- Chế Lan Viên (1920 - 1989) tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, quê gốc ở tỉnh Quảng Trị . Từ năm 1927, ông chuyển vào An Nhơn, Bình Định. Sau khi tốt nghiệp Trung học, ông làm báo ở Sài Gòn và các tỉnh miền Trung. Ông tham gia CMT8 ở Quy Nhơn.Trong kháng chiến chống Pháp, ông hoạt động văn nghệ và báo chí ở Liên khu IV và chiến trường Bình-Trị-Thiên. Sau năm 1954, ông về Hà Nội, tham gia lãnh đạo Hội Nhà văn Việt Nam.Sau năm 1975, ông tiếp tục hoạt động văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh.
- Con đường thơ: trải qua nhiều chặng đường với những bước ngoặt đánh dấu sự chuyển biến tư tưởng và những tìm tòi đổi mới nghệ thuật.
+ Trước CM: thế giới kinh dị, thần bí của “Điêu tàn”.
+ Sau CM: bắt rễ sâu vào đời sống rộng lớn của nhân dân và đất nước.
+ Trong kháng chiến chống Mĩ: nóng hổi tính thời sự, giàu chất sử thi, chất anh hùng ca và chất chính luận.
+ Từ sau 1975: trở về với đời sống thế sự và những trăn trở, chiêm nghiệm về “cái tôi” trong mối quan hệ phức tạp của đời sống.
- Phong cách thơ: độc đáo, có vẻ đẹp trí tuệ, có ý thức khai thác triệt để những tương quan đối lập, giàu chất suy tưởng triết lí với thế giới hình ảnh đa dạng phong phú.
- Năm 1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
- Tác phẩm chính: các tập thơ Điêu tàn (1937), Ánh sáng và phù sa (1960), Hoa ngày thường, chim báo bão (1967)
7 trang |
Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 4427 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích tác phẩm Tiếng hát con tàu, tác giả Chế Lan Viên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tổ 5
TIẾNG HÁT CON TÀU
Chế Lan Viên
Vào bài:
Khát vọng xây dựng đất nước sau khi miền Bắc giành được độc lập luôn là cảm hứng lớn lao cho những văn nhân nghệ sĩ trong thời kì này. Chế Lan Viên cũng vậy. Bài thơ mà chúng ta sắp tìm hiểu sẽ giúp cho ta hiểu rõ thể tấm lòng, tâm tư tình cảm của một tâm hồn nghệ sĩ giàu tình yêu quê hương.
TIỂU DẪN:
Tác giả:
- Chế Lan Viên (1920 - 1989) tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, quê gốc ở tỉnh Quảng Trị . Từ năm 1927, ông chuyển vào An Nhơn, Bình Định. Sau khi tốt nghiệp Trung học, ông làm báo ở Sài Gòn và các tỉnh miền Trung. Ông tham gia CMT8 ở Quy Nhơn.Trong kháng chiến chống Pháp, ông hoạt động văn nghệ và báo chí ở Liên khu IV và chiến trường Bình-Trị-Thiên. Sau năm 1954, ông về Hà Nội, tham gia lãnh đạo Hội Nhà văn Việt Nam.Sau năm 1975, ông tiếp tục hoạt động văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh.
- Con đường thơ: trải qua nhiều chặng đường với những bước ngoặt đánh dấu sự chuyển biến tư tưởng và những tìm tòi đổi mới nghệ thuật.
+ Trước CM: thế giới kinh dị, thần bí của “Điêu tàn”.
+ Sau CM: bắt rễ sâu vào đời sống rộng lớn của nhân dân và đất nước.
+ Trong kháng chiến chống Mĩ: nóng hổi tính thời sự, giàu chất sử thi, chất anh hùng ca và chất chính luận.
+ Từ sau 1975: trở về với đời sống thế sự và những trăn trở, chiêm nghiệm về “cái tôi” trong mối quan hệ phức tạp của đời sống.
- Phong cách thơ: độc đáo, có vẻ đẹp trí tuệ, có ý thức khai thác triệt để những tương quan đối lập, giàu chất suy tưởng triết lí với thế giới hình ảnh đa dạng phong phú.
- Năm 1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
- Tác phẩm chính: các tập thơ Điêu tàn (1937), Ánh sáng và phù sa (1960), Hoa ngày thường, chim báo bão (1967)…
Tác phẩm:
Đôi nét về tập thơ “Ánh sáng và phù sa”
- Tập thơ xuất bản năm 1960. Đây là tập thơ đánh dấu thành công của một nhà thơ đi “từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui, từ chân trời của một người đến chân trời của tất cả”.
- Tập thơ thể hiện sự gắn bó, lòng biết ơn của nhà thơ đối với cuộc đời, nhân dân, đất nước, Đảng, Bác Hồ. Tất cả như “ánh sáng” soi đường và “phù sa” bồi đắp tâm hồn, tình cảm, nhận thức của nhà thơ.
Hoàn cảnh sáng tác:
- Rút từ tập “Ánh sáng và phù sa”.
- Bài thơ được gợi cảm hứng từ một sự kiện kinh tế-chính trị,xã hội: cuộc vận động đồng bào miền xuôi lên xây dựng kinh tế ở miền núi Tây Bắc vào những năm 1958- 1960.
Bố cục: 3 đoạn
- Đoạn 1: 2 khổ đầu: Sự trăn trở và lời giục giã, mời gọi lên đường.
- Đoạn 2: 9 khổ tiếp theo: khúc hát hoài niệm của con tàu tâm hồn khi trở về Tây Bắc.
- Đoạn 3: 4 khổ cuối: Khúc hát lên đường sôi nổi, tin tưởng và say mê.
Sự vận động tâm trạng của chủ thể trữ tình:
Giọng điệu, âm hưởng của bài thơ biến đổi theo mạch cảm xúc
- Đoạn 1: Lời giục giã với những câu hỏi dồn dập, tăng tiến.
- Đoạn 2:
+ Lời bày tỏ trực tiếp tình cảm và dòng hoài niệm đầy ân tình về nhân dân trong những năm kháng chiến chống Pháp.
+ Xen với những hình ảnh của hồi tưởng là những chiêm nghiệm về đời sống được đúc kết trong giọng thơ trầm lắng.
- Đoạn 3: Mang âm hưởng của khúc hát lên đường vừa dồn dập, lôi cuốn vừa bay bổng, say mê.
ĐỌC-HIỂU VĂN BẢN:
Ý nghĩa nhan đề và lời đề từ
Ý nghĩa nhan đề : “Tiếng hát con tàu” là một nhân hóa mang ý nghĩa biểu tượng.
- “Con tàu”: sự thật những năm Chế Lan Viên viết bài thơ này thì chưa có đường tàu cũng như chưa có con tàu nào lên Tây Bắc. Hình tượng con tàu ở đây là hình ảnh độc đáo mang ý nghĩa biểu tượng cho tâm hồn nhà thơ đang khát khao lên đường xây dựng đất nước, muốn vượt ra khỏi cuộc sống chật hẹp, quẩn quanh để đến với cuộc đời rộng lớn.
- “Tieáng haùt” laø khaùt voïng caát leân thaønh tieáng, nhaân lên thành nhaïc, laø haønh khuùc leân ñöôøng say meâ, giuïc giaõ.
“Tiếng hát con tàu”chính là tiếng hát của tâm hồn nhà thơ –một tâm hồn phấn chấn, hăm hở với khát vọng lên đường đến những miền đất mới mà thực chất là trở về với nhân dân, đất nước, ngọn nguồn hồn thơ và những sáng tạo.
Cảm nhận về 4 câu đề từ:
Bốn câu thơ đề từ của tác phẩm như là sự gói ghém trọn vẹn nỗi niềm của nhà thơ, là sự trải nghiệm của một người có hơn hai mươi năm cầm bút để đi đến một chân lý giản đơn:Tây Bắc ư ? Có riêng gì Tây BắcKhi lòng ta đã hóa những con tàu Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hátTâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu
“Tây Bắc” là ở đâu? Tây Bắc chỉ vùng cực Tây của Tổ quốc, nơi trải qua cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp đầy đau thương nhưng hào hùng của dân tộc, là nơi cần những bàn tay kiến thiết, cần những tâm hồn xây dựng.Tác giả khẳng định trong câu hỏi: “Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc”.Tây Bắc không chỉ là một hình ảnh cụ thể mà Tây Bắc còn là biểu tượng của đất nước, của Tổ quốc, có nghĩa là nơi nào trên Tổ quốc của chúng ta cần đến nhưng bàn tay lao động, những bàn tay kiến thiết thì ở đó có “lòng ta”. “ Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát” thì đó là lúc “Lòng ta hóa những con tàu”. Đặc biệt hơn nữa, đó là sự gắn kết giữa “Lòng ta”, “tâm hồn ta” với Tổ quốc. Tổ quốc không ở đâu xa mà ở ngay tâm hồn ta: “Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”. Như vậy “Con tàu” chính là lòng ta, tâm hồn ta mang tất cả sức mạnh, niềm vui, mang khát vọng cống hiến để lên đường theo tiếng gọi Tổ quốc. Như vậy, bốn câu thơ đề từ là nguồn cảm hứng cho toàn bộ bài thơ đó là cảm hứng lên đường, cảm hứng hòa nhập vào cuộc đời rộng lớn của nhân dân, từ đó khơi nguồn cảm hứng sáng tạo cho thơ ca và nghệ thuật.
Hai khổ thơ đầu: Sự trăn trở và lời giục giã, mời gọi lên đường
Hai khổ thơ đầu là tâm trạng và nỗi niềm băn khoăn của thi nhân về chuyện đi hoặc ở lại:Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng
Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà NộiAnh có nghe gió ngàn đang rú gọiNgoài cửa ô ? Tàu đói những vầng trăng .
Đất nước mênh mông đời anh nhỏ hẹpTàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khépTâm hồn anh chờ gặp anh trên kia.
Đi tức là đến với vùng đất Tây Bắc nhiều khó khăn, gian khổ. Ở chính là ở lại Hà Nội (cuộc sống đầy đủ). Tâm trạng ngại đi xa, ngại khó khăn gian khổ là một sự thật, không chỉ riêng nhà thơ mà ở rất nhiều tâm trạng con người sau ngày hòa bình lập lại. Và để tô đậm tâm trạng và nỗi niềm băn khoăn ấy, với nghệ thuật phân thân nhà thơ tự tách đôi dòng cảm xúc của mình bằng cách tự vấn qua hàng loạt câu hỏi tu từ đầy giục giã, hối thúc: “anh đi chăng?, “anh có nghe?”, “sao chửa ra đi?” làm lay động tâm hồn người nghệ sĩ. Nếu như chọn “giữ trời Hà Nội” thì đó là cuộc sống ích kỷ, hưởng thụ đó chắc chắn là cuộc sống tù túng chật hẹp. Nhà thơ cũng tự phê bình chính bản thân mình qua phép đối lập: “bạn bè đi xa”-“anh giữ trời Hà Nội”, “đất nước mênh mông”-“đời anh nhỏ hẹp”, “tàu gọi anh đi”-“sao chửa ra đi”… Và chắc chắn sống trong cuộc đời như vậy thì không bao giờ tìm được cảm hứng cho văn nghệ: “Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép”. Người nghệ sĩ sẽ có thể tìm được cảm hứng văn nghệ khi đi về phía nhân dân, về phía sáng tạo “tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”. “Trên kia” chính là Tây Bắc, là Tổ quốc, là nhân dân, là nguồn cảm hứng mãnh liệt, dồi dào cho sức sống của nghệ thuật. Đó là nơi “gió ngàn đang rú gọi” đang mời gọi giục giã nhà thơ lên đường.Chi tiết con tàu “đói những vầng trăng” chỉ sự nghèo đói của cảm hứng tâm hồn nghệ sĩ và cũng cho thấy con tàu mang khát vọng lên đường nhưng chưa thực sự đủ sức lên đường bởi nó đang thiếu đi niềm nhiệt huyết.
Chín khổ tiếp theo: khúc hát hoài niệm của con tàu tâm hồn khi trở về Tây Bắc.
Hình ảnh Tây Bắc hiện lên trong tâm trí nhà thơ song hành cùng kỷ niệm mười năm kháng chiến gian khổ và anh dũng, mười năm nhà thơ đi tìm lại chính mình :Trên Tây Bắc! Ôi mười năm Tây BắcXứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùngNơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đấtNay rạt rào đã chín trái đầu xuânƠi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửaNghìn năm sau, còn đủ sức soi đườngCon đã đi nhưng con cần vượt nữaCho con về gặp lại mẹ yêu thương.
“Mười năm” – với lịch sử chỉ là một cái chớp mắt, với đời người cũng chỉ như một giấc chiêm bao, nhưng đối với một lớp người như Chế Lan Viên thì đó là cả một quá trình lột xác đầy đau đớn mà thiêng liêng. Nhà thơ đã viết bằng niềm tự hào mãnh liệt, thể hiện qua cách gọi Tây Bắc là xứ thiêng liêng, là vùng đất của anh hùng bởi Tây Bắc là nơi biết bao xương máu con người đã đổ xuống, là vùng đất khai sinh ra nguồn cảm hứng cho thơ ca nghệ thuật. Mảnh đất ấy là ân tình, là “máu đỏ” thấm vào đất, để thấm vào huyết quản, để nhà thơ một lần nữa cảm nhận một cách đầy tự hào ba tiếng “tâm hồn ta”. Đó là tấm lòng của một con người hiểu được giá trị của những hy sinh mất mát. Đó còn là niềm sung sưóng của con người nhìn sắc “chín trái đầu xuân”, tự nhìn lại mình để biết ơn sâu sắc hơn mảnh đất đã tạo độ chín trong nhận thức.Giọng thơ ấy không đơn thuần là tiếng nói lý trí mà chính là ân tình sâu nặng với kháng chiến. Những thán từ vang ra từ sâu thẳm lòng mình đã đưa nhà thơ sống lại với tất cả những ân tình kháng chiến, nói lên tiếng nói tâm tình của đứa con trong phút quay về. Từ thực tại, dòng suy tưởng nối kết “mười năm” quá khứ và “nghìn năm sau” trong ánh sáng bừng lên của “ngọn lửa” bất diệt. Mỗi một cách xưng hô là sự biến chuyển của nhận thức và tâm trạng. Khi nhà thơ xưng “Con” và Tây Bắc trở thành “Mẹ yêu thương”. Cách gọi ấy cho thấy nhận thức sâu sắc của Chế Lan Viên về cội nguồn đất nước của dân tộc. Nhà thơ viết hoa chữ “Mẹ” được xem như mỹ từ, đó là mẹ Tổ quốc, là mẹ của đất nước, là mẹ của cội nguồn cảm hứng nghệ thuật.
Với nhà thơ Chế Lan Viên thì việc gặp lại nhân dân là một niềm vui lớn, khao khát lớn, hạnh phúc lớn được thể hiện qua bốn câu thơ:
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũCỏ đón giêng hai, chim én gặp mùaNhư đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữaChiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa
Nhà thơ sử dụng thủ pháp nghệ thuật so sánh qua hình ảnh “nai về suối cũ”, “cỏ đón giêng hai”, “chim én gặp mùa”, “đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa”. Cách so sánh này vừa quen lại vừa lạ, thể hiện niềm hạnh phúc của nhà thơ khi tìm về nguồn cội bởi cuộc đời đẹp nhất là khi gắn bó với Tổ quốc, với nhân dân. Câu thơ đầu với lối so sánh rất độc đáo. Nếu mùa đông đàn nai đi vào rừng hẻo lánh xa xôi để tìm kiếm nguồn thức ăn, khi mùa xuân ấm áp trở lại thì chúng lại tìm về suối cũ. Và còn gì vui bằng khi nai về suối cũ và vui gì bằng khi con gặp lại nhân dân. Cách so sánh làm đồng hiện ân nghĩa thủy chung ở đời. Niềm vui đó còn được thể hiện qua so sánh với thế giới của thiên nhiên, gặp lại nhân dân mà vui như “cỏ đón giêng hai”, vui như ký ức tuổi thơ “đói lòng gặp dòng sữa ngọt lành”, vui như khi “gặp cánh tay đưa nôi cho giấc ngủ trẻ thơ”. Đặc biệt nhà thơ lại sử dụng những cặp từ hình ảnh đi đôi với nhau, cái này là sự sống cho cái kia và ngược lại: Con-nhân dân, nai- suối cũ, cỏ-giêng hai, chim én- mùa xuân, trẻ thơ - sữa, nôi - cánh tay. Việc trở về với nhân dân còn là một lẽ tự nhiên, phù hợp với quy luật. Về với nhân dân là về với ngọn nguồn của sáng tạo nghệ thuật, về với những gì thân thiết, sâu nặng nhất của lòng mình.
Nhân dân là ai? Nhân dân chính là những người đã hi sinh, những người đã san sẻ cùng với bộ đội trong cuộc kháng chiến gian lao. Đó chính là anh du kích:
Con nhớ anh con, người anh du kíchChiếc áo nâu anh mặc đêm công đồnChiếc áo nâu suốt một đời vá ráchĐêm cuối cùng anh cởi lại cho con
Đó là vẻ đẹp của con người cần lao anh dũng. Nhà thơ đã gọi là “anh con” như thể máu mủ ruột rà và nhà thơ đặc biệt nhấn mạnh một chi tiết “chiếc áo nâu”. Đó chính là hình ảnh của sự nghèo khổ một đời vá rách nhưng chiếc áo đó là chiếc áo nâu của ân tình ân nghĩa “Đêm cuối cùng anh gửi lại cho con”. Chiếc áo nâu đó được truyền lại cho con như truyền lại sự sống và tinh thần chiến đấu.
Nhân dân còn là hình ảnh của người em liên lạc giàu lòng dũng cảm, gan dạ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà cách mạng giao phó: “Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc/Mười năm tròn chưa mất một phong thư”. Hình ảnh người em liên lạc trong thơ của Chế Lan Viên khiến ta nhớ tới nhân vật Tnú trong tác phẩm “Rừng xà nu”, chú bé Lượm trong thơ Tố Hữu, anh Kim Đồng, anh Lê Văn Tám …
Tập trung tình cảm nhiều nhất đó chính là hình ảnh người mẹ nuôi đã gắn bó với nhà thơ trong những năm tháng dầu sôi lửa bỏng của chiến tranh:
Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạcNăm con đau, mế thức một mùa dàiCon với mế không phải hòn máu cắtNhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi
Hình ảnh lửa hồng soi tóc bạc là hình ảnh đẹp. Ngọn lửa đó là hiện thân của ngọn lửa yêu thương, ngọn lửa chiếu sáng tóc bạc của mẹ hiền miền núi – người đã dành rất nhiều tình cảm với nhà thơ mặc dù không phải là tình máu mủ ruột thịt nhưng người mẹ đó luôn xem cán bộ như là con đẻ. Chính vì vậy “trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi”. Nhà thơ đã sử dụng rất nhiều những từ ngữ chỉ sự gắn bó“một mùa dài”, “trọn đời”, “nhớ mãi”,… Đó chính là những từ ngữ thể hiện quan hệ gắn bó không thể tách rời giữa cái cá nhân và cái cộng đồng. Hình ảnh mẹ nuôi trong thơ Chế Lan Viên là hình ảnh trong vô vàn những người mẹ vô danh đã góp công sức không nhỏ trong việc nuôi giấu cán bộ trong những năm tháng gian lao.
Nếu như trong Tây Tiến, nhà thơ Quang Dũng “nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” và trong thơ Tố Hữu “Nhớ gì như nhớ người yêu/Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương”, còn Chế Lan Viên nhớ Tây Bắc bằng nỗi nhớ mang màu triết lý:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương ? Khi ta ở, chi là nơi đất ở Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!
Câu thơ đầu của khổ: nhà thơ sử dụng dấu phẩy ở giữa tạo thế đăng đối cân xứng hài hòa, cùng đó là điệp từ “nhớ” làm cho ta khi đọc lên tưởng chừng như một bài hát. Đó chính là nỗi nhớ vừa thực vừa ảo, nỗi nhớ da diết khôn nguôi mang một màu sắc sương khói hoài niệm. Đằng sau những câu thơ như câu hát ấy, nhà thơ tự hỏi lòng mình “Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương?”, hỏi cũng là tự đo lòng mình, đo yêu thương tình nghĩa. “Nơi nao” chính là “Nơi nào” đó chính nơi “máu rỏ tâm hồn ta thấm đất”. Đây cũng chính là cách nói thể hiện tình yêu đặc biệt: “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở-Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!”
“Đất” là cụ thể hóa của vật chất nhưng trong hai câu thơ này, “đất” đã được chuyển hóa thành tinh thần, thành tâm hồn. Khi ta ở rồi đến khi ta đi chắc chắn phải trải qua nhiều năm tháng. Ở và đi để chỉ hoàn cảnh sống thay đổi theo thời gian, không gian của quá khứ và cả hiện tại. Tuy nhiên có một điều rất thật, điều mà không thể nào thay đổi được đó chính là tấm lòng con người. Kẻ vô tâm thì đi là quên hết, còn nơi ở xưa kia là sự dửng dưng trong tâm hồn. Người có tâm hồn cao đẹp thì dù có xa cách mấy vẫn mang theo trong tâm hồn mình những kỷ niệm vui buồn, những nhớ thương mà nơi mình từng gắn bó. Điều kỳ diệu của tâm hồn ta chính là ở đây.
Nhà thơ đột ngột chuyển sang một rung cảm và suy tưởng khác về tình yêu đất lạ:
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rétTình yêu ta như cánh kiến hoa vàngNhư xuân đến chim rừng lông trở biếcTình yêu làm đất lạ hóa quê hươngNhà thơ lại tiếp tục sử dụng một loạt những so sánh để diễn tả tình yêu và rung cảm trong lòng mình, đặc biệt mượn quy luật về tự nhiên để diễn tả tình yêu. Mùa đông gắn liền với rét mướt, nhắc tới mùa đông con người không thể quên cái rét, nhắc tới tình yêu không thể thiếu nỗi nhớ anh và em. Chữ “bỗng” trong câu “Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét” thể hiện tình cảm chân thật, nóng bỏng, đột ngột tràn ngập trong lòng thi nhân.
Mặt khác, câu thơ còn có ý nghĩa là vào mùa đông đôi lứa cần hơi ấm của nhau những đôi lứa khát khao gần gũi để tìm hơi ấm xua đi lạnh lẽo của thiên nhiên. “Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng”được nảy nở, kết tinh trong mùa xuân. Đó là thời khắc trăm hoa đua nở, là mùa của sự sống, là mùa của tình yêu làm cho chim rừng lông trở biếc đầy sức sống. Câu thơ kết lại thêm một lần ta lại thấy sự chuyển hóa của các vật chất thành sự sống của tâm hồn qua câu thơ: “Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”. Đây là sự chuyển hóa đầy mĩ cảm thể hiện cách sống ân nghĩa bởi chỉ có ân nghĩa thì đất lạ mới có thể hóa tâm hồn được. Chỉ có những con người nhân hậu biết sống theo đạo lý, biết ăn ở trong tình nghĩa thủy chung, có cái tâm đẹp, cái tài lớn mới viết nên những câu thơ mang màu sắc triết lý đẹp và hay như thế.
Trong tình yêu nhân dân của tác giả, ta còn bắt gặp một hình ảnh rất hiện thực nhưng cũng đầy lãng mạn đó là hình ảnh người em gái Tây Bắc:
Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịchVắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng,Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịchBữa xôi đầu còn toả nhớ mùi hương.
Hình ảnh vắt xôi nuôi quân thẻ hiện hình ảnh đẹp về tình quân dân của những người em gái dành cho bộ đội cụ Hồ đồng thời đó cũng là hình ảnh gợi lên cho câu thơ sự ấm áp, gần gũi, thân thiết.
Bốn khổ thơ cuối: Khúc hát lên đường sôi nổi, tin tưởng và say mê.
Mở đầu đoạn thơ là câu hỏi “Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi?” thể hiện sự giục giã lên đường trong tâm hồn nhà thơ. Câu hỏi đó cũng chính là vẻ đẹp của cái tôi cá nhân, cái tôi của nhà văn bước ra khỏi cuộc đời chật chội tù hẹp của đời mình để đến với cuộc sống mới, cuộc sống của nhân dân. Những từ ngữ như “tình em đang mong,tình mẹ đang chờ”, “mắt ta thèm” đã làm cho đoạn thơ một nhịp điệu dồn dập, âm điệu rộn rang đầy phấn chấn, say mê. Đặc biệt là cách nói : “Rẽ người mà đi, vịn tay mà đến”. “Mùa nhân dân” cho thấy niềm vui và khát vọng mạnh liệt của tác giả khi tìm về với cội nguồn bởi cội nguồn chính là sự sống, là nguồn thơ, nguồn cảm hứng mãnh liệt: “Tây Bắc ơi người là mẹ của hồn thơ”.Và không chỉ khát vọng đi tìm nguồn thơ, hồn thơ mà tác giả muốn lấy lại “vàng ta”, lấy lại những giá trị tinh thần, đem tình yêu của mình, khát vọng của mình vun đắp, xây đắp cho Tây Bắc trong đống tro tàn sau chiến tranh.
Đến giây phút này thì con tàu mới thực sự trở thành khát vọng sống, khát vọng lên đường đến Tây Bắc, hết lòng vì Tổ quốc “Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát”. Bây giờ con tàu không “đói vành trăng” nữa mà trở thành “con tàu mộng tưởng” của ước mơ, khát vọng. Đặc biệt, con tàu “mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng” tượng trưng cho vẻ đẹp Tây Bắc và nhân dân. Đó cũng là vầng trăng của thi ca. “Mặt hồng em” là ẩn dụ nói về hiện thực đời sống thể hiện sự thành công, bội thu của Tây Bắc với những thành công ban đầu trong xây dựng và đổi mới. Đồng thời đó cũng chính là mùa bội thu của thi ca nghệ thuật. Khổ thơ cuối thể hiện một niềm tin về lòng yêu Tổ quốc và nhân dân trong chính bản thân mình. Đây cũng chính là vẻ đẹp của cái tôi nhân dân mang khát vọng lớn, sống hòa mình với cộng đồng.
Tổng kết
- Nội dung: Bài thơ thể hiện khát vọng, niềm hân hoan trong tâm hồn nhà thơ khi trở về với nhân dân với đất nước cũng là tìm về với ngọn nguồn nuôi dưỡng sự sáng tạo nghệ thuật của hồn thơ.
- Nghệ thuật:
+ Sự sáng tạo hình ảnh: hình ảnh thực, hình ảnh biểu tượng, hình ảnh so sánh chùm,chuỗi.Chế Lan Viên là ”nhà thiết kế hình ảnh đại tài”( Nguyễn Đăng Mạnh).
+ Các biện pháp xây dựng hình ảnh: so sánh rộng rãi, đa dạng, ẩn dụ phổ biến, linh hoạt, trí tưởng tượng phong phú, liên tưởng xa, táo bạo tạo nên những hình ảnh độc đáo, mới lạ.
+ Sự hài hòa giữa lí trí và cảm xúc tạo nên chất trữ tình-triết luận sâu sắc, thấm thía và hấp dẫn.
File đính kèm:
- TIENG HAT CON TAU Che Lan Vien TIENG HAT CON TAU Che LanVien.doc