Một vài kinh nghiệm trong dạy-Học các loại thể văn học nước ngoài ở trung học cơ sở

Văn chương nước ngoài là một bộ phận quan trọng trong chương trình Ngữ văn trung học cơ sở gồm những sáng tác dân gian, văn thơ cổ điển, văn thơ hiện đại được chọn và bố trí song song với chương trình văn học dân tộc. Cùng với văn học dân tộc, văn chương nước ngoài đã góp phần tạo điều kiện cho học sinh mở rộng tầm nhìn và khả năng cảm thụ tinh hoa văn hoá nhân loại, hiểu biết thêm về cuộc sống và tài năng sáng tạo của các dân tộc từ đó hiểu rõ hơn đất nước, dân tộc và văn hoá dân tộc đồng thời phát triển tinh thần quốc tế và ý thức về cộng đồng văn hoá nhân loại.

Đó là những sáng tác được chọn lọc trong kho tàng văn học của các dân tộc. Nói rộng ra đó là tinh hoa văn hoá nhân loại đủ sức vượt qua sự thử thách khắc nghiệt của thời gian, của không gian đến với chúng ta hôm nay. Ta bắt gặp ở đây những tác phẩm đã thành mẫu mực của văn học thế giới từ các chuyện cổ tích như “Cây bút thần” (Trung Quốc), “Ông lão đánh cá và con cá vàng” (Nga) cho đến các tác phẩm văn chương nổi tiếng của các nhà văn lớn của các dân tộc cũng là của thế giới như “Đôn- ki-hô-tê” của (Xéc-van-tét), “Cô bé bán diêm” của (An-đéc-xen), “Chiếc lá cuối cùng” của (OHen-ry), thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ; Truyện của Lỗ Tấn, A. Tôn-xtôi, Mô-pa-xăng, Giắc Lơn-đơn, Ai-ma-tốp, các trích đoạn kịch cổ điển Pháp, Anh của Mô-li-e, Sếc-xpia.

Nhìn chung đó là những tác phẩm rất giàu giá trị nhân bản, giàu tinh thần dân tộc có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục tình cảm cao đẹp, bồi dưỡng tâm hồn trong sáng và ý thức vươn tới điều thiện để phát triển và hoàn thiện nhân cách cho học sinh. Đó còn là những tác phẩm có giá trị nghệ thuật lớn, đạt trình độ mẫu mực được viết ra bởi tài nghệ bậc thầy của các nhà văn xuất sắc.

Tuy nhiên trong thực tế dạy và học tác phẩm văn chương nước ngoài ở trung học cơ sở hiện nay gặp rất nhiều khó khăn mà trước hết khó khăn lớn nhất là khoảng cách khá lớn về không gian và thời gian, về lịch sử và tâm lý. Đứng trước nhiều tác phẩm văn chương nước ngoài, nhiều giáo viên nhất là học sinh cảm thấy vô cùng xa lạ. Nếu không được giải thích, hướng dẫn thì trong tiếp cận khó mà hiểu, cảm nổi.

Ví dụ: “Đánh nhau với cối xay gió” ( Trích “Đôn-ki-hô-tê” của Xéc- van-tét) dẫu là tác phẩm rất hay nhưng được viết ra cách đây hàng bốn trăm năm, từ thời trung cổ về tầng lớp hiệp sĩ giang hồ đã lỗi thời, về phong cách sinh hoạt của quí tộc thời trung cổ Châu Âu với những tập tục lề thói cách cảm, cách nghĩ hoàn toàn xa lạ với chúng ta.

Khó khăn lớn thứ hai là chúng ta dạy và học văn chương nước ngoài trong điều kiện tài liệu, sách vở phục vụ cho tham khảo còn khan hiếm. Nhiều tác phẩm anh chị em giáo viên mới được nghe lần đầu tiên. Nhiều tác phẩm anh chị em nghe tên nhưng chưa được một lần được nhìn tận mắt. Hầu hết tác phẩm được đưa vào chương trình anh chị em chỉ biết được qua sách giáo khoa, qua tóm tắt, qua trích đoạn. khó khăn này không phải một sớm một chiều mà khắc phục được.

Trước những thực trạng khó khăn trong việc tiếp cận, việc dạy và học các tác phẩm văn chương nước ngoài như vậy, với tấm lòng yêu nghề, yêu bộ môn và trong thực tế giảng dạy nhiều năm tôi đã cùng nhiều đồng nghiệp tìm ra những hướng dạy, bàn cách khắc phục những khó khăn trên để góp phần nâng cao hiệu quả của các giờ học văn. Trong khuôn khổ của đề tài này, tôi xin mạnh dạn góp thêm “ Một vài kinh nghiệm trong dạy-học các loại thể văn học nước ngoài ở THCS”.

 

doc11 trang | Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 1375 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một vài kinh nghiệm trong dạy-Học các loại thể văn học nước ngoài ở trung học cơ sở, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Một vài kinh nghiệm trong dạy-học các loại thể văn học nước ngoài ở trung học cơ sở Phần I đặt vấn đề Văn chương nước ngoài là một bộ phận quan trọng trong chương trình Ngữ văn trung học cơ sở gồm những sáng tác dân gian, văn thơ cổ điển, văn thơ hiện đại được chọn và bố trí song song với chương trình văn học dân tộc. Cùng với văn học dân tộc, văn chương nước ngoài đã góp phần tạo điều kiện cho học sinh mở rộng tầm nhìn và khả năng cảm thụ tinh hoa văn hoá nhân loại, hiểu biết thêm về cuộc sống và tài năng sáng tạo của các dân tộc từ đó hiểu rõ hơn đất nước, dân tộc và văn hoá dân tộc đồng thời phát triển tinh thần quốc tế và ý thức về cộng đồng văn hoá nhân loại. Đó là những sáng tác được chọn lọc trong kho tàng văn học của các dân tộc. Nói rộng ra đó là tinh hoa văn hoá nhân loại đủ sức vượt qua sự thử thách khắc nghiệt của thời gian, của không gian đến với chúng ta hôm nay. Ta bắt gặp ở đây những tác phẩm đã thành mẫu mực của văn học thế giới từ các chuyện cổ tích như “Cây bút thần” (Trung Quốc), “Ông lão đánh cá và con cá vàng” (Nga)… cho đến các tác phẩm văn chương nổi tiếng của các nhà văn lớn của các dân tộc cũng là của thế giới như “Đôn- ki-hô-tê” của (Xéc-van-tét), “Cô bé bán diêm” của (An-đéc-xen), “Chiếc lá cuối cùng” của (OHen-ry), thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ; Truyện của Lỗ Tấn, A. Tôn-xtôi, Mô-pa-xăng, Giắc Lơn-đơn, Ai-ma-tốp, các trích đoạn kịch cổ điển Pháp, Anh của Mô-li-e, Sếc-xpia. Nhìn chung đó là những tác phẩm rất giàu giá trị nhân bản, giàu tinh thần dân tộc có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục tình cảm cao đẹp, bồi dưỡng tâm hồn trong sáng và ý thức vươn tới điều thiện để phát triển và hoàn thiện nhân cách cho học sinh. Đó còn là những tác phẩm có giá trị nghệ thuật lớn, đạt trình độ mẫu mực được viết ra bởi tài nghệ bậc thầy của các nhà văn xuất sắc. Tuy nhiên trong thực tế dạy và học tác phẩm văn chương nước ngoài ở trung học cơ sở hiện nay gặp rất nhiều khó khăn mà trước hết khó khăn lớn nhất là khoảng cách khá lớn về không gian và thời gian, về lịch sử và tâm lý. Đứng trước nhiều tác phẩm văn chương nước ngoài, nhiều giáo viên nhất là học sinh cảm thấy vô cùng xa lạ. Nếu không được giải thích, hướng dẫn thì trong tiếp cận khó mà hiểu, cảm nổi. Ví dụ: “Đánh nhau với cối xay gió” ( Trích “Đôn-ki-hô-tê” của Xéc- van-tét) dẫu là tác phẩm rất hay nhưng được viết ra cách đây hàng bốn trăm năm, từ thời trung cổ về tầng lớp hiệp sĩ giang hồ đã lỗi thời, về phong cách sinh hoạt của quí tộc thời trung cổ Châu Âu với những tập tục lề thói cách cảm, cách nghĩ hoàn toàn xa lạ với chúng ta. Khó khăn lớn thứ hai là chúng ta dạy và học văn chương nước ngoài trong điều kiện tài liệu, sách vở phục vụ cho tham khảo còn khan hiếm. Nhiều tác phẩm anh chị em giáo viên mới được nghe lần đầu tiên. Nhiều tác phẩm anh chị em nghe tên nhưng chưa được một lần được nhìn tận mắt. Hầu hết tác phẩm được đưa vào chương trình anh chị em chỉ biết được qua sách giáo khoa, qua tóm tắt, qua trích đoạn. khó khăn này không phải một sớm một chiều mà khắc phục được. Trước những thực trạng khó khăn trong việc tiếp cận, việc dạy và học các tác phẩm văn chương nước ngoài như vậy, với tấm lòng yêu nghề, yêu bộ môn và trong thực tế giảng dạy nhiều năm tôi đã cùng nhiều đồng nghiệp tìm ra những hướng dạy, bàn cách khắc phục những khó khăn trên để góp phần nâng cao hiệu quả của các giờ học văn. Trong khuôn khổ của đề tài này, tôi xin mạnh dạn góp thêm “ Một vài kinh nghiệm trong dạy-học các loại thể văn học nước ngoài ở THCS”. Phần II Giải quyết vấn đề I, Điều tra thực trạng trước khi nghiên cứu: Trước khi nghiên cứu và thực nghiệm đề tài này tôi đã cùng với các đồng nghiệp trong nhóm Ngữ văn của nhà trường tiến hành khảo sát các tiết dạy và học phần văn học nước ngoài trong chương trình đối với các khối lớp 6, 7, 8,9 trong các năm học: 2002-2003; 2003-2004; 2004-2005; 2005-2006. 1. Hình thức và nội dung khảo sát: Tập trung vào mảng kiến thức thuộc phần văn học nước ngoài đã dạy thực tế trong chương trình ở các khối 6, 7, 8, 9 của 4 năm học: 2002-2003, 2003-2004,2004-2005; 2005-2006. + Thông qua các buổi sinh hoạt tổ, nhóm chuyên môn, qua dự giờ đồng nghiệp, thăm lớp rút kinh nghiệm và đánh giá chất lượng, kết quả của các tiết dạy và học từ đó rút ra những phương pháp và biện pháp chung trong dạy và học các loại thể văn học nước ngoài. + Sử dụng phiếu học tập với những câu hỏi trắc nghiệm để kiểm tra việc nắm kiến thức bài học, sự hiểu biết của học sinh về các tác giả, tác phẩm văn học nước ngoài. + Tiến hành cho học sinh làm các bài kiểm tra viết để đánh giá tổng quát khả năng cảm thụ, phân tích những giá trị nghệ thuật và nội dung của các tác phẩm văn học nước ngoài. 2, Kết quả khảo sát: Khối Lớp Sĩ số Giỏi Khá TB Yếu SL (%) SL (%) SL (%) SL (%) 6 6A 39 0 0 13 33,3 22 56,4 4 10,3 6B 40 0 0 11 27,5 24 60,0 5 12,5 7 7A 39 0 0 15 38,4 21 54,0 3 7,6 7B 41 0 0 12 29,2 22 54,0 6 16,8 8 8A 39 1 2,6 14 36,0 22 56,4 2 5,0 8B 38 0 0 10 26,3 24 63,0 4 10,7 9 9A 42 1 2,4 20 48 21 49,6 0 0 9C 32 0 0 10 31,3 16 50 6 18,7 Qua thực tế và kết quả khảo sát tôi nhận thấy rằng: + Sự hiểu biết của học sinh về các tác giả cũng như các tác phẩm văn học nước ngoài được học trong chương trình còn rất hạn chế. + Khả năng tiếp thu và cảm nhận những tác phẩm văn chương nước ngoài chưa cao. + Kỹ năng phân tích và cảm thụ những giá trị đặc sắc về nghệ thuật và nội dung các tác phẩm văn chương nước ngoài còn hời hợt và chưa sâu sắc. Vì vậy số bài đạt điểm khá chưa cao. + Kỹ năng phân tích các yếu tố ngôn ngữ, các biện pháp nghệ thuật, chi tiết, hình ảnh, nhân vật … trong các tác phẩm văn học nước ngoài của học sinh còn lúng túng. + ở một vài giáo viên sự hiểu biết về phong tục, tập quán sinh hoạt, quan niệm thẩm mĩ của dân tộc đó sản sinh ra tác phẩm chưa thật sâu sắc, chưa có điều kiện đọc trọn vẹn các tác phẩm có đoạn trích được dạy. II, Phương pháp và biện pháp tiến hành. Nhìn một cách tổng thể toàn bộ phần văn học nước ngoài trong chương trình ngữ văn THCS, ta có thể phân loại các tác phẩm văn học nước ngoài theo đặc trưng loại thể thành những mảng sau: 1, Truyện cổ dân gian: Bao gồm 2 tác phẩm chính đó là “Cây bút thần” sáng tác dân gian của Trung Quốc; “Ông lão đánh cá và con cá vàng” của A-lếch - xan-đrơ Xéc-ghê-ê-vích Pu-skin, đại thi hào Nga kể lại bằng 205 câu thơ trên cơ sở của truyện dân gian Nga, Đức. 2, Thơ Đường: Một số bài thơ Đường có nội dung trữ tình xã hội, về tình cảm quê hương, về thiên nhiên của các tác giả: Lí Bạch, Hạ Tri Chương, Đỗ Phủ… 3, Truyện ngắn: Bao gồm một số đoạn trích của các tác phẩm: “Đánh nhau với cối xay gió” của Xéc-van-tét, “Cô bé bán diêm” của An-đéc-xen, “Chiếc lá cuối cùng” của Ơ. Hen-ry, “Hai cây phong” của Ai-Ma-Tốp, “Cố hương” của Lỗ Tấn, “Con chó bấc” của Giắc-lơn-đơn, “Những đứa trẻ” của Gor-ki, “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” của Đi-phô, “Bố của Xi-mông” của Mô-pa-xăng… 4, Kí: “Lòng yêu nước” của Ê-ren-bua… 5, Kịch: Trích đoạn kịch cổ điển Pháp “ Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục” của Mô-li-e. 6, Thơ trữ tình hiện đại: Bao gồm một số bài thơ trữ tình của Nga, ấn Độ…. Qua việc phân loại như vậy để có cái nhìn tổng quát toàn bộ chương trình phần văn học nước ngoài, từ đó đề ra những phương pháp, biện pháp dạy cụ thể cho từng loại thể một cách hợp lý cũng như việc vận dụng nguyên tắc tích hợp trong dạy và học một cách phù hợp hơn. III, Những công việc thực tế đã làm và kết quả đạt được. 1. Những nguyên tắc chung: 1a. Muốn dạy tốt các tác phẩm văn chương nước ngoài phải trực tiếp tiếp xúc với tác phẩm: Có thể coi đây là một yêu cầu nghiêm ngặt đối với giáo viên và học sinh khi dạy học tác phẩm văn chương. Nhưng với các tác phẩm văn chương nước ngoài thì đây là một yêu cầu khá cao song phải tìm mọi cách mà thực hiện cho được. Có thể tổ chức cho tổ, nhóm chuyên môn chia nhau tìm đọc, trao đổi với nhau. Cũng có thể tổ chức báo cáo trong sinh hoạt chuyên môn hoặc có thể tổ chức ngoại khoá cho học sinh. Nếu không đọc được tác phẩm thì cũng phải được nghe, được kể, được thảo luận về tác phẩm mà mình phải dạy và học. 1b. Tìm hiểu những vấn đề liên quan đến tác phẩm: Sự hiểu biết về tác giả, về thời đại, về đất nước đó sản sinh ra tác phẩm, những đặc sắc về thiên nhiên, về tập tục xã hội nhất là về tâm lý dân tộc sẽ giúp ta hiểu và cảm tác phẩm văn chương nước ngoài rất nhiều. Những điều đó không dễ gì có đươc nếu chúng ta không tìm tòi học hỏi. Chúng ta sẽ không cảm và hiểu tốt đoạn trích “ Đánh nhau với cối xay gió”trong “Đôn-ki hô tê” của Xéc-van-tét nếu ta không hiểu biết gì về đất nước Tây Ban Nha thời trung cổ, sự tan giã của ý thức hệ phong kiến và sự hình thành của ý thức hệ tư sản. Vì vậy việc tìm đọc các tài liệu có liên quan trên các tạp chí, các sách báo rất cần thiết đối với giáo viên và học sinh nhất là giáo viên trong việc dạy học tác phẩm văn chương, nhất là tác phẩm văn chương nước ngoài. 1c. Muốn dạy tốt tác phẩm cần hiểu đúng tác phẩm: Muốn dạy tốt văn bản thì phải hiểu đúng nó, tìm hiểu nó đúng trong vị trí tác phẩm, hiểu được toàn bộ tác phẩm và dụng ý nghệ thuật của tác giả từ đó mới lựa chọn được vấn đề và cách hướng dẫn học sinh tìm hiểu, khám phá và lĩnh hội cho phù hợp với trình độ học sinh. Đây là một yêu cầu cao song với tác phẩm văn chương nước ngoài thì việc hiểu đúng tác phẩm là một yêu cầu quan trọng. “Con chó Bấc”(trong sách văn 7 cũ, và là tác phẩm được dạy trong ngữ văn 9 hiện nay) là một văn bản hay nhưng rất xa lạ đối với giáo viên và học sinh THCS. Hầu như anh chị em chỉ mới biết được nhà văn Giắc-lơn-đơn và “Tiếng gọi nơi hoang dã” qua một đoạn trích không trọn vẹn trong sách giáo khoa. Cũng vì vậy mà chưa hiểu được tinh thần của văn bản cũng như chưa hiểu sâu sắc tác giả và nội dung toàn bộ tác phẩm. Thực ra, đây chỉ là một đoạn trích trong tác phẩm “ Tiếng gọi nơi hoang dã” của Giắc-lơn-đơn một nhà văn Mỹ nổi tiếng thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. “Tiếng gọi nơi hoang dã” là một kiệt tác của nhà văn nhằm chứng minh: mâu thuẫn giữa sự tạn bạo dã man của cái gọi là văn minh và sự tự do của loài vật sống hoang dã trong thiên nhiên. Kiệt tác này được nhà văn viết từ 1903. Truyện kể về số phận của con chó Bấc bị bắt cóc mang đi khỏi trang trại của một người chủ giàu có ở Ca-li-phoóc-ni-a, và bị ném vào vùng Bắc cực hoang dã trong cuộc săn vàng của con người. Thiên nhiên nguyên thuỷ, sự nghiệt ngã tàn bạo của môi trường đã đánh thức và làm phát triển mạnh mẽ trong đáy sâu thẳm của nó những bản năng thú dữ của tổ tiên nó. Nó đã sống với đủ hạng người phần lớn họ là những kẻ độc ác, tàn bạo đối với thú vật. Chỉ có một người là chiếm được thiện cảm của nó bằng lòng nhân đạo và tình thương yêu rộng lớn. Đó là Giôn Thoóc Tơn. Truyện toát lên một nhân sinh quan rõ rệt: Lòng thương yêu loài vật, ông cho rằng chỉ có trên cơ sở một tình thương yêu vô hạn đối với loài vật mới chiến thắng được những con vật, thậm chí là những con vật dữ tợn. Tình yêu thương thực sự và nồng nàn đến mức cuồng nhiệt dấy lên trong lòng con chó Bấc thì đến Giôn Thoóc Tơn mới khơi dậy được những điều đáng tìm hiểu là vì sao mà Bấc yêu thương Giôn Thoóc Tơn đến mức có những hành động đep đẽ thế? Bởi vì con người này đã cứu sống nó. Nhưng hơn thế nữa, con người này là một ông chủ lý tưởng. Anh chăm sóc chó của mình như thể chính nó là con cái của anh vậy. Có đọc toàn bộ tác phẩm ta mới thấy hết tình thương yêu thực sự của Giôn Thoóc Tơn đối với loài vật mà cụ thể là đối với con chó Bấc trong sự so sánh với bao nhiêu ông chủ trước đó, trong bối cảnh khốc liệt của cuộc hành trình dai dẳng dài dặc trên những con đường ngập tuyết, trong cơn tuyệt mệnh của đàn chó… Chính đây mới là phần cốt yếu của tác phẩm, mới là dụng ý nghệ thuật của tác giả. Chỉ có trên cơ sở tình yêu vô hạn đối với loài vật mới chiến thắng được những con vật. Nội dung của tác phẩm là thế, tư tưởng của tác phẩm cũng là thế nhưng nếu chỉ dựa vào tên của văn bản, qua hai chiến công của con chó, nhiều người chỉ thấy nổi lên hình ảnh “Con chó Bấc” mà thôi. 2, Những công việc thức tế đã làm: Dạy học tác phẩm văn chương nước ngoài cũng là dạy-học tác phẩm văn chương nói chung. Đó cũng là tác phẩm văn chương dân gian, văn chương cổ điển và văn chương hiện đại… Đó cũng là tác phẩm trữ tình và tự sự. Dạy học tác phẩm văn chương nước ngoài cũng đến phải vận dụng các phương pháp và biện pháp dạy học tác phẩm văn chương nói chung nhưng với tác phẩm văn chương nước ngoài, do những đặc điểm, những khó khăn như đã nói ở trên nên ta cần vận dụng những hình thức, biện pháp sao cho hợp lý và đạt được hiệu quả giờ dạy. 2a. Tìm hiểu bối cảnh lịch sử và hoàn cảnh sáng tác tác phẩm: Tác phẩm văn chương bao giờ cũng mang trên mình dấu ấn của một thời lịch sử nhất định. Vì vậy việc tìm hiểu bối cảnh lịch sử và hoàn cảnh sáng tác bao giờ cũng là một yêu cầu có tính nguyên tắc. Dạy học tác phẩm văn chương nước ngoài thì việc tìm hiểu bối cảnh lịch sử và việc sáng tác thật là việc vô cùng quan trọng. Vì đây là những điều rất xa lạ đối với học sinh. Sự phụ thuộc của tác phẩm văn chương vào hoàn cảnh lịch sử sẽ rất khó giải thích cho học sinh nếu như không gắn liền với những điểm phân tích, đánh giá chung với hoàn cảnh cuộc sống và hoạt động sáng tác của nhà văn. Có như thế mới giúp học sinh có điều kiện tìm hiểu sâu tác phẩm. Ví dụ: Dạy học bài: “Thạch Hào lại”( Kẻ lại ở thạch hào) của Đỗ Phủ mà không đả động gì đến hoàn cảnh xã hội, đến sự biến An Lộc Sơn và Sử Tư Minh (755-763) và sự phức tạp của các mâu thuẫn trong xã hội đương thời của Trung Quốc thì cũng khó mà hiểu được một cách đúng đắn bài thơ này. Hoặc có hiểu sâu sắc bối cảnh lịch sử của nông thôn Trung Quốc sau cách mạng Tân Hợi ta mới thấm thía nỗi hiu quạnh của Lỗ Tấn ,trong khi dạy “ Cố hương” (Ngữ văn 9), mới thấy rõ ràng nhà văn đã thông qua việc tường thuật chuyến về quê lần cuối cùng của nhân vật “Tôi” để lên án tội ác của chế độ phong kiến đối với nông dân, từ đó đặt ra vấ đề con đường đi của nông dân và của toàn xã hội để mọi người suy nghĩ. 2b. Tìm hiểu phong tục, tập quán sinh hoạt, quan niệm đạo đức, thẩm mĩ của dân tộc đã sản sinh ra tác phẩm trong mối tương quan với văn hoá dân tộc. Để hiểu cảm đúng tác phẩm văn chương nước ngoài, giáo viên cần giúp học sinh hiểu được phong tục, tập quán sinh hoạt cũng như quan niệm đạo đức, thẩm mĩ của dân tộc mà tác phẩm phản ánh trong mối tương quan với nền văn hoá dân tộc mình. Đặt tác phẩm văn học vào mối tương quan văn học của hai dân tộc là để khai thác đến cạn kiệt những tư tưởng hữu dụng cho đời sống tinh thần công dân tương lai, kích thích những truyền thống tốt đẹp hiện tại, để hiểu sâu sắc hơn nhân loại. Cho đến nay, dạy học văn học phục hưng Anh hay Tây Ban Nha trong nhà trường vẫn là vấn đề khó với thầy và trò. Thời đại phục hưng ở Châu Âu, từ ý qua Pháp rồi đến nhiều nước. ở mỗi nước lại có màu sắc riêng. Vì sao chàng Đôn- ki-hô-tê lại nói nhiều lời có cánh? Nhưng chính chàng lại là một hiệp sĩ đạo không hợp thời, hình ảnh hiệp sĩ đạo ở Việt Nam học sinh khó hình dung ra. Đôn Kihôtê yêu tự do, công bằng, nhân đạo, Xan-trô-pan-xa thì thực tế, lạc quan, lành mạnh, yêu đời. Cả hai nhân vật chung đúc lại đã làm nổi bật truyền thống đạo đức của nhân dân Tây Ban Nha. Cái mê sảng và cả cái tỉnh táo đến siêu việt của Đôn-ki-hô-tê chứng tỏ Xéc-van-tex tán thành lý tưởng nhân đạo là tuyệt vời nhưng khó thực hiện được trong thời đại mà tầng lớp quý tộc lại toan làm cái đó là mơ hồ ảo tưởng. Tác phẩm có nhạo báng sách hiệp sĩ nhưng cơ bản vẫn là khẳng định khát vọng, lý tưởng nhân văn cao cả của những con người khổng lồ trong một xã hội đầy đen tối xấu xa. Nếu không cảnh giác, đấy chỉ là một ảo tưởng, một trò cười lịch sử. Hoặc cái lối “vẽ trăng thấy mây”, “ý ở ngoài lời”, “ý đến mà bút chẳng cần đến”, hay việc sử dụng vần (nhất, tam, ngũ bất luận; nhị , tứ, lục phân minh), những kiểu đối: Đối thanh, đối ý (24 loại), những bút pháp lấy“động” tả “tĩnh”; “cao” tả “thấp”; “quá khứ” tả “hiện tại”… trong thơ Đường cũng cần được học sinh hiểu biết trước khi đi sâu vào tìm hiểu những bài thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Hạ Tri Chương. Đặt tác phẩm trong mối tương quan văn hoá của hai dân tộc sẽ giúp cho việc nghiên cứu tác phẩm cụ thể nhận ra và làm phong phú hơn đời sống tâm hồn và tình cảm dân tộc của mỗi người khi tiếp xúc với tác phẩm. Trên thực tế trong quá trình tiếp xúc với tác phẩm dù thế nào cũng vẫn gợi ra sự liên tưởng so sánh nhất định nhưng trong chương trình văn học nước ngoài ở Trung học cơ sở, có rất nhiều điểm khác nhau, thậm trí trái ngược nhau trong cách cảm, cách nghĩ và cách diễn đạt bởi thế, để học sinh hiểu cảm đúng tác phẩm, cần phải giúp học sinh rút ngắn khoảng cách này lại. 2c. Tìm hiểu mối quan hệ giữa văn bản ngôn từ và văn bản hình tượng. Văn chương nước ngoài đến với giáo viên và học sinh đều qua lời dịch của các dịch giả. Văn bản tác phẩm mà giáo viên và học sinh được dạy-học là văn bản dịch chứ không phải là nguyên tác. Như thế người dịch đã phải thực thi một hoạt động rất phức tạp là: Chuyển dịch một tác phẩm từ một ngôn ngữ khác. Chuyển dịch một tác phẩm từ một thời gian này (thời gian lich sử xuật hiện nguyên bản) sang một thời gian khác (thời gian lịch sử của bản dịch) và, Chuyển dịch một tác phẩm từ một không gian văn hoá này sang một không gian văn hoá khác. Như vậy, dịch bản là văn bản hình tượng. Dạy học tác phẩm văn chương nước ngoài chủ yếu là dạy học trên văn bản hình tượng gặp phải những bài thơ nước ngoài từ nguyên bản đến bản dịch nghĩa, sang đến bản dịch thơ thì về mặt ngôn từ đã có sự khác nhau rất xa những bài thơ của Đỗ Phủ, Lý Bạch trong thơ Đường đều nằm trong trường hợp đó. Thế là việc bám lấy ngôn từ để khai thác như với trường hợp thơ nói chung là không thể được. Nhưng các đặc điểm khác của thi pháp bài thơ lại có thể giúp ta hiểu cảm bài thơ thì lại phải khai thác. Tuỳ từng bài mà có cách vận dụng linh hoạt, sáng tạo để đạt hiệu quả cao trong các tiết dạy và học tác phẩm. Đó là điều cần được quán triệt trong dạy học tác phẩm văn chương nước ngoài. Ta có thể thấy, biện pháp so sánh, đối chiếu là biện pháp đặc trưng, đắc dụng trong quá trình dạy học tác phẩm văn chương nước ngoài. Biện pháp đó được thực hiện trong việc đối chiếu bản dịch với nguyên tác, so sánh các chi tiết, các hình ảnh cùng một phong cách, một giọng điệu… để giúp học sinh hiểu cảm tác phẩm sâu sắc hơn. VD: Khi dạy văn bản “Tình dạ tứ” (Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh) của Lý Bạch, qua biện pháp đối chiếu, so sánh bản dịch thơ với nguyên tác ta thấy: Trong nguyên tác ta thấy nhà thơ viết là “minh nguyệt quang”, bản dịch thơ dịch là “ánh trăng rọi”, dùng từ “rọi” (động từ), thay cho “sáng” (tính từ) đã làm nhạt mối liên tưởng trong bài thơ vì trăng phải sáng nhà thơ mới nhầm là sương, hơn nữa, trăng rọi và sương phủ làm cho bài thơ tăng thêm hai chủ thể, làm mờ đi cái chủ thể cô độc, nhớ quê. Trong nguyên tác chỉ có một chủ thể là Lý Bạch. Trong bản dịch việc thêm hai chủ thể nữa đang hoạt động làm giảm đi cái thanh tĩnh, yên ắng của đêm khuya. Do đó để học sinh cảm nhận được sâu sắc hơn hai câu thơ đầu: Sàng tiền minh nguyệt quang, Nghi thị địa thượng sương. Dịch: Đầu giường ánh trăng rọi, Ngỡ mặt đất phủ sương. Giáo viên cần đặt câu hỏi có tính chất gợi mở để dẫn dắt học sinh khi tìm hiểu: Bản dịch nghĩa theo nguyên tác là dịch “quang” là “sáng”. Nhưng câu thơ dịch đổi thành “rọi”. Em thấy “sáng” và “rọi” cũng như “chiếu” khác nhau như thế nào? Em có thích từ “rọi” trong bản dịch này không? tại sao? Tại sao nhà thơ lại xúc cảm từ một ánh trăng đầu giường? Trong hai câu, câu nào là miêu tả, câu nào là biểu cảm? Quan hệ giữa tả và cảm có hợp lý không? Cũng như khi học sinh cảm nhận hai câu thơ cuối: Cử đầu vọng minh nguyệt, Đê đầu tư cố hương. Dịch: Ngẩng đầu nhìn trăng sáng, Cúi đầu nhớ cố hương. Sau khi đọc lại toàn bộ bài thơ, cần dẫn dắt qua các câu hỏi sau: Em có nhận xét gì về 3 từ trong 3 văn bản (phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ): “vọng”, “ngắm”, nhìn về mặt đồng nghĩa em thích từ nhìn hay ngắm hơn? tại sao? Phân tích hai từ trái nghĩa: “ngẩng” (ngẩng đầu) và “cúi” (cúi đầu) để thấy hai từ ngữ đó thể hiện cảm xúc gì của nhà thơ? Tại sao từ vầng trăng sáng mà lại nhớ cố hương? sự liên tưởng cảm xúc đó có tự nhiên không? Với thể loại tác phẩm tự sự thì hình tượng nhân vật trong các bản dịch cần được tìm hiểu, khai thác đúng mức. Nếu không sẽ khó lòng đạt được hiệu quả như mong muốn. Trường hợp “Người thầy đầu tiên” với đoạn trích “Hai cây phong” của Tsin-ghiz Ai-ma-tốp là một thí dụ: “người thầy đầu tiên” hiện lên trên trang giấy không phải qua việc quan sát, miêu tả, so sánh mà lại hiện lên qua việc tái hiện hình ảnh, qua những kỷ niệm sâu sắc với một tình cảm trân trọng, kính yêu, pha chút hối hận, áy náy của An- tư -nai, người học sinh bất hạnh nay đã trở thành viện sỹ. Câu chuyện trải dài trên một quãng thời gian mấy chục năm. Song, ở đây sách giáo khoa ngữ văn 8 chỉ là những đoạn ở phần đầu cuốn truyện. Dẫu là phần đầu nhưng tất cả dều góp phần khắc hoạ hình ảnh thầy giáo Đuy-sen, trong đó những mẩu ký ức sau bao nhiêu năm tháng đã được thời gian khoác màu thi vị, buộc người đọc phải dùng cả tưởng tượng, liên tưởng và đắm mình trong hoài niệm để cùng sống với nhân vật. Chúng ta phải làm sao để học sinh đừng ngập vào sự kiện, đừng bị những suy ngẫm miên man làm loá đi hình ảnh người thầy đã gọi là hồi ức thì không phải tất cả đều sáng rõ như bức chân dung được đặc tả nên không thể dùng cách khai thác phân tích một nhân vật từ ngoại hình đến nội tâm mà ở đây, ngoài hình ảnh của người thầy còn có tấm lòng của người kể, người học trò từng được thầy yêu quí, chăm sóc, bảo vệ và giáo dục. Toàn bộ đoạn trích đề nói về hai cây phong trên đồi cao, những vẻ đẹp kỳ diệu của chúng và vị trí quan trọng trong những kỷ niệm ấu thơ, khơi dậy niềm yêu quê hương với khát vọng khám phá của tuổi trẻ. Chỉ đến cuối cùng, người kể chuyện mới đặt vấn đề mà thuở trước “chưa hề nghĩ đến”. Đó là người trồng cây phong là ai, và có những ước mơ, hy vọng gì khi trồng hai cây phong đó? Cuối đoạn trích, người kể chuyện nói không rõ vì sao mà quả đồi có hai cây phong được gọi là “Trường Đuy-sen”. Như vậy hai cây phong còn là biểu tượng cho trường học, nơi khai tâm và nuôi dưỡng những tình yêu lớn của con người gắn liền với tên một “Người thầy đầu tiên”, thầy Đuy-sen. ở đây, hình ảnh tự sự đã thấm đượm chất trữ tình. Do đó, hình ảnh thầy vừa gợi lên trong ta niềm cảm phục kính yêu vừa gợi lên một sự cảm thông bởi nỗi luyến tiếc, ngậm ngùi có phần áy náy, bứt rứt của người học sinh nay đã về già. Cho nên chúng ta phải lần theo kỷ niệm, những hồi ức để phục hiện hình ảnh người thầy mong gieo vào lòng học sinh niềm yêu thương, ấm áp đó bằng cách dẫn dắt các em (câu hỏi được sử dụng trong bài dạy): Làng Ku-ku-rêu được gới thiệu là một làng quê như thế nào? tại sao hình ảnh cây phong lại chưa được nhắc đến trong những dòng đầu tiên? Hai cây phong được gới thiệu khái quát như thế nào? Hình ảnh so sánh “như những ngọn hải đăng đặt trên núi” có ý nghĩa gì? Tại sao người kể lại có thể “bao giờ cũng cảm biết được chúng, lúc nào cũng nhìn rõ”? Tác giả đã miêu tả vẻ đẹp của hai cây phong từ góc độ nào, thời điểm nào? Hãy chỉ ra các vẻ đẹp đó? Tại sao hai cây phong lại có vẻ đẹp khác nhau như thế? Ta có thể biết được điều gì về tình yêu của người kể chuyện với hai cây phong? Tại sao trước khi bắt đầu nghỉ hè của năm học cuối cùng, hai cây phong lại gây ấn tượng mạnh mẽ cho người kể chuyện và lũ trẻ? Điều gì đã hiện ra trước mắt lũ trẻ? Phản ứng của chúng được miêu tả như thế nào? Qua đó chúng ta đánh giá vị trí của hai cây phong ra sao? Qua việc ca ngợi vẻ đẹp của hai cây phong người kể chuyện hướng tới người vô danh đã trồng và vun xới chúng. Hãy chỉ ra sự ca ngợi tinh tế đó? Với một tự sự khác lại phải có cách khai thác khác, chẳng hạn với “chiếc lá cuối cùng” của O.Henry trong ngữ văn 8 lại khác. Hình tượng “chiếc lá cuối cùng” không chỉ gợi lại ở đó mà còn gợi ta đến tấm lòng của người nghệ sĩ nghèo của nước Mĩ mà đặc biệt là tấm lòng của bác Bơ- men đã tạo lên kiệt tác “chiếc lá cuối cùng”. Câu chuyện ngợi ca tình cảm trong sáng, cao đẹp của những nghệ sĩ chân chính, ca ngợi sự hy sinh quên mình của cụ Bơ- men để vẽ chiếc lá, cứu sống Giôn- xy. Những chiếc lá trường xuân , theo qui luật sinh tồn của tạo hoá, từng chiếc lá một theo mùa đông rét mướt qua đi. chiếc lá cuối cùng sót lại không phải bởi cây ấy là cây trường xuân, không phải bởi lá cây là lá trường xuân mà bởi nét vẽ tài hoa của ông lão Bơ-men làm trường xuân lá ấy. Cây tuy là trường xuân cũng không giữ được lá của mình. Người tuy hữu hạn nhưng lại giữ được lá. Vậy ra điều duy nhất để giữ được lá kia lại trên dương thế này là tấm lòng. Tấm lòng đã thăng hoa thành nghệ thuật. Và nghệ thuật đã mang thiên chức cứu người. Với O.Henry nghệ thuật phải phụng sự cái đẹp, phải phụng sự cuộc sống. Mà cuộc sống, tồn tại trong ý nghĩ cao đẹp n

File đính kèm:

  • docKinh nghiem day van hoc nuoc ngoai.doc