Nội dung và tóm tắt chữ người tử tù

Truyện ngắn "Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân đăng lần đầu tiên trên tạp chí Tao Đàn số 29 năm 1939, với tên gọi "Giòng chữ cuối cùng". Sách giáo khoa Ngữ văn 11 hiện nay sử dụng văn bản trích từ tập "Vang bóng một thời", xuất bản năm 1940. Giữa hai bản in này, có sự khác biệt khá lớn.

 

Rất tiếc, sách giáo viên và các sách tham khảo khác chưa chú ý đúng mức đến sự khác biệt này. Chúng tôi thấy cần thiết phải nghiên cứu Chữ người tử tù túc góc độ văn bản học. Vì công việc này sẽ cấp thêm cho bạn độc một hướng thưởng thức văn tài cùng sự kì khu của Nguyễn Tuân. Đúng hơn chúng tôi sẽ kê ra nhiều căn cứ chứng tỏ Nguyễn Tuân không chỉ bổ sung hoặc sửa đổi một số câu chữ, mà thực chất tác giả đã viết lại tác phẩm Giòng chữ cuối cùng của mình [1].

 

 

doc21 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 10142 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Nội dung và tóm tắt chữ người tử tù, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NỘI DUNG VÀ TÓM TẮT CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ Truyện ngắn "Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân đăng lần đầu tiên trên tạp chí Tao Đàn số 29 năm 1939, với tên gọi "Giòng chữ cuối cùng". Sách giáo khoa Ngữ văn 11 hiện nay sử dụng văn bản trích từ tập "Vang bóng một thời", xuất bản năm 1940. Giữa hai bản in này, có sự khác biệt khá lớn. Rất tiếc, sách giáo viên và các sách tham khảo khác chưa chú ý đúng mức đến sự khác biệt này. Chúng tôi thấy cần thiết phải nghiên cứu Chữ người tử tù túc góc độ văn bản học. Vì công việc này sẽ cấp thêm cho bạn độc một hướng thưởng thức văn tài cùng sự kì khu của Nguyễn Tuân. Đúng hơn chúng tôi sẽ kê ra nhiều căn cứ chứng tỏ Nguyễn Tuân không chỉ bổ sung hoặc sửa đổi một số câu chữ, mà thực chất tác giả đã viết lại tác phẩm Giòng chữ cuối cùng của mình [1]. So sánh hai văn bản, chúng tôi nhận thấy có mấy sự khác biệt sau đây: 1. Về tên truyện Tên gọi Chữ người tử tù xuất hiện lần đâu tiên năm 1940, do chính Nguyễn Tuân đặt. Năm 1982 tuyển tập Nguyễn Tuân ra đời, tên gọi Chữ người tử tù vẫn được giữ nguyên. Vậy sự khác biệt giữa nhan đề của bản in đầu tiên với các bản in sau đó đã trở thành sự thực không thể phủ nhận được. Vấn đề còn lại ở chỗ: chúng khác nhau ra sao và có ý nghĩa gì? Tôi thấy, sự khác biệt giữa Giòng chữ cuối cùng với Chữ người tử tù không chỉ giản đơn về mặt câu chữ, mà chủ yếu ở cách thể hiện. Nhan đề đầu tiên đậm tính báo chí và nghiêng về thông tin. Nhan đề thứ hai thiên về bộc lộ quan niệm. Nhan đề thứ nhất dồn trọng tâm vào “chữ”, “chữ” trở thành sự kiện; nhan đề thứ hai chú ý đến quan hệ giữa chữ và người, giữa chữ và cảnh. Đặt nhan đề thứ nhất, Nguyễn Tuân nhấn mạnh vào tính chất của sự kiện, đặt nhan đề thứ hai, Nguyễn Tuận tô đậm yếu tố hoàn cảnh. Mỗi nhan đề có một vẻ đẹp riêng, xét trên phương diện nghĩa. 2. Về cốt truyện Khi so sánh hai văn bản vừa nêu, chúng tôi thấy ở văn bản Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã lược đi rất nhiều tình tiết, sự kiện. Chẳng hạn, ở văn bản Giòng chữ cuối cùng có đoạn “Người ngồi đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Những đường nhăn nheo của một bộ mặt khổ sở, bây giờ đã biến đi đâu. Ở đấy, bây giờ chỉ là mặt nước ao xuân. Bình lặng, kín đáo và êm nhẹ. Ở đấy, trong giây lát lại lập loè chút ánh sáng của con tâm còn thơm sạch. Người ta phải lấy làm lạ hỏi tại sao ngục quan lại không có một cái đầu trâu, một cái trán dơi và một cái mặt khỉ. Trong thế giới Khuyển Ưng, Khuyển Phệ, cái bộ mặt quắc thước, nhẹ nhõm kia thực là một sự lạ lùng. Sự lạ lùng đó, trong bọn quan lại, người bề trên không chịu được và kẻ ty tiểu cũng không chịu được”. Nhưng đến bản Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân chỉ giữ lại ba câu: “ Người ngồi đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Những đường nhăn của một bộ mặt tư lự, bây giờ đã biến mất. Ở đấy chỉ còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng kín đáo và êm nhẹ”. Rõ ràng, Nguyễn Tuân đã bỏ hai tình tiết: dao động nội tâm và đối thoại tư tưởng để làm nổi bật ngoại hình cùng tâm trạng hiện thời của ngục quan. Văn bản Giòng chữ cuối cùng khai thác thái độ của người bề trên và kẻ ty tiểu trước vẻ mặt lạ lùng của viên quản ngục. Còn văn bản Chữ người tử tù thì không xét tới những phương diện đó. Thêm ví dụ nữa. Ở văn bản Giòng chữ cuối cùng, sau khi ngục quan hỏi Huấn Cao: “Ngài muốn gì xin cho biết”, người kể chuyện liền bình giá để giải thích hành động trả lời của ông Huấn. Qua sự bình giá của người kể chuyện, ta thấy Huấn Cao có khẩu khí của nhân vật Từ Hải, và giọng văn Nguyễn Tuân gần với giọng Truyện Kiều: “Ông Huấn Cao là người không chịu giam mình trong lề thói hiện tại của một triều chính; chí ông là muốn vẫy vùng, muốn rạch sơn hà ra làm hai nửa và dựng riêng bờ cõi mình ở một góc trời.... Dưới mắt ông Huấn, còn có ai là đáng kể nữa”. Đến Chữ người tử tù thì đoạn bình giá ấy không còn. Tôi xem việc sửa văn của Nguyễn Tuân lần này rất hợp lí. Vì khi bỏ đoạn văn có tính chất sáo mòn kiểu đó đi, mạch văn sẽ đỡ lộ, mà nội dung cuộc đối thoại cũng nổi bật hơn. Cùng với việc lược đi một số sự kiện, ở văn bản Chữ người tử tù chúng tôi còn thấy Nguyễn Tuân đã thêm rất nhiều tình tiết mới. Ví dụ, ở Giòng chữ cuối cùng tác giả viết: “để mai ta dò ý tứ hắn xem sao”, nhưng đến Chữ người tử tù thì lại thành “để mai ta dò ý tứ lần nữa xem sao rồi sẽ liệu”. Tôi nghĩ chỗ này Nguyễn Tuân đã chúng tỏ được sự tinh tế. Bởi vì qua sự lặp lại của sự kiện, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật đức tính kiên nhẫn cùng tấm lòng thiết tha của ngục quan. Giòng chữ cuối cùng viết: “…từ hôm ấy, cơm rượu lại vẫn đưa đến đều đều và có phần hậu hơn trước nữa…”. Chữ người tử tù giữa nguyên đoạn ấy nhưng bổ sung thêm một chi tiết nữa: “… từ hôm ấy, cơm rượu lại vẫn đưa đến đều đều và có phần hậu hơn trước, duy chỉ có y là không để chân vào buồng giam ông Huấn”. Đọc nhanh thì thấy sự bổ sung này không mấy quan trọng. Nhưng nếu ngẫm kĩ, sẽ vỡ lẽ người kể rất quan tâm tới thái độ và hành ứng xử của ngục quan trước lời lẽ khinh bạc đến điều của ông Huấn. Người kể tái hiện kết quả tác động của câu nói đượm vẻ ngang tàng kia cũng để cụ thể hoá cái uy riêng ở nhân vật Huấn Cao vậy. Đoạn khác, Giòng chữ cuối cùng ghi: “Trong đề lao, ngày đêm của tử tù đợi phút cuối cùng vẫn dài như nghìn năm ở ngoài”. Văn bản Chữ người tử tù thêm: “Trong đề lao, ngày đêm của tử tù đợi phút cuối cùng, đúng như lời thơ xưa, vẫn đằng đẵng như nghìn năm ở ngoài”. Chi tiết “thơ xưa” góp phần tạo nên không khí cổ kính, vang bóng cho truyện. Còn từ “đằng đẵng” thì lại gánh vác nhiệm vụ thời gian hoá tâm trạng nhân vật. Chúng tôi thấy văn bản Chữ người tử tù tô đậm vẻ đẹp và giá trị của chữ Huấn Cao. Hơn nữa lại chú ý tả bức tranh chữ đó trong tương quan với tính cách của nhân vật. Đoạn in nghiêng sau thể hiện rõ điều đó: “Biết đọc vỡ sách thánh hiền, từ những ngày nào, cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm. Tính ông Huấn Cao vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ. Có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời. Viên quản ngục khổ tâm nhất là có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình mà không biết làm thế nào mà xin được chữ…” Giòng chữ cuối cùng không lí tưởng hoá nhân vật bằng cách trên, mà chỉ tập trung tả sở nguyện và tâm trạng của viên quản ngục. Thử đọc lại đoạn văn ban đầu: “ Biết đọc vỡ sách thánh hiền, từ những ngày nào, cái sở nguyện của viên quản ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết. Y khổ tâm nhất là có một ông Huấn Cao trong tay, dưới quyền mình mà không biết làm thế nào mà xin được chữ”. Qua đây ta thấy, Nguyễn Tuân ngày càng chăm chút cho nhân vật chính. Ông đã làm đẹp nhân vật của mình bằng cách ghi lại ấn tượng về nét chữ và bằng thủ pháp có phần cường điệu. Tôi xem cái điệu đà hay cái duyên riêng của Nguyễn Tuân phần nào đã toát lên từ văn cách luôn đẩy mọi sự vật, sự việc đến giới hạn tột cùng của nó. Cảm nghĩ về bài "Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân Hầu hết các tác giả của nền văn học Việt Nam của chúng ta từ trước đến nay , ai cũng đề nói về cái đẹp cái hoàn mĩ của cuộc sống con người. Tác giả Nguyễn Tuân cũng không ngoại lệ.Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho , phẩm cách cứng cỏi, học vấn uyên bác, và đặc biệt rất yêu nghề có cá tính sáng tạo độc đáo. Nên ông đã sử dụng hình tưởng của một nhân vật có thật để xạy dựng nên một hình tượng nhân vật đó là Huấn Cao. Và đó cũng là tác phẩm nỗi tiếng của ông trích trong tập " Vang bóng một thời" nói về những thú vui tao nhã, cũng những con người trong xã hội phong kiến như một sự ngợi ca về cá đẹp của một thời đã qua. Truyện xoay quanh hai nhân vật đó là người tử tù Huấn Cao là sự hội tụ của nét đẹp tài hoa, khí phách, thiên lương và Viên quản ngục người đại diện cho xã hội phong kiến cũ. Huấn Cao là một người nghệ sỉ tài hoa , ông là người viết chữ đẹp nhất trong vùng " những nét chữ vuông tươi tắn......." thể hiện cái tài cái tâm, khí phách cỷa còn người , chữ Huấn Cao chính là nhân cách phi thường của ông và vù thế chữ HC chính là niềm mơ ước và ngưỡng mộ của viên quản ngục. Viên quản ngục rất bất ngờ khi trong những người tử tù do mình cai quản lại có HC một người ông đã hâm mộ từ lâu. Và ộng rất biệt đãi với HC ( đem rượi thịt cho HC thái độ tuân phục....) nhưng lần nào cũng bị HC từ chối và bị Hc hiều lầm. Nhưng rồi HC cũng đã hiểu ra, viên quản ngục là một biểu tưởng của cái đẹp, tâm hồn biệt nhỡn liên tài , sở thích cao quý, tâm hồn nghệ sị bị lạc vào chốn bùn nhơ này. Đó là đại diện của xã hội phong kiến thời đó thu nhỏ. Để rồi đó chính là cảnh chưa từng có xưa nay trong ngục tù hôi hám chật hẹp này. Trật tự đều bị đảo ngược . Người cho chữ chính là một tử tù chuẩn bị hành quyết vào sáng hôm sau lại là đại diện cho sự ban phát cái đẹp. Cái đẹp thống trị nơi ngục tù tăm tối ấy.Từ đó cho ta thấy sự trường tồn bất tử của cái đẹp hiện hữu.. Ngược lại viên quản ngục chính là đại diện của xã hội phong kién thời ấy khúm núm xin chữ, đại diện cho bóng tối bao trùm và vây quanh cái đẹp hiện hữu , một thứ ánh sáng kỳ lạ của cái đẹp. Một trật tự đã bị đão lộn, nhà tù có quyền quy đã bị sụp đỗ. Cái đẹp đã làm cho hai người họ trở thành tri kỉ, cái đp5 có thề nảy sinh từ vùng đất chết, bùn nhơ. Thể hiện sự cảm hoá con người của HC bằng cái tài , cái tâm và khí phách. Tình huống đặc biệt là tình huống gặp gỡ giữa hai bên đầy oái ăm vả đầy kịch tính một bên là tội phạm còn bên kia lại là giai cấp thống trị. Trên bình diên về xã hội, họ là những kẻ đối nghịch nhau ,nhưng trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm tri kỉ của nhau. Thủ pháp nghệ thuật đối lập nổi bật nét đặc sắc của tác phẩm. Và theo Nguyễn Tuân nét đẹp là sự dung hoà giữa 3 yếu tố đó là cái tài cái tấm và cái dũng khí có ở con người. Và từ đó cho thấy quan niệm cũa Nguyễn Tuân với cái đẹp hiện hữu ấy. Với ông cái đẹp phải đi song song với bản lĩnh khí phách, với ý nghĩ thức giữ gìn bản ngã( cái tâm , cái thiên lương của con người ), mà trong đó cái là gốc rễ của nhân cách , là xuất phát điểm là nơi của tài năng và khí phách. Xây dựng hình tưỡng ấy Nguyễn Tuân đả kín đáo giử gắm niềm ngưỡng mộ của mình đối với nhưng người dám xã thân vì tự do dân tộc trong thời đại của ông. Truyện ngắn ca ngợi những con người tài năng , dù ở nơi bùn nhơ nhưng vẫn giữ được tâm hồn thanh cao , thiên lương , Cái đẹp cho dù ở bất cứ nơi nào có hoàn cảch khốn cùng nghiệt ngã bấy nhiêu nhưng vẫn toả sáng và hiện hữu như anh sáng luôn luôn cai trị bóng tối. Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân) Tuệ Lãng   Câu 1: Vì sao tác giả cho cảnh Huấn Cao cho chữ là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” (truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân).   Câu 2: Hãy nêu những đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân.   Đề 1: Phân tích đoạn văn tả cảnh ông Huấn Cao “cho chữ” trong nhà giam (truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân) để làm rõ giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm.   Đề 2: Phân tích nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân.   Đề3: Phân tích nhân vật viên quản ngục trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân. Câu 1: Vì sao tác giả cho cảnh Huấn Cao cho chữ là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” (truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân) ? Nguyễn Tuân quả thực là nhà văn những nhân vật phi thường, tính cách độc đáo, những tình cảm mãnh liệt, những phong cảnh tuyệt mỹ, dữ dội. Đọc truyện ngắn “Chữ người tử tù” (1939), một tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân, người đọc càng thấy rõ những giá trị tư tưởng và dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong đoạn văn tả cảnh tượng một người tử tù cho chữ một viên quản ngục. Nhà văn đã gọi đó là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”, Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có, vì trò chơi thư pháp, chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bẩn thỉu, hôi hám. Cảnh tượng lạ lùng chưa từng có bởi vì người nghệ sĩ có tài viết chữ đẹp lại trổ tài trong khi cổ mang gông, chân đeo xiềng và sáng mai ra pháp trường. Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi lồng lộng, còn viên quản ngục và thư lại, những kẻ đại diện cho trật tự xã hội đương thời thì lại khúm núm, run run. Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, nơi hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính là cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không còn quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ còn đó. Và trong cảnh tượng ấy, người tử tù lại có lời khuyên với viên quản ngục. Có thể coi là đó chính di huấn của người anh hùng tài hoa về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương. Di huấn này thể hiện rõ quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Ông cho rằng cái Đẹp gắn liền với cái Thiện. Người say mê cái Đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái Đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái Dũng. Hiện thân của cái đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù. Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chỉ run run bưng chậu mực không phải là sự quy luỵ hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này. Chính có sự “biệt nhỡn liên tài”, người tử tù Huấn Cao đã bộc lộ hết khí phách anh hùng và sự tài hoa của mình. Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là không chỉ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn”Chữ người tử tù” mà đó còn là cảnh tượng mang giá trị nghệ thuật lớn lao của nền văn chương Việt Nam. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hoá, sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu khiến đoan văn dựng lên được một không khí cổ kính, trang nghiêm, đầy xúc động, mang đậm vẻ đẹp bi tráng. Câu 2: Hãy nêu những đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân. - Nghệ thuật tạo tình huống độc đáo: Đó là cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao và viên quản ngục trong chốn lao tù nhưng trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri kỷ. Thông qua tình huống truyện tính cách các nhân vật được khắc họa rõ nét và chủ đề tác phẩm được tô đậm. - Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nhân vật được nhìn nhận từ phương diện tài hoa nghệ sĩ được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn. Viên quản ngục và Huấn Cao được đặt trong mối quan hệ tương phán soi sáng lẫn nhau cách miêu tả gián tiếp… - Nghệ thuật tạo dựng cảnh cho chữ: “Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Trong cảnh này, thủ pháp nghệ thuật đối lập được sử dụng một cách triệt để đã góp phần khắc họa đậm nét tính cách nhân vật. - Nghệ thuật tạo không khí cổ kính bằng những chi tiết chọn lọc, câu văn có nhịp điệu thong thả, đỉnh đạc,… - Ngôn ngữ: giàu tính hình tượng, giàu tính tạo hình, sử dụng đắc địa nhiều từ Hán Việt… Đề 1: Phân tích đoạn văn tả cảnh ông Huấn Cao “cho chữ” trong nhà giam (truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân) để làm rõ giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm. Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một nhà văn lãng mạn. Ông yêu đến say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Nhân vật hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn Tuân phải là hiện thân của cái đẹp. Đó là những con người tài hoa hoạt động trong những hoàn cảnh đặc biệt phi thường. Truyện ngắn Chữ người tử tù trong tập Vang bóng một thời là áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của ông. Giá trị tư tưởng và dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện chủ yếu trong đoạn văn tả cảnh người tử tù cho chữ viên quản ngục. Đó chính là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù là một nho sĩ tài hoa của một thời đã qua nay chỉ còn “vang bóng”. Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà thơ, lãnh tụ của khởi nghĩa nông dân là Cao Bá Quát, một người hết sức tài hoa và dũng khí phi thường để sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao. Ông đã đưa vào hai đặc điểm nổi bật của nguyên mẫu để xây dựng nhân vật Huấn Cao: viết chữ đẹp nổi tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa thể hiện lý tưởng thẩm mỹ của ông lại vừa thoả mãn tinh thần nổi loạn của ông đối với xã hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ. Truyện có hai nhân vật chính, một là ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, một là viên quản ngục say mê chữ đẹp của Huấn Cao nên quyết tìm mọi cách để “xin chữ” treo trong nhà. Lão coi chữ Huấn Cao như báu vật. Họ đã gặp nhau trong một tình huống oái oăm là nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp lại là một tên “đại nghịch” cầm đầu cuộc khởi nghĩa nông dân mà triều đình gọi là nổi loạn, là “giặc” đang bị bắt giam chờ ngày thụ hình. Còn người mê chữ đẹp của ông Huấn Cao lại là một tên quản ngục đại diện cho cái trật tự xã hội ấy. Trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri kỉ, trên bình diện xã hội họ ở hai vị trí đối lập. Từ tình huống đầy kịch tính ấy, tính cách của hai nhân vật được bộc lộ và tư tưởng chủ đề của truyện được thể hiện một cách sâu sắc. Nguyễn Tuân thích xây dựng nhân vật trong tình huống phi thường. Một viên quản ngục, tay sai đắc lực cho bộ máy thống trị lại tha thiết xin chữ một tội phạm. Còn Huấn Cao là một bậc anh hùng, một nghệ sĩ đâu có dễ dàng cho chữ một kẻ tiểu nhân đang làm nghề tàn ác, lừa lọc. Vậy mà việc cho chữ trong ngục đã diễn ra. Huấn Cao nói: “Ta nhất sinh không vì vàng bạc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ”. Huấn Cao coi thường tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho chữ viên quản ngục vì con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có kẻ biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quí cái đẹp của chữ nghĩa. “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quí như vậy”. Viên quản ngục cũng không dễ gì nhận được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị đuổi. Có lần hắn mon men vào ngục định làm quen và biệt đãi Huấn Cao để xin chữ thì lại bị Huấn Cao cự tuyệt: “Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều, là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, ông đã nói một lời sâu sắc và cảm động “Thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Coi khinh cường quyền và tiền bạc. Huấn Cao chỉ trọng những tấm lòng biết quí cái đẹp, cái tài, có sở thích cao quí. Theo ông, những con người ấy là còn giữ được “thiên lương”. Ông khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn của mình đi “ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. Huấn Cao còn đẹp ở khí phách. Ông là một người tử tù gần đến ngày tử hình vẫn giữ được tư thế hiên ngang. Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn Chỉ còn tiến mõ vọng canh, “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” đã bày ra. Trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy màng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián Tác giả cố ý miêu tả bằng cách tương phản giữa tính cách cao quí của Huấn Cao với cái dơ dáy, bẩn thỉu của nhà tù, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội bấy giờ. Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính trong tình tiết này, cái Đẹp và nhân cách anh hùng hoà hợp dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang giậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh ô chữ trên phiến lục óng. Hình ảnh người tử tù trở nên lồng lộng. Viên quản ngục và viên thư  lại trở nên bé nhỏ, bị động, khúm núm trước người tử tù”. Nhưng với cách suy tưởng sâu xa hơn, chúng ta có thể hiểu được sự vĩ đại của viên quản ngục. Cảnh tượng này quả là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có?”. Lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bẩn thỉu, hôi hám. Cảnh tượng lạ lùng chưa từng có bởi vì người nghệ sĩ có tài viết chữ đẹp lại trổ tài trong khi cổ mang gông, chân đeo xiềng và sáng mai ra pháp trường. Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi lồng lộng, còn viên quản ngục và thư lại, những kẻ đại diện cho trật tự xã hội đương thời thì lại khúm núm run run. Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính là cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không còn quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ còn đó. Và nhất là lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyễn Tuân là cái Đẹp gắn liền với cái Thiện. Người say mê cái Đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái Đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái Dũng. Hiện thân của cái đẹp là hình tượng Huấn Cao đó, khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù. Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là “thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chỉ run run bưng chậu mực không phải là sự quy luỵ hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này. Nhưng nếu không có người cai ngục biết trân trọng tài năng thì Huấn Cao cũng chỉ là một Huấn Cao tử tù. Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn Chữ người tử tù. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hoá, sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu. Một không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn. Chữ người tử tù không chỉ còn là chuyện “chữ” nữa mà chính là cái Đẹp, cái Đẹp của “những nét chữ tươi tắn nói lên những hoài bão tung hoành của một đời người”. Đây là sự chiến thắng của cái Đẹp, cái Cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu, nô lệ. Sự hòa hợp giữa cái Đẹp và khí phách trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao nhân cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí duy mĩ của ông./. Phân tích vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện "Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân. Bài làm Các ý chính: 1. Giới thiệu vài nét về tác phẩm và nhân vật. - Chữ người tử tù là truyện ngắn rút từ tập Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân (1940). - Đây là truyện ngắn có nội dung tư tưởng sâu sắc và có nhiều thành công về các phương diện nghệ thuật. Giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm bộc lộ tập trung trong hình tượng nhân vật Huấn Cao. 2. Vẻ đẹp của Huấn Cao trước hết là vẻ đẹp của con người nghệ sĩ tài hoa. - Huấn Cao có tài viết chữ. Chữ Huấn Cao viết là chữ Hán, loại văn tự giàu tính tạo hình. Các nhà nho thuở xưa viết chữ để bộc lộ cái tâm, cái chí. Viết chữ thành một môn nghệ thuật được gọi là thư pháp. Có người viết chữ, thì có người chơi chữ. Người ta treo chữ đẹp ở những nơi trang trọng trong nhà, xem đó như một thú chơi tao nhã. - Huấn Cao là nghệ sĩ trong nghệ thuật thư pháp. "Tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp" của ông nổi tiếng khắp một vùng tỉnh Sơn. Ngay cả viên quản ngục của một huyện nhỏ vô danh cũng biết "chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm (...). Có được chữ ông Huấn Cao mà treo trong nhà là có một báu vật trên đời". Cho nên, "sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao viết". Để có được chữ ông Huấn Cao, viên quản ngục không những phải dụng công, phải nhẫn nhục, mà còn phải dũng cảm. Bởi vì, biệt đãi Huấn Cao, một kẻ tử tù, là việc làm nguy hiểm, có khi phải trả bằng tính mạng của mình. 3. Huấn Cao là người có "thiên lương" trong sáng, cao đẹp. - Trong truyện "Chữ người tử tù", khái niệm "thiên lương" được Nguyễn Tuân sử dụng với nhiều ý nghĩa khác nhau. Với quản ngục và thơ lại, thì

File đính kèm:

  • docTONG HOP CAC BAI PHAN TICH CAM NHAN TRONG CHUNGUOI TU TU.doc
Giáo án liên quan