văn có nhiều điều kiện thuận lợi để thực hiện trước một bước. Văn học – Tiếng Việt và Tập làm văn đều có một yếu tố chung là Tiếng Việt, dù dạy văn học, Tiếng Việt hay Tập làm văn thì tất cả đều do một giáo viên đảm nhiệm và người giáo viên đó do một khoa đào tạo. Dĩ nhiên, việc cải tiến chương trình Ngữ Văn theo hướng tích hợp có vận dụng kinh nghiệm của nhiều nước, song trước hết là xuất phát từ thực tiễn giáo dục của Việt Nam. Việc tách môn văn thành 3 phân môn trên 20 năm qua tuy đưa lại một số kinh nghiệm nhất định song đã ngày càng bộc lộ nhiều nhược điểm, đặc biệt ở bậc THCS. Hướng phấn đấu bao quát cua việc thực hiện chương trình môn Ngữ văn theo tinh thần tích hợp là làm sao kết hợp được thật tốt việc hình thành 4 kĩ năng: Nghe, nói, viết. Chương trình viết không nhằm mục đích riêng cho từng phân môn mà chỉ viết mục tiêu chung cho môn Ngữ văn chính là vì thế. Để giải quyết một điểm nào đó trong yêu cầu của chương trình đều phải có sự đóng góp hợp lực của cả 3 phân môn. không nên quan diểm “Tích hợp là phương pháp dùng để rút bớt môn học hoặc biện pháp nhằm giảm tải” dẫu rằng đó là những hệ quả có thể xảy ra do việc thực hiện phương hướng “Tích hợp”. Trên nền giáo dục hiện đại, tích hợp là phương pháp nhằm phối hợp một cách tối ưu các quá trình học tập riêng rẽ các môn học. Phân môn khác nhau nhằm đáp ứng những mục tiêu, mục đích và yêu cầu cụ thể khác nhau.
Tích hợp được xem là nguyên tắc tổng hợp của việc xây dựng cả hệ thống chương trình. Dạy tích hợp, người đứng lớp phải biết thực hiện mọi yêu cầu một cách linh hoạt, sáng tạo mà mấu chốt của sự sáng tạo là luôn suy nghĩ và mục tiêu của bộ môn Ngữ văn nói chung để tìm ra những yếu tố đồng quy giữa 3 phần phân môn, tích hợp trong từng thời điểm theo từng vấn đề. Quan điểm tích hợp phải quán triệt trong mọi khâu kể cả khâu đánh giá. Có thể có những bài tập riêng cho từng phân môn, song chúng ta cần đánh giá cao những học sinh biết sử dụng những kiến thức của phân môn khác. Đó chính là những thói quen, cơ sở ban đầu để sau này học lên, các em sẽ có điều kiện tiếp thu và vân dụng dễ dàng hơn phương pháp nghiên cứu nghiên ngành, cũng như khi vào đời, các em có khả năng giải quyết dễ dàng hơn các vấn đề thực tiễn vì mọi tình huống xảy ra trong cuộc sống bao giờ cũng là tình huống tích hợp. Tích hợp phải phát huy tối đa tính tích cực, tính sáng tạo của học sinh, chủ thể học tập ở tất cả mọi khâu: từ việc chuẩn bị bài, sưu tập tư liệu trong tổ, nhóm, tự đáng giá và đánh giá bạn, tham gia, hoạt động thực tiễn theo quan điểm đặc trưng bộ môn.
Xuất phát từ việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh nên tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “ Một số vấn đề về phương pháp giảng dạy tích hợp đối với Ngữ văn 9”.
II. Mục đích nghiên cứu:
Để nâng cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn 9 nhằm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo cho học sinh.
III. Nhiệm vụ của đề tài:
Giảng dạy tích hợp đối với Ngữ văn 9 là một trong những nhiệm vụ trọng tâm đối với chương trình và sách giáo khoa lần này là: Đổi mới phương pháp dạy và học. Trong chương trình Ngữ văn THCS tích hợp 3 phân môn: Văn – Tiếng Việt – Tập làm văn lần này có tác dụng tạo mối liên kết khăng khít với nhau. Vì vậy việc giảng dạy theo hướng tích hợp có tác dụng lớn đối với học sinh trong việc hấp thụ kiến thức cấu trúc sách giáo khoa Ngữ văn THCS cho thấy sự nhấn mạnh những điểm đồng quy về kiến thức, kĩ năng giữa 3 phân môn để thực hiện quan điểm tích hợp. Yếu tố đồng quy này chính là ngôn ngữ trong văn bản của mỗi bài. Ngôn ngữ cần được hiểu theo nghĩa rộng không chỉ bao gồm ngữ âm, từ vựng, cú pháp mà còn là kiểu văn bản, các quy tắc ngôn ngữ, các quy tắc tổ chức không gian, thời gian của văn bản.
Như vậy đối với chương trình sách giáo khoa mới phải tận dụng những kiến thức, kĩ năng giải mã và sản sinh văn bản và ngược lại vận dụng những kiến thức kĩ năng giải mã để củng cố và phát triển những kiến thức, kĩ năng Tiếng Việt. Cấu trúc này cho thấy sự quan tâm phát huy năng lực tích cực, chủ động, và sáng tạo của học sinh trong học tập Ngữ văn. Thông qua việc cung cấp kiến thức Văn – Tiếng Việt – Tập làm văn hình thành và phát triển cho học sinh cách tiếp nhận, cách tạo lập các loại hình văn bản, cách giải quyết và vận dụng những kiến thức và kĩ năng Văn – Tiếng Việt vào thực tiễn cuộc sống một cách năng động và sáng tạo.
IV. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài: “ Một số vấn về phương pháp giảng dạy tích hợp đối với Ngữ văn 9”
Đối tượng nghiên cứu: Là học sinh lớp 9.
V. Phương pháp nghiên cứu:
Thông qua từng cụm bài giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi để lồng ghép những kiến thức tích hợp từng phân môn vào cụm bài chung.
Phần thứ hai
Nội dung và kết quả nghiên cứu
Chương I: Cơ sở lý luận và Pháp lý của việc chỉ đạo.
1. Cơ sở lý luận:
Đổi mớiphương pháp dạy học là phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh.
Đổi mới phương pháp tích hợp: giáo viên đứng lớp cần phải biết thực hiện yêu cầu tích hợp, linh hoạt sáng tạo, suy ngẫm về mục tiêu của bộ môn Ngữ văn, tìm ra yếu tố đồng quy giữa 3 phân môn tích hợp trong từng thời điểm, từng vấn đề. Quan điểm tích hợp phải quán triệt trong mọi khâu để đánh giá.
Phải phát huy tối đa tính tích hợp chủ động sáng tạo của học sinh. Vì học sinh là chủ thể học tập trong mọi khâu: Từ việc chuẩn bị bài, sưu tập tài liệu, phát biêu trong tổ, nhóm, đánh giá mình, đánh giá bạn…
Đổi mới việc giảng dạy tích hợp Ngữ văn 9: Tích hợp theo chiều dọc là tích hợp ở một đơn vị kiến thức và kĩ năng mới, những kiến thức và kĩ năng đã học trước đó theo nguyên tắc đồng trục ( còn gọi là vòng tròn đồng tâm) hay vòng tròn xoáy trôn ốc. Cụ thể là kiến thức và kĩ năng hình thành ở bài học, lớp học bâvj học sau bao hàm kiến thức, kĩ năng, bậc học trước nhưng cao hơn, sâu hơn trước.
Tích hợp theo chiều dọc là dựa trên nguyên tắc đồng trục càng nên cao thì yêu cầu nội dung càng cao, kiến thức lớp trên, bậc trên cao hơn kiến thức bậc dưới, lớp dưới.
Tích hợp theo chiều ngang: Tích hợp kiến thức Tiếng Việt với các mảng kiến thức về Văn học và Tập làm văn.
Việc lựa chọn nội dung: Ngữ văn 9 chọn các kiểu thành phần câu như: Thành phần biệt lập, khối ngữ nghĩa tường minh, hàm ý … phục vụ cho việc tạo lập các văn bản nghị luận.
Việc sắp xếp nội dung: Bộ sách giáo khoa Ngữ văn THCS chú ý sắp xếp nội dung theo kiểu xen kẽ các vấn đề về từ, về câu và tạo lập văn bản. Sự liên kết theo chiều ngang với Văn học và Tập làm văn hơn là hệ thống kiến thức “Hàn lâm” ngôn ngữ học.
Việc khai thác nội dung: Phần Tiếng Việt trong SGK Ngữ văn tận dụng mọi cơ hội có thể có để phục vụ việc học Văn bản và Tập làm văn.
2. Cơ sở pháp lí:
Ngày 9/12/2000 quốc hội đã có nghị quyết số 40/2000 QH 10 về đổi mới chương trình về giáo dục phổ thông. Báo cáo BCH TW Đảng khoá VIII tại đại hội đại biểu toàn quốc lần IX của Đảng về phát triển kinh tế – xã hội năm 2001 – 2010 đã nêu rõ việc “Khẩn trương biên soạn và đưa vào sử dụng ổn định trong cả nước bộ chương trình sách giáo khoa phổ thông phù hợp với yêu cầu phát triển mới”. Mục tiêu của việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa là: Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện tăng cường bồi dưỡng cho thế hệ trẻ lòng yêu nước, yêu quê hương và gia đình, tinh thần tự tôn dân tộc, lý tưởng XHCN, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ, lập thân lập nghiệp, lòng nhân ái, ý thức kỉ luật, tôn trọng pháp luật. Đổi mơidss phương pháp dạy học là phát huy tư duy sáng tạo và tự học của học sinh. Một trong những phương pháp dạy học là phương pháp dạy tích hợp.
Chương II: Thực trạng việc đổi mới phương pháp dạy học tích hợp ở môn Ngữ văn lớp 9 của trường Trần Hưng Đạo.
1. Sơ lược khái quát về nhà trường:
Trường THCS Trần Hưng Đạo là một trường trung tâm của phòng giáo dục huyện Yên Hưng. Trường có bề dày lịch sử về kinh nghiệm giảng dạy và học tập. Trường nhiều năm đạt danh hiệu trường tiên tiến cấp tỉnh. Trường có đội ngũ giáo viên giảng dạy vững vàng.
2. Một số vấn đề đặt ra:
Nhà trường phải nắm bắt mục tiêu đổi mới của chương trình nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Việc đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tư duy sáng tạo và tự học của học sinh là việc cần thiết không thể thay thế được.
Mục tiêu của việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là xây dựng chương trình, phương pháp giáo dục. Sách giáo khoa phổ thông nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đáp ứng nhu cầu phất triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phù hợp với truyền thống và thực tiễn Việt Nam, tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trên thế giới.
Chương III: Biện pháp đề ra để thực hiện
1. Bước 1: Tìm hiểu chung và tích hợp.
- Tích hợp là gì? Là một phương pháp nhằm phối hợp một cách tối ưu các quá trình học tập riêng rẽ các môn học, phân môn khác nhau nhằm đáp ứng những mục tiêu, mục đích và yêu vầu cụ thể khác nhau.
- Tích hợp ngang: Tích hợp từng thời điểm( 1 tiết học, 1 bài học).
- Tích hợp dọc: Tích hợp theo từng vấn đề( Tập trung ở bài ôn tập).
Đối với những vấn đề đã dạy: Cần lợi dụng vấn đề này đẻ củng cố ôn tập, đồng thời rèn cho học sinh kiến thứclà kĩ năng vận dụng mọi kiến thức đã học đẻ xử lý các vấn đề trước mắt.
Đối với những kiến thức sẽ dạy: Có thể giới thiệu ở chừng mục cần thiết cho sự hiểu biết tối thiểu về khía cạnh đang đề cập, qua đó khơi gợi trí tò mò, tinh thần ham hiểu biết của học sinh và đặt cơ sở thuận lợi cho việc trình bày những kiến thức đã học ở sau.
2. Bước 2: Các thao tác khi soạn bài .
*, Thao tác 1: Đọc kĩ bài (Bài trước đó và sau đó) Xác định mục tiêu bài dạy và mục tiêu của phân môn.
*, Thao tác 2: Tìm mối liên hệ giữa bài đạng học với những bài trước đó đẻ tìm điểm đồng quy đẻ giáo viên có định hướng tích hợp (ngang hay dọc; củng cố hay hé mở)
*, Ví dụ: - Bàn về đọc sách (bài 18 – Ngữ văn 9).
- Tiếng Việt: Khối ngữ
- Tập làm văn: Phép phân tích và tổng hợp luyện tập phép phân tích tổng hợp.
Điểm đồng quy của 3 phân môn này:
Văn bản “là một văn bản nghị luận. Văn bản này đưa ra đẻ làm mẫu cho học sinh học tập cách làm văn nghị luận. Trong văn bản có nhiều nhiều câu văn chứa khởi ngữ. Còn về Tập làm văn, khi dạy bài phép phép phân tích tổng hợp, giáo viên đưa ngay văn bản “Bài về đọc sách” để phân tích mẫu về văn nghị luận. Như vậy văn bản “Bài về đọc sách” sẽ được soi sáng ở cả 3 góc độ của 3 phân môn và các phân môn đó đều có mối quan hệ với nhau.
*, Thao tác 3: Xây dựng hệ thống câu hỏi tích hợp.
Dựa trên thao tác 1, giáo viên bắt đầu thiết kế bài dạy và hệ thống câu hỏi. Trong SGK câu hỏi có tính chất định hướng, hướng dẫn học sinh tìm hiểu những kiến thức và kĩ năng cơ bản trong bài học. Câu hỏi cũng rất đa dạng: Câu hỏi nêu vấn đề, câu hỏi hướng dẫn hoạt động, câu hỏi gợi mở, câu hỏi thảo luận… Nhưng đó chỉ là nmhwngx câu hỏi có tính chất “tĩnh” còn câu hỏi trong mỗi giờ học “động” mang đậm dấu ấn cá nhân của giáo viên trong nhận thức cũng như truyền tải nội dung bài học đến với học sinh.
Câu hỏi tích hợp được xây dựng trên cơ sở:
Căn cứ vào điểm đồng quy giữa 3 phân môn, khi dạy phần văn học giáo viên có nhiệm vụ hé mở những nội dung nào đó của Tiếng Việt và Tập làm văn để học sinh chuẩn bị tâm thế tốt cho bài học.
Lưu ý các chú thích ở Văn bản của mỗi thể loại học sinh nắm vững và nhớ đặc điểm của từng thể loại. Ngoài ra còn lưu ý đến các chú thích khác để hiểu văn bản. Đồng thời hiểu nghĩa của các từ (cấu tạo từ, nghĩa của từ, các từ loại, các thành phần câu…) sẽ được học ở phần Tiếng Việt.
*, Ví dụ: Bài 20 (Ngữ văn 9)
- Văn bản: Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới.
- Tiếng Việt: Các thành phần biệt lập (Tiếp).
- Tập làm văn: + Bài viết số 5: Văn nghị luận.
+ Nghị luận một vấn đề tư tưởng, đạo lý.
a, Khi dạy văn bản “Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới” giáo viên cần khai thác nội dung bằng cách xây dựng những câu hỏi tích hợp sau:
Hỏi: Em hãy xác định thể loại và phương thức biểu đạt cho văn bản ?
Hỏi: Vấn đề nêu ra trong bài nghị luận này là gì ?
Hỏi: Vấn đề này được trình bày bằng hệ thống luận cứ ?
Hỏi: Em có nhận xét gì về cách xây dựng hệ thống luận cứ và cách lập luận của bài văn ?
Hỏi: Qua bài văn, em học tập được gì về cách viết văn nghị luận của tác giả ?
b, Khi dạy Tiếng Việt: Các thành phần biệt lập (tiếp).
Trong phần luyện tập có một đoạn văn ở trong văn bản “Chuẩn bị hành trình vào thế kỉ mới”; “Bước vào thế kỉ mới, muốn sánh vai cùng các cường quốc năm châu… Nhận ra điều đó quen dần với những thói quen tốt đẹp ngay từ những việc nhỏ nhất”.
Để khai thác đoạn văn với yêu cầu của bài tập, giáo viên sẽ đặt ra những câu hỏi như sau:
Hỏi: Đoạn văn có ở trong văn bản nào ?
Hỏi: Em hãy tìm các thành phần biệt lập trong đoạn văn ? Xác định thành phần biệt lập đó là gì ?
Yêu cầu: Học sinh xác định được các thành phần biệt lập => Đó là thành phần phụ chú.
Như vậy: Phần Tiếng Việt đã tích hợp kiến thức của phần Tập làm văn.
c, Dạy Tập làm văn: “Nghij luận về một vấn đề tư tưởng đạo lý”. Giáo viên có thể lấy ví dụ văn bản “Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới” để khai thác văn nghị luận với đặc điểm của thể loại. Giáo viên có thể đặt một số câu hỏi như sau:
Hỏi: Bài văn trên nêu nên vấn đề gì ? (Hay: Vấn đề nhị luận của bài văn là gì?)
Hỏi: Vấn đề nghị luận được triển khai bằng cách gì ?
Yêu cầu: Bằng phương pháp giải thích – chứng minh.
Hỏi: Em hãy tìm những câu văn và đoạn văn mà tác giả nêu cách lập luận giải thích ?
Hỏi: Tìm những dẫn chứng làm sáng tỏ cho lập luận tiện ?
Hỏi: Xác định bố cục cho bài văn ? Nhận xét gì về bố cục của bài văn nghị luận ?
* Ví dụ 2: Bài 4.
- Văn bản: Chuyện người con gái Nam Xương.
- Tiếng Việt: Cách dẫn trực tiếp và gián tiếp.
- Tập làm văn: Luyện tập tóm tắt văn bản tự sự.
Phần văn bản: Tiết 16-17 “Chuyện người con gái Nam Xương”
Khai thác bài học, giáo viên có thể đặt một số câu hỏi có liên quan đến phần Tiếng Việt và Tập làm văn như sau:
Hỏi: Em hãy xác định thể loại và phương thức biểu đạt của văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương”?
Yêu cầu: - Thể loại: Truyện ngắn ( Thể truyền kì mạn lục)
- phương thức biểu đạt: Tự sự.
Hỏi: Em hãy tóm tắt cốt truyện ?
Hỏi: Truyện được xây dựng dựa trên những tình tiết nào ?
Như vậy: Phần văn bản đã đưa ra một số câu hỏi để hướng học sinh khai thác nội dung bài học có liên quan đến phần Tập làm văn.
Phần Tiếng Việt: “ Cách dẫn trực tiếp và gián tiếp”
Khi dạy bài này giáo viên lấy ví dụ là 1 đoạn văn bản được trích trong văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương”. Ta có thể chọn đoạn văn trích dẫn lời trực tiếp, đó là lời của Vũ nương khu than khóc với chồng bị oan: “ Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thoả tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt 3 năm giữ gìn một tiết…”
Giáo viên có thể đặt câu hỏi:
Hỏi: Đoạn văn có trong văn bản nào ?
Hỏi: Đoạn văn trích đãn lời nói của ai ?
Hỏi: Lời trích dẫn đó là lời trích dẫn trực tiếp hay gián tiếp ?
Phần Tập làm văn: “ Luyện tập tóm tăt văn bản tự sự”.
Giáo viên có thể lấy ví dụ trực tiếp ngay trong cụm bài là văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương”.
Hỏi : Em hãy tóm tắt văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương” ?
Giáo viên nói lên các sự việc và nhân vật chính sau:
- Chàng Trương Sinh pải đầu quân đi lính, để lại mẹ già và người vợ trẻ là Vũ Thị Thiết.
- Mẹ Trương Sinh ốm chết, Vũ Nương lo toan ma chay cho mẹ.
- Giặc tan, Trương sinh trở về, nghe lời con nhỏ, nghi oan cho vợ.
- Vũ Nương bị oan, gieo mình xuống sông Hoàng Giang.
- Phan Lang là người cùng làng với Vũ Nương đã gặp lại Vũ Nương trong động Linh Phi, hai người nhận ra nhau. Phan Lang trở về trần gian, Vũ Nương gửi chiếc bông tai vàng cho chồng cùng lời nhắn.
- Trương Sinh lập đàn giải oan…
Hỏi: Các sự việc trên đã được nêu đầy đủ chưa?
Hỏi: Các sự việc trên sắp xếp đã hợp lí chưa ?
Hỏi: Dựa vào các sự việc trên em hãy tóm tắt truyện ?
Như vậy: Trong cụm bài 4, cả 3 phân môn đều có kiến thức tích hợp liên quan đến nhau. Khi khai thác giáo viên cần hướng học sinh chú ý đến những kiến thức tích hợp này để học sinh nắm vững, sâu kiến thức cần ghi nhớ.
Giáo viên kết luận: Vởy ta có thể nói rằng tích hợp được thể hiện trong mọi khâu:
- Kiểm tra bài cũ.
- Quá trình soạn bài, giảng bài.
- Đánh giá kiểm tra bài cũ, tiếp nhận kiến thức mới.
- Chuẩn bị bài ở nhà.
Tuy nhiên chương trình cũng khẳng định quan điểm tích hợp ở nước ta hiện chưa thể áp dụng một cách triệt để, giảng dạy theo quan điểm tích hợp không phủ định việc dạy các tri thức, kĩ năng riêng của từng phân môn. Vấn đề là làm thế nào để phối hợp một cách hợp lí các tri thức, kĩ năng riên rẽ của từng phân môn tới mục tiêu chung của Ngữ văn. Tích hpj phải hợp lí, lôgic với bài dạy không nên tích hợp gò ép, xơ cứng, thô bạo khiến bài dạy vụn vặt. Tích hợp mà không làm mất đi đặc trưng của phân môn mà còn có tác dụng làm cho kiến thức được xoáy sâu, nhuần nhuyễn. Xác định, lựa chọn, sắp xếp sử dụng câu hỏi tích hợp sao cho phù hợp với nội dung bài học và đối tượng học sinh mà không tách xa khỏi hệ thống câu hỏi sách giáo khoa.
* Kết quả:
Gần 5năm thực hiện chương trình thay sách giao khoa mới, tôi đã nhận thấy rằng việc vận dụng phương pháp giảng dạy tích hợp là việc cần thiết đối với giáo viên giảng dạy Ngữ văn. Vận dụng được phương pháp này, phát huy được trí thông minh của học sinh. Học sinh tiếp nhận kiến thức một cách dễ dàng và rất sâu. Vì kiến thức được lồng ghép cả 3 phân môn trong từng cụm bài.
- Về phía giáo viên:
+ Không còn lúng túng khi soạn bài.
+ Bài giảng lôgic, chặt chẽ, hợp lí nhờ biết xác điịnh điểm đồng quy.
+ Kiến thức được vận dụng một cách nhuần nhuyễn.
+ Hạn chế tình trạng cháy giáo án.
- Về phía học sinh: Bước đầu hình thành kĩ năng tự học, tự tìm hiểu tư duy gioá dục. Học sinh có tâm thế tốt hơn khi tiếp nhận kiến thức bài học. Học sinh nắm chắc kiến thức cơ bản và sâu. Vì kiến thức ôn luyện đều ở các phân môn. áp dụng phương pháp này phát huy được tính chủ động, sáng tạo cho học sinh.
Phần thứ ba
Kết luận và khuyến nghị
Để thực hiện tốt tinh thần đổi mới phương pháp dạy học theo phương pháp tích hợp mà cốt yếu là tính thực hành thì hệ thống cân hỏi phải gắn kết dược kiến thức cả 3 phân môn cho dù không thủ tiêu bản sắc của cả 3 phân môn. Quan trọng hơn cả là lấy yêu cầu bài học làm mục đích thiết kế hệ thống câu hỏi với những kiến thức cần đạt được thể hiện quan điểm thực hành tích hợp của chương trình Ngữ văn 9. Dạy học theo nguyên tắc tích hợp ở Ngữ văn 9 có một sự liên hệ chặt chẽ với những kiến thức ở bậc Tiểu học, từ thực tế giảnge dạy tôi thấy việc tiếp thu kiến thức là khả năng thực hành của học sinh khi học THCS còn nhiều hạn chế. Do vậy khi đưa những câu hỏi tích hợp còn có một số học sinh thực hiện chưa tốt, có sự bỡ ngỡ hoặc không thực hiện được. Do vậy chúng tôi đề nghị sự chỉ đạo đồng bộ trong việc thực hiện chương trình thay sách, các cụm bài. Việc lồng ghép kiến thức tích hợp cần rõ hơn và học sinh thực hiện phương pháp tích hợp tốt hơn.
Trên đây là một só vấn đề về phương pháp giảng dạy tích, tôi nghĩ rằng: Chương trình sách giáo khoa mới với việc chuẩn bị giáo án để có thể tổ chức một chương trình Ngữ Văn theo tinh thần đã nêu ở trên. Đó là một việc làm rất mới mẻ, cần thiết của một giáo viên giảng dạy trêm lớp. Công việc thực hiện phương pháp này gặp không ít những khó khăn, thử thách.
Qua bài viết này tôi xin được mạnh dạn trao đổi ý kiến của mình và mong được sự góp ý để tích luỹ cho mình nhiều bài học quý báu trong công tác giảng dạy hơn nưã.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Quảng Yên ngày 30.4.2007
Người viết
Đặng Hiệp
File đính kèm:
- SKKN9.DOC