Hồn thơ Nguyễn Bính hay hướng tới những duyên số éo le. Sau
này, khi Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều, khi Nguyễn Bính viết
những bài thơ tình yêu chủ thể, ông cũng lấy cảm hứng từ những
tan vỡ, oan nghiệt. Tình cảm chủ yếu trong thơ tình Nguyễn Bính
là nhớ thương tiếc nuối Cứ thương nhớ mãi thì cho hết đời.
Mỗi lần yêu là một lần đau đớn, cái yêu làm tội làm tình cái thân.
Đau đớn đến kinh hãi. Nhưng trong kinh hãi, lắng nghe xem, bao
nhiêu thèm thuồng, không dứt được. Sợ, nhưng mà thích:
Tôi rờn rợn lắm giai nhân ạ
Đành phụ nhau thôi kẻo đến ngày
Khăn gói gió đưa sang xứ lạ
Ai cười cho được lúc chia tay.
13 trang |
Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 1511 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyễn Bính, người lưu giữ hồn quê, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Bính, người lưu giữ hồn quê
Hồn thơ Nguyễn Bính hay hướng tới những duyên số éo le. Sau
này, khi Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều, khi Nguyễn Bính viết
những bài thơ tình yêu chủ thể, ông cũng lấy cảm hứng từ những
tan vỡ, oan nghiệt. Tình cảm chủ yếu trong thơ tình Nguyễn Bính
là nhớ thương tiếc nuối Cứ thương nhớ mãi thì cho hết đời.
Mỗi lần yêu là một lần đau đớn, cái yêu làm tội làm tình cái thân.
Đau đớn đến kinh hãi. Nhưng trong kinh hãi, lắng nghe xem, bao
nhiêu thèm thuồng, không dứt được. Sợ, nhưng mà thích:
Tôi rờn rợn lắm giai nhân ạ
Đành phụ nhau thôi kẻo đến ngày
Khăn gói gió đưa sang xứ lạ
Ai cười cho được lúc chia tay.
Tạng tâm hồn Nguyễn Bính là tạng buồn thương. Nhìn vào đâu
ông cũng lọc ra cái khía cạnh ly tán, xót thương, dâu bể. Ngôi
trường huyện ngày xưa đổi kiểu, có thể vui, hay ít nhất cũng
không buồn, nhưng ông đã chạnh lòng nhớ mối tình lá sen tơ tuổi
học trò mà buồn não nuột. Mẹ tiễn con về nhà chồng mà sầu
thảm xót thương như đưa con đi cải tạo:
Đưa con ra đến cửa buồng thôi
Mẹ phải xa con khổ mấy mươi
Con ạ đêm nay mình mẹ khóc
Đêm đêm mình mẹ lại đưa thoi.
Người chị tái giá, cố nhiên trong nội tâm có chút lặng buồn,
nhưng trong lời dặn em có đến nỗi tuyệt vọng bi thảm thế này
không:
Chị giờ sống cũng bằng không
Coi như chị đã ngang sông đắm đò.
Nguyễn Bính có tài (tài thành tật) là hay đụng vào chỗ lòng người
dễ đau nhất. Người mẹ đi bước nữa, dặn dò con lại chọn những
lời này:
Chúng con coi mẹ có như không
Khuya rồi đấy nhỉ con đi nghỉ
Gió bấc đêm nay lạnh ngập phòng.
Cơn gió bấc ấy là tự lòng tác giả thổi thêm vào cái cuộc đời vốn
đã không ấm áp.
Gió lạnh sương sa nặng hạt rồi
Thuyền ta đậu lại bến này thôi
Sớm mai xuôi ngược về đâu nhỉ
Nào biết về đâu kẻ ngược xuôi.
Trong đời thực, ít có con thuyền nào lại không biết lộ trình của
mình. Chẳng qua cái gió lạnh sương sa làm tác giả chạnh nghĩ
tới những kiếp giang hồ vô định mà thở hắt ra giọng buồn thương
ấy. Nguyễn Bính đốt lòng người bằng cách bi thảm hóa cuộc đời,
mặc dù cuộc đời đã đủ làm người ta đứt ruột.
Nguyễn Bính nam nhi mà quá nhiều nước mắt. Ông hay khóc lắm
Khóc như em mấy khăn hồng chả phai. Đấy là lời ông tâm sự với
chị, đàn ông sùi sụt, lại còn khăn hồng nữa chứ. Quả là ông có
lâm ly hoá những mối tình của mình, xa rời dần cảm xúc trong,
đẹp thuở tình ái chân quê.
Nét mới ở giai đoạn sau này là mạch cảm xúc cô đơn bi phẫn.
Kiểu sống bằng mộng tưởng, hương đồng gió nội, không chống
chọi nổi thực tế phũ phàng nơi thành thị. Nhà thơ từng có địa chỉ
bằng một gốc một cây dương, một con suối, một mùi hương, giờ
đây đã thành kẻ tha phương, câu thơ nghe đã văn xuôi lắm:
Lẽo đẽo đi trong gió bụi đời
Gian nan vất vả quá anh ơi.
Trong mùa xuân tha hương năm 1941, sau khi đã uống say cười
vỡ ba gian gác / Ném cái chung tình xuống đáy sông, Nguyễn
Bính cay đắng nhìn lại thân thế:
Người ta đi kiếm giàu sang cả
Mình chỉ mơ toàn chuyện viển vông.
Có lúc, nhà thơ đã tạ tội phận con cướp công cha mẹ:
Thày đừng nhớ, mẹ đừng thương
Cầm như đồng kẽm ngang đường bỏ rơi.
Ông thành người bất đắc chí. Tập thơ Mười hai bến nước (1942)
cho thấy nhiều bế tắc, bi phẫn. Giọng thơ không còn mượt mà
thư thái thuở 1936-1938 mà gay gắt, ngao ngán. Những ngày
mưa Huế, lúc mà Sòng đời thua nhẵn cả thơ ngây, ông cùng
người bạn lẻ:
Tỉ tê gợi tới niềm tâm sự
Cúi mặt soi gương chén rượu đầy
Bốn mắt nhuộm chung màu lữ thứ
Đôi lòng hoà một vị chua cay
Đứa thương cha yếu, thằng thương mẹ
Cha mẹ chiều chiều, con nước mây.
(Giời mưa ở Huế)
Đây chính là một chặng phát triển của thơ Nguyễn Bính, không
còn vẻ mơ mộng trong trẻo chân quê, nhưng nỗi dầu dãi nắng
sương u uất này, ông diễn tả cũng tài lắm. Giọng thơ tự nhiên mà
tình cảm chất chứa rất tài tình, hình ảnh lạ như đựng được cảm
giác:
Một thân lữ thứ sầu phong toả
Đốt ngọn đèn lên bóng rợn tường.
(Xuân tha hương)
Thi pháp mơ mộng Nguyễn Bính thuở Chân quê, giờ đây hiện
thực hóa một cách cay đắng như cái xóm Ngự Viên quý tộc tụt
xuống cõi phàm phu, chất thơ sắc và nhanh như phóng sự:
Hoa cử bỏ rồi, thôi hết trạng
Trời đem hoa cỏ trả vườn tiên
Tôn nữ ngồi đan từng chiếc áo
Dân thường qua lại lối đi quen
Nhà cửa xúm nhau thành một xóm
Cay nồng hơi thuốc lẫn hơi men
Mụ vợ bắc nam người tứ xứ
Anh chồng tay trắng lẫn tay đen
Đổi thay tình nghĩ như cơm bữa
Khúc Hậu Đình Hoa hát tự nhiên.
Nhiều lần nhà thơ đã tuyên bố Giày cỏ gươm cùn ta đi đây. Nghe
thì oai, nhưng giày ấy, gươm ấy, đi đâu? Lắng nghe trong giọng
thơ tráng sỹ hề ấy có gì như sân khấu hát bội. Nó là hệ quả tất
yếu của lãng mạn cõi thơ đụng vào hiện thực cõi đời ở tạng tâm
hồn Nguyễn Bính khi ấy. Nguyễn Bính tự biết thế cùng đường
của mình:
Ta đi nhưng biết về đâu chứ
Đã đẩy phong yên lộng bốn trời
Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
Uống say mà gọi thế nhân ơi!
Tình cảnh thê thảm quá! Cả một cơn say tráng sỹ cũng không
che được cái phận ăn mày giữa chợ, thế nhân ơi!
Tháng 8/1945, Nguyễn Bính tham gia cách mạng ở Cần Thơ.
Thơ ông bắt đầu một thay đổi lớn. Bước đổi thay này vốn không
dễ dàng đối với các nhà thơ lãng mạn.
Với Nguyễn Bính, kẻ nặng căn mơ mộng phóng túng và đầy bi
phẫn ấy, lại càng khó. Sở trường gợi cảm và ước lệ với những
bến đò, quán lạnh, dâu xanh, kiếp giang hồ, thân cát bụi, biên ải,
kinh kỳ, bình minh nạm vàng... Đã thế lại có tài làm rơi nước mắt
thiên hạ.
Giờ đây, thơ đánh giặc, động viên, phải tuyên truyền chiến thắng,
phải cổ vũ lòng người, tạo niềm tin và lòng phấn khởi. Chín năm
kháng chiến chống Pháp ông chỉ có một tập thơ mỏng Đồng Tháp
Mười, cho thấy nỗ lực nhưng chưa thấy thành công.
Thời kỳ đấu tranh thống nhất, hiện thực đất nước cắt chia với
những nỗi lòng chờ đợi, những mối tình son sắt phần nào hợp
với tạng cảm xúc Nguyễn Bính. Hơn nữa, là một người tập kết,
Nguyễn Bính thấm thía nỗi đau chia cắt chính trên hoàn cảnh gia
đình ông. Thơ ông dần khởi sắc:
Thương con càng nhớ lời chồng
Lấy thân làm bức thành đồng che con.
Cảm xúc trữ tình cách mạng, nhưng giọng thơ và cả tình thơ như
gặp lại chút hồn xưa. Câu thơ nhuần nhuyễn trở lại:
Sao đặc trời cao sáng suốt đêm
Sao đêm chung sáng chẳng chia miền
Trời còn có bữa sao quên mọc
Anh chẳng đêm nào nguôi nhớ em.
(Đêm sao sáng)
Bài Chiều thu viết năm 1959, lấy lại nhiều tinh hoa của bút pháp
Nguyễn Bính trước kia. Thiên nhiên tươi trẻ, tinh khôi Trái na mở
mắt nhìn ngơ ngác và Tiếng chim mách lẻo cây hồng chín.
Nguyễn Bính nhất có lẽ là:
Đường mòn rộn bước chân về chợ
Vú sữa đầy căng mặt yếm sồi.
Thời ấy, ở nông thôn miền Bắc cũng đã ít người mặc yếm, mà
yếm sồi thì càng hiếm. Nhưng tạng cảm xúc của Nguyễn Bính là
vậy, ông quen hướng về những nét xưa, nên đã "bắt" các bà
nông dân miền Bắc xây dựng xã hội chủ nghĩa mặc lại yếm sồi.
Bài thơ dài Xây nhà máy nói rất ít về nhà máy, cảm xúc thơ
hướng về đồng đất quê hương, cái nền để xây nhà máy. Câu thơ
khơi gợi nhất là câu thơ tả trăng trên bến đò. Bến đò, trăng vốn là
chất liệu quen của Nguyễn Bính tự xa xưa:
Bến đò ai quạt thơm ngô nướng
Mái mái chèo khua rối bóng trăng.
Nguyễn Bính có ý thức mở rộng cảm hứng. Tình yêu quê hương
thành tình yêu đất nước nhưng còn nặng nhiều kiến thức sách
vở. Lượng cảm xúc chưa cao mà lượng thông tin cũng thấp. Ông
hướng về giọng xưa của chính mình:
Quê hương tôi có cây bầu cây nhị
Tiếng đàn kêu tích tịch tình tang
Có cô Tấm náu mình trong quả thị.
Phong cách giàu bản năng, phóng túng, tài hoa vốn là một thế
mạnh của Nguyễn Bính thời trước, giờ đây, trong khuynh hướng
tăng phẩm chất chính trị, chính luận cho thơ, lại thành một trở
ngại.
So với Chế Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh... thơ Nguyễn Bính phát
triển hơi chậm, cảm xúc còn nhiều lúng túng ở bên trong. Tự
mình gò mình lại. Tội lắm. Tập Đêm sao sáng (1962) vừa báo
hiệu sự chín trở lại thì ông tạ thế. Tạ thế vào một ngày áp tết Còn
nguyên vẹn cả một mùa xuân.
Một tài năng thiên bẩm, một cảm hứng dân tộc sâu sắc, một bút
pháp hồi cố tài tình, nhà thơ có đông người đọc nhất của nền thơ
hiện đại, đột ngột dừng ở tuổi bốn mươi chín là một tổn thất mà
càng về sau người ta càng thấm thía kích thước của sự mất mát
đó.
Cuộc sống càng xuôi về hiện đại, càng hòa hợp vào thế giới rộng
lớn, thơ Nguyễn Bính càng được tìm đọc, như một nhu cầu trở về
cội nguồn, càng được quý yêu gìn giữ như một di sản tâm hồn
của người Việt Nam.
File đính kèm:
- Nguyen Binh nguoi luu giu hon que.pdf