Phân tich tác phẩm Vợ chồng A phủ của tác giả Tô Hoài

Đoạn trích giảng là phần đầu của truyện, kể về lai lịch cô Mỵ,cuộc sống đau khổ của Mỵ trong nhà Pá Tra và sức trỗi dậy mãnh liệt của lòng yêu đời, ham sống ở cô, trong một ngày xuân.

1. Cô Mỵ và cuộc đời làm dâu gạt nợ trong nhà thống lý Fá Tra.

Mỵ xuất hiện trong ngay câu đầu của truyện, giữa khung cảnh tấp nập, giàu có của nhà Pá Tra “nhiều nương, nhiều bạc,nhiều thuốc phiện nhất làng”,người đọc không thể không chú ý đến vị trí xuất hiện của Mỵ: “ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựă”.Một vị trí có rất nhiều ngụ ý, chẳng phải thế sao,khi cô Mỵ được đặt ngang với những tảng đá và cái tàu ngựa? Cô Mỵ lại thường xuyên xuất hiện ở vị trí ấy, như gắn vào những vật kia, tạo nên một mảng sống riêng, cái mảng sống im lìm, tăm tối, cực nhọc nó phơi bày ra cạnh cái giầu sang , tấp nập của nhà quan thống lý, nhưng chính nó cũng là một phần của hình ảnh trọn vẹn về nhà thống lý Pá Tra. Thêm một nét phác về chân dung nhân vật gợi cho người đọc những băn khoăn chờ đợi sự lý giải của tác giả: “Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi , thái cỏ ngựa , dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi “.

Như thế là, chỉ trong mấy câu mở đầu, tác giả đã làm được rất khéo việc giới thiệu nhân vật và hoàn cảnh.

Như để trả lời cho những băn khoăn ở trên, tác giả kể lại câu chuyện cô Mỵ về làm dâu nhà Pá Tra.

Mỵ vốn là một cô gái con nhà nghèo, trẻ, đẹp và nhất là Mỵ rất giàu lòng yêu đời, ham sống , lại thêm tài thổi sáo nữa. Đấy còn là một cô gái chăm làm( “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô,con phải làm ngô trả nợ cho bố”.Lời Mỵ nói với bố) Mỵ cũng thật là một đứa con hiếu thảo (khi bị ép về nhà Pá Tra, Mỵ muốn quyên sinh, nhưng nghĩ đến bố sẽ khổ hơn, nên không đành lòng chết nữa). Tóm lại, đấy là một cô gái rất xứng đáng được hưởng hạnh phúc và đang sống những ngày tươi đẹp của tuổi trăng tròn, dù trong cảnh nghèo khó. Mùa xuân đến, Mỵ sống những giờ phút hồi hộp sung sướng chờ nghe tiếng sáo quen thuộc của người yêu; và không ít những chàng trai Mèo đã say mê cô gái con nhà nghèo ấy: “ Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng mỵ”.

 

doc7 trang | Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 1881 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tich tác phẩm Vợ chồng A phủ của tác giả Tô Hoài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vợ chồng a phủ tô hoài Đoạn trích giảng là phần đầu của truyện, kể về lai lịch cô Mỵ,cuộc sống đau khổ của Mỵ trong nhà Pá Tra và sức trỗi dậy mãnh liệt của lòng yêu đời, ham sống ở cô, trong một ngày xuân. 1. Cô Mỵ và cuộc đời làm dâu gạt nợ trong nhà thống lý Fá Tra. Mỵ xuất hiện trong ngay câu đầu của truyện, giữa khung cảnh tấp nập, giàu có của nhà Pá Tra “nhiều nương, nhiều bạc,nhiều thuốc phiện nhất làng”,người đọc không thể không chú ý đến vị trí xuất hiện của Mỵ: “ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựă”.Một vị trí có rất nhiều ngụ ý, chẳng phải thế sao,khi cô Mỵ được đặt ngang với những tảng đá và cái tàu ngựa? Cô Mỵ lại thường xuyên xuất hiện ở vị trí ấy, như gắn vào những vật kia, tạo nên một mảng sống riêng, cái mảng sống im lìm, tăm tối, cực nhọc nó phơi bày ra cạnh cái giầu sang , tấp nập của nhà quan thống lý, nhưng chính nó cũng là một phần của hình ảnh trọn vẹn về nhà thống lý Pá Tra. Thêm một nét phác về chân dung nhân vật gợi cho người đọc những băn khoăn chờ đợi sự lý giải của tác giả: “Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi , thái cỏ ngựa , dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi “. Như thế là, chỉ trong mấy câu mở đầu, tác giả đã làm được rất khéo việc giới thiệu nhân vật và hoàn cảnh. Như để trả lời cho những băn khoăn ở trên, tác giả kể lại câu chuyện cô Mỵ về làm dâu nhà Pá Tra. Mỵ vốn là một cô gái con nhà nghèo, trẻ, đẹp và nhất là Mỵ rất giàu lòng yêu đời, ham sống , lại thêm tài thổi sáo nữa. Đấy còn là một cô gái chăm làm( “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô,con phải làm ngô trả nợ cho bố”.Lời Mỵ nói với bố) Mỵ cũng thật là một đứa con hiếu thảo (khi bị ép về nhà Pá Tra, Mỵ muốn quyên sinh, nhưng nghĩ đến bố sẽ khổ hơn, nên không đành lòng chết nữa). Tóm lại, đấy là một cô gái rất xứng đáng được hưởng hạnh phúc và đang sống những ngày tươi đẹp của tuổi trăng tròn, dù trong cảnh nghèo khó. Mùa xuân đến, Mỵ sống những giờ phút hồi hộp sung sướng chờ nghe tiếng sáo quen thuộc của người yêu; và không ít những chàng trai Mèo đã say mê cô gái con nhà nghèo ấy: “ Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng mỵ”. Thế nhưng chính trong một đêm xuân như thế, Mỵ đã bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà Pá Tra.Do đâu? Chỉ vì món nợ chuyền kiếp của bố mẹ Mỵ: Bố mẹ Mỵ ngày trước lấy nhau, không có tiền cưới, phải đến vay của bố thống lý Pá Tra, “mỗi năm đem nộp cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng già rồi mà cũng chưa trả được nợ”. Mỵ mang món nợ ấy như một thứ “tội tổ tông”của người nghèo, từ lúc sinh ra đời! Tô Hoài đãtố cáo một hình thức bóc lột của bọn phong kiến ở miền xuôi cũng như miền núi: hình thức cho vay nặng lãi, nó đã buộc chặt bao nhiêu người lao động nghèo khó vào số phận nô lệ, phụ thuộc bọn thống trị giàu có. Trong thời gian đầu bị bắt về làm vợ A Sử, Mỵ –bằng lòng yêu tự do và ham sống mạnh mẽ -đã phản kháng khá quyết liệt. hang mấy tháng dòng, đêm nào Mỵ cũng khóc, Rồi Mỵ quyết tự tử . nàng Kiều của nguyễn Du khi bị dấn thân vào cuộc đời ô nhục, đã hơn một lần nghĩ đến quyên sinh mà cũng không thoát được kiệp đoạ đày trong mười lăm năm! Cô Mỵ ở đây còn gặp tình cảnh chua sót hơn: Cô có chết thì món nợ vẫn còn , bố già còn khổ hơn nữa! Thế là Mỵ không đành chết. mỵ phải chịu đựng cuộc đời nô lệ. Những năm tháng trong nhà Pá Tra là một chuỗi dài những cực nhọc, vẩt vả nối tiếp nhau, là những sự bóc lột và hành hạ của bọn chủ nô với kẻ nô lệ mà Mỵ phải chịu đựng : “Mỵ cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại nhữnh việc giống nhau tiếp nhau vễ ra trước mắt, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại…Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu vào việc cả đêm cả ngày”. thêm vào sự đày đoạ thể xác ấy, còn là ách áp chế về tinh thần. Mỵ bị ràng buộc trong một ý nghĩ: bố con Pá Tra đã “trình ma” mìnhlà người nhà nó rồi , thì chỉ còn biết ở cho đến lúc chết rũ xác ở đây thôi! Mê tín, thần quyền đã hỗ trợ đắc lực cho giai cấp thống trị, nó là một thứ “thuốc phiện của tinh thần” đối với người dân bị áp bức, như Mác đã nói. Trong đoạn kể về cuộc đời làm dâu của mỵ , Tô Hoài đã không chỉ dừng ở chỗ tố cáo những sự áp bức bóc lột của bọn phong kiến miền núi, mà còn nói lên một sự thật đau sót này; con người bị áp bức cứ nhẫn nhục chịu đựng kéo dài đến một lúc nào đó thì dường như bị tê liệt cả tinh thần phản kháng. Cô Mỵ chính là nạn nhân như thế: “ở lâu trong cái khổ,Mỵ quen khổ rồi. Bây giờ thì Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, con ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Và chân dung Mỵ cũng được khắc đậm một nét này: “Mỵ cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa”, “mỗi ngày Mỵ càng không nói,lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Mỵ sống như một cái bóng,sống mà như đã chết.Suốt trong phần đầu của truyện,Tô Hoài gần như không để nhân vật Mỵ có một lời nói trực tiếp nào(trừ một câu nói với bới bố ,trong đoạn hồi tưởng quá khứ).Chi tiết về căn buồng Mỵ nằm,âm u,chạng vạng với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay đã là một biêu tượng đậm nét cho cuộc đời nhân vật.Cái cửa sổ “lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng,không biết là sương hay là nắng.Mỵ ngĩ rằng minh đành ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra cho đến chết thì thôi”…Thậm chí Mỵ cũng không buồn nghĩ đến cái cái chết nữa: “lần lần,mấy năm qua,mấy năm sau,bố Mỵ chết.Nhưng Mỵ cũng không còn nghĩ đến Mỵcó thể ăn lá ngón tự tử nữa”.Khi một nạn nhân đau khổ còn nghĩ đến cái chết để chấm dứt hoàn cảnh sống bi kịch của mình,thì phải chăng là trong họ còn một sức phản kháng,còn tha thiết một cuộc sống có ý nghĩa hơn.Nhưng Mỵ lúc này dường như đã phó mặc cuộc sống của mình cho định mệnh ,không nghĩ gì về thân phận của minh nữa ,thậm chí cũng không có ý thức về thời gian sống nữa.Cô không nhớ rằng mình về làm dâu nhà Pá Tra đã bao nhiêu năm.và ngồi trong căn buồng âm u nhìn ra qua cửa sổ,Mỵ không biết cái màu nhờ nhờ trăng trắng ngoài kia là sương hay là nắng.Với Mỵ ,sự chuyển biến của thời khắc sớm tối hay năm tháng qua đicũng không có ý nhgiã gì,không gợi cho cô cảm xúc gì ,cuộc sống chỉ còn là một màn sương mờ đụckhông dĩ vãng,không hiện tại và tương lai!. Tất cả tình trạng đó là hậu quả của sự đày đoạ dai dẳng,nặng nề của ách thống trị phong kiến trung cổ đối với những người lao động bị đẩy vào thân phận nô lệ.Ngòi bút của Tô Hoài có sức tố cáo mạnh mẽ.Mặt khác chính sự đè nén càng phũ phàng tàn bạo,thì sự trỗi dậy ở phần sau của nhân vật càng có giá trị. trong phần đầu của tác phẩm,cuộc sồng của Mỵ như bị giam hãm trong cái không gian chật hẹp và tù đọng của nhà Pá Tra,với một nhịp điệu buồn tẻ, đơn điệu của những công việc lao dịch lặp đi lặp lại: “…lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau,tiếp nhau vẽ ra trước mặt,mỗi năm mỗi mùa,mỗi tháng lại làm đi làm lại”; cuộc sống ấy diễn ra trong một thời gian cũng như ngưng đọng vơ3í một ánh sáng mờ mờ đùng đục,cái sắc màu của những không gian dài đằng đẵng,buồn tẻ đến tê tái mà ta thường gặp trong văn học xưa. 2. Sự “trỗi dậy” mãnhliệt của lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc. Phải trăng trong tâm hồn Mỵ đã hoàn toàn nguội lạnh? cô Mỵ một thời trẻ đẹp ,yêu đời nay đãhoàn toàn yên phận trong cuộc sống nô lệ, sống mà như chết ấy ?Không ngòi bút của nhà văn không chỉ hướng vào cái ảm đạm, mặt đen tối của cuộc đời mà còn thiết tha hướng tới phía sự sống và ánh sán, để khơi gợi nó lên. Tô Hoài đã tìm sâu vào tận cùng của ý thức và trong đáy sâu tiềm thức nhân vật, cho thấy vẫn còn le lói chút ánh sáng và hơi ấm của niềm ham sống, của khát khoa hạnh phúc. Như dưới lớp tro dày nguội lạnh kia vẫn ủ chút than hồng, chỉ nhờ một ngọn gió thổi đến là lại bùng lên . Trong chuyện Chí Phèo,ngòi bút nhân đạo của nhà văn hiện thực suất sắc Nam Cao còn khơi bùng lên những khát vọng hạnh phúc và lương thiện ở Chí Phèo, một kẻ tưởng như đã không còn đời sống tâm linh con người với một hình thái không phải là nhận dạng nữa! Tô Hoài cũng góp thêm vào truyền thống nhân đạo của văn học ta một tiếng nói có sức mạnh. Trong đoạn văn này, tác giả đã dõi theo từng bước diễn biến, phát triển của đời sống tâm hồn nhân vật, được đặt trong một hoàn cảnh khá “ điển hình” là mùa xuân về trên vùng núi cao. Dầu còn trong nghèo khó, mùa xuân về cũng khơi gợi ở người dân miền núi một niềm vui sống. Người Mèo ở Hồng Ngài ăn Tết khi ngô lúa đã gặt xong, mùa xuân có thêm niềm vui thu hoạch mùa màng. Cái Tết năm ấy đến đến giữa lúc gió rét và dữ dội, nhưng vẫ không ngăn được những sắc màu của mùa xuân. “Những chiếc váy hoa đã đã đem phơi trên mỏm đá, xoè như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi ra màu đỏ hau, đỏ thậm, rồi sang màu tím man mát”. Và còn những âm thanh rộn rã báo hiệu mùa xuân: “ đám trẻ đợi Tết,chơi quay, cười ầm lên trên sân chơi trước nhà”. Sự sống của tạo vật và con người như được khơi động, bừng tỉnh. (Ai đã đi qua Tây Bắc cũng khó mà quên được những miền núi cao với những đồi cỏ tranh vàng nhạt, những ngàn lau xam xám điểm vào cái trập trùng của núi đá xanh mờ đi hàng buổi đường vẫn khao khát một bóng người một bóng núi…Cái Tây Bắc vắng lặng ấy khi mùa xuân đến bỗng trào lên sức sống. đấy là rừng Ban trắng ngút ngàn như lẫn vào trong mây núi, là những đốm lưa đốt lên nương, và nhất là những sắc màu sặc sỡ vui mắt của váy áo, dù, ô của từng tốp nam nữ thang niên Mỡo đi chơi xuân, dập dìu trong tiếng sáo tiéng khèn…). Hoàn cảng ấy không thể không tác động vào tâm hồn Mỵ. Nhất là tiếng sáo, tiếng sáo rủ bạn đi chơi ngoài đầu núi. “Mỵ nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi. Mỵ ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”. trong đoạn tả diễn biến tâm trạng của mỵ, tiếng sáo đã có một vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi vì “Ngày trước Mỵ thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mỵ uớng rượu bên bệp và thổi sáo. Mỵ uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biế bao nhiêu người mê, ngày dêm đã thổi sáo đi theo Mỵhết núi này sang núi khác”. Như thế, với Mỵ. tiếng sáo là biểu tượng lôi cuốn nhất của mùa xuân, của khát vọng hạnh phúc. Thời khắc để ngọn lửa sống trong lòng Mỵbùng lên đã đến, đấy là một “Đêm tình mùa xuân”. Tiêng sáo , tiếng khèn và tiếng reo hò của đám trai gái và trẻ con tụ tập ở sân chơi đầu làng vẳng lại. “Tai Mỵ văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”.Cái nồng nàn của một đêm xuân lại được tăng thêm bởi một bữa rượu ngày tết, trong tie4éng chiêng đánh ầm ỹ và đám người nhảy đồng, người hát…”Mỵ cũng uống rượu. Mỵ lén lấy hũ rượu , cư uống ừng ực từng bát. Rồi say…”. Chính trong một tình trạng đã được kích động mạnh bởi men rượu, bởi những âm thanh náo nhiệt của ngày Tết, Mỵ đã vượt ra khỏi tâm trạng thờ ơ, nguội lạnh lâu nay của mình, mà dấu hiệu đầu tiên là Mỵ sống lại với những kỷ niệm đẹp về ngày trước, những ngày hạnh phúc của tuổi trẻ, với những bữa rượu bên bếp lửa ấm cúng,với những tiếng sáo dặt dìu của bao nhiêu trai làng ngày đêm theo Mỵ … Bằng việc nhớ lại quá khứ, Mỵ đã vượt qua tình trạng sống “phí thời gian”, sống mà như chét, lâu nay. Tiến thêm một bước nữa, Mỵ trở lại với những niềm vui sống trong chốc lát. “Mỵ thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước, Mỵ trẻ lắm. Mỵ vẫn còn trẻ. Mỵ muốn đi chơi” . lòng ham sống đã trỗi dậy. Sức sống bấy lâu nay bị đè nén bỗng bồng bột trào lên, không thể dập tắt đước nữa !phản ứng đầu tiên đến trong tâm trí Mỵ là một ý nghĩ “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mỵ sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa…”.ý nghĩ về cái chết lúc này là biểu hiện của sự phản kháng với hoàn cảnh, nó chứng tỏ rằng Mỵ đã ý thức trở lại tình cảm đau sót dai dẳng của mình. trong khi ấy thì tiếng sáo gọi bạn cứ thôi thú, quyến rũ. Nó là biểu tượng của sự sống, tình yêu, tự do, mà bấy lâu nay Mỵ đã quên rồi, nay đang trở lại. Tiếng sáo theo sát từng bước diễn biến tâm trạng nhân vật, nó chính là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa trong lòng Mỵ. tiếng sáo từ chỗlà là một sự việc của thực tại bên ngoài nhân vật ( “tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”), đaz xâm nhập thế giới tâm hồn Mỵ, trơ thành một hiện hữu của thế giới bên trong ( “trong đầu Mỵ đang rập rờn tiếng sáo” ). Sức sống trỗi dậy như những đợt sóng ào ạt trong tâm hồn Mỵ, đợt sau lại mạnh mẽ hơn đợt trước. Đến đây đã xảy ra bước phát triển quyết định:từ những sôi sục trong tâm trí nó bùng ra thành hành động. Mà đầu tiên là hành động có nhièu ý nghĩa :”Mỵ đến góc nhà, lấy ống mỡ, sắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”.có thể xem đấy là hành động thức tỉnh. nó có nghĩa là Mỵ đã thắp lên một ngọn đèn soi rọi vào cuộc sống của mình, để thoát ra khỏi những đêm dài tăm tối triền miên của quá khứ. Và hành động này thúc đẩy hành động khác tiếp theo, như một “phản ứng dây chuyền” không thể ngăn lại được nữa. Dường như không kể gì đến những ràng buộc khe khắt, những xiềng xích tàn bạo của nhà Pá Tra, Mỵ tự mình hànhđộng như một con ngưòi tự do, theo tiếng gọi của lòng mình :quấn lại tóc , rút cái váy hoa…sửa soạn đi chơi Tết. Giữa lúc lònh ham sống trỗi dậy mãnh liệt nhất, thì cũng là lúc nó bị dập xuống phũ phàng nhất. A Sử bước vào, thản nhiên, lầm lỳ trói đứng Mỵ vào cột nhà. “Tóc Mỵ xoã xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột…Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo, rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép cửa lại”. Trong cái kỹ càng, ràng rẽ của từng động tác của A Sử ta thấy toát lên sự tàn ác đến thản nhiên của một kẻ đã không còn chút gợn nào của lương tri nữa . Suốt cái đêm bị trói đứng vào cột ấy, Mỵ đã sống trong sự giằng xé mãnh liệt giữa niềm khao khát hạnh phúc cháy bỏng và thực tại tàn bạo lạnh lùng. Lúc mới bị trói. Mỵ vẫn như sống trong tâm trạng say mê với tiếng sáo, với những đám chơi tết ngoài kia. “Tiếng sáo đưa Mỵ đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Mỵ như quên là mình đang bị trói, quên những đau đớn thể xác, đến nỗi trong giây phút niềm khát khao cuộc sống trở nên mãnh liệt . Mỵ đã vùng bước đi”. Nhưng thực tế phũ phàng là những vòng dây trói đang thít chặt, dẫu ước mong mãnh liệt đên mấyMỵ không vượt qua nó được .Hai biểu tượng của ước mơ và thực tại hiện ra trong hai âm thanh trái ngược – tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết và tiếng chân ngựa đạp vào vách khô khan! “Mỵ không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách . ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ, Mỵ thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.Thực tại phũ phàng đã lấn át, bóp nghẹt những ước mơ, khát vọng tươi sáng. kết cục ấy nói lên rằng chỉ có những phản kháng tự phát, nhân vật không thể giải thoát khỏi tình cảnh bị giam hãm đày đoạ, không thể giải phóng thực sự cho những ước vọng hạnh phúc. Trong đoạn văn chúng ta vừa phân tích ở trên, Tô Hoài đã đặt nhân vật của mình vào một hoàn cảnh thật căng thẳng, làm bộc lộ những động lực tiềm ẩn sâu xa trong đời sống tâm hồn nhân vật, với một diễn biến, phát triển được dẫn dắt hợp quy luật.đấy là một đoạn văn miêu tả tâm lý khá sâu sắc và tinh tế, có thể nói rằng tác giả đã đạt đễn “biện chứng pháp của tâm hồn nhân vật”. Ngòi bút của nhà văn cũng thấm nhuần tinh thần nhân đạo, thể hiện trong niềm tin, sự trân trọng đối với khát vọng sống trong sạch ở những con người bị đoạ đày đau khổ . Đấy cũng là sự nối tiếp tự nhiên tinh thần nhân đạo trong truyền thống văn hoá dân tộc , và phát triển lên một mức cao hơn. Nàng Kiều bị xô đẩy vào chốn thanh lâu ô nhục, đã bao lần cố sức vùng vẫy thoát ra, và tấm lòng nhớ cha mẹ, nhớ người yêu vẫn thiết tha đau đớn, suốt ngần ấy năm trời lưu lạc. Nhân vật Tám Bính của Nguyên Hồng, sống xcuộc đời một “Bỉ Vỏ” dưới đáy xã hội, bị khinh khi, săn đuổi nhưng vẫn không nguôi khát khao một cuộc sống lương thiện, trong sạch. Chỉ có điều là những tác giả văn học quá khứ đã không thể tìm ra con đường thoát cho những nạn nhân đau khổ ấy trong tác phẩm của họ, còn cô Mỵ- Cũng như nhiều nhân vật khác trong các tác phẩm văn học cách mạng hiện đại- thì đã tìm thấy con đường giải phóng thật sự, tìm thấy sự thực hiện những ước vọng chân chính của mình trong quá trình đến với cách mạng, dưới ánh sáng của Đảng. Quá trình giác ngộ và trưởng thành ấy sẽ diễn ra ở phần sau của tác phẩm nhưng động lực thúc đẩy thì đã được phát động lên tư trong hành động đấu trang tự phát ở đây rồi. kết luận Một số nét thàng công về nghệ thuật tác phẩm . Thành công của truyện trước hết là ở nghệ thuật xây dựng nhân vật. Hai nhân vật Mỵ và A Phủ đã phần nào là những tính cách điển hình. Nhân vật vừa mang tính tiêu biểu cho dân tộc , cho giai cấp của họ, đồng thời cũng có nét cá tính rõ rệt. A Phủ thì gan góc mà bộc trực, cả tin, chất phác. ở Mỵ, sức sống mãnh liệt nhưng thể hiện trầm lắng hơn nên cô Mỵ có một đời sống nội tâm sôi nổi với vẻ ngoài lặng lẽ. Nét đặc sắc trong xây dựng nhân vật của Tô Hoài trong truyện ngắn này là miêu tả diễn biến bên trong tâm hồn nhân vật, nhất là Mỵ. Những đoạn tả sự thức tỉnh của niềm khát vọng cuộc sống ở Mỵtrong một đêm xuân, (đã phân tích ở trên), Cảnh Mỵ suy nghĩ đi tới hành động cắt dây trói cho A Phủ là những thàng công nổi rõ của tác giả trong cách miêu tả “từ bên trong” nhân vật. Tác giả diễn tả được những biến chuyển tinh tế trong nội tâm nhân vật , nhưng vẫn gĩ được tính chất tự nhiên, phác thực của con người miền núi trong các nhân vật của mình, tránh được cái nhìn giản đơn cũng như cách tô vẽ giả tạo khi viết về những con ngườimiền núi. Tính cách của hai nhân vật chính cũng đã được miêu tả trong sự biến đổi , phát triển theo con đường đi tới cách mạng của họ . (Chú ý sự thay đổi từ ngoại hình đến nội tâm và hành động của Mỵ và A Phủ khi ở Phiềng Sa , so với thời kỳ ở Hồng Ngài ; cũng cần chú ý sự biến đỏi của A Phủ trong cái nhìn đồn tây ở bản Pe lúc chưa giác ngộ đến khi đã thành tiểu đội trưởng du kích). Nghệ thuật truyện của Tô Hoài còn thành công ở chỗ tác giả đã nắm bắt, lựa chọn được nhiều chi tiết chân thực, sinh động mà có sức khái quát cao. Nững chi tiết ấy lại thường được đặt trong một hệ thống tương quan đối lập nên càng nổi rõ. (Cô Mỵ cúi mặt, lặng lẽ như một cái bóng trước cảnh giàu có tấp nập của nhà Pá Tra; căn phòng âm u của Mỵ và khung cảnh mùa xuân tràn đầy sức sống và ánh sáng ở bên ngoài; tiếng sáo và tiếng chân ngựa đạp vào vách v.v…) Cũng như trong tập Truyện Tây Bắc, truyện Vợ chồng A Phủ còn lôi cuốn người đọc bởi chất thơ đậm đà, trong sáng, “Phong cảnh và con người đẹp đẽ của Tây Bắc được ngòi bút của Tô Hoài vẽ nên vơí một sức rung động thơ”. Chất thơ ấy toát lên từ nội dung tác phẩm: vấn đề khát vọng tự do, hạnh phúc của nhân dân lao động miền núi và con đường giải phóng của họ. Nó cũng toát lên từ tâm hồn trong sáng, hồn hậu, trung thực của các nhân vật tích cực. Chất thơ ấy cũng thắm đượm trong những bức tranh thiên nhiên giàu màu sắc tươi sáng và đường nét uyển chuyển và hùng vĩ của Tây Bắc, làm nền cho những cảnh sinh hoạt giàu chất trữ tình của con người. (Những đêmmùa xuân, cảnh đi chơi Tết, tiếng sáo gọi bạn ngoài đầu núi, những đám chơi pao, thổi khèn, uống rượu bên bếp lửa của trai gái Mèo…). Tô Hoài cũng nói về những ý thơ trong truyện của mình: “ở mỗi nhân vật, và trùm lên tất cả miền Tây, tôi đã đưa vào một không khí vời vợi, làm cho đất nước và con người bay bổng hơn nữa, rồi bỏ được cái ám ảnh tủn mủn, lặt vặt thường làm co quắp nhân vật và nhỏ bé vấn đề đi”. ý nghĩa giáo dục tư tưởng của tác phẩm Đoạn trích giảng trên đây thuộc phần đầu của truyện Vợ chồng A Phủ. Cho đến lúc Mỵ cắt dây trói cho A Phủ và cùng trốn đi, các nhân vật vẫn còn trong phạm vi đấu tranh tự phát chống lại thế lực phong kiến thống trị. Nhưng chặng đường ấy có một ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình phát triển của các nhân vật. Qua đây, tác giả đã làm bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp, những sức sức mạnh tiềm tàng của những người lao động nghèo khổ ở miền núi. Đó chính là tiền đề cho bước đường giác ngộ cách mạng của họ ở phần sau. Với lòng căm thù sâu sắc bọn chúa đất thống trị, vơí sức sống vươn lên mạnh mẽ và khát vọng tự do, hạnh phúc chân chính, các nhân vật Mỵ và A Phủ đã nhanh chóng đón nhận ánh sáng cấch mạng do cán bộ A Châu đem lại. Không thấy những tiềm lực ấy, thì không hiểu và lý giải được con đường đến với cách mạng của quần chúng. Truyện Vợ chồng A Phủ đã miêu tả một cách cô đọng nhưng sinh động quá trình trưởng thành, con đường đi đến cách mạng của nhân dân lao động miền núi, của các đân tộc thiểu số anh em. Nó đã góp phần tăng cường tính đoàn kết giữa các dân tộc miền xuôi, miền ngược. Nhìn khái quát, thì con đường mà vợ chồng A Phủ cùng với các dân tộc miền Tây Bắc đã đi cũng chính là một hình ảnh thu nhỏ của con đường tất yếu cách mạng mà dân tộc ta đã trải qua trong mấy mươi năm qua. Con đường của dân tộc ta càng làm sáng tỏ chân lí lớn của thời đại ngày nay: “ Chỉ có chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. nguyễn văn long

File đính kèm:

  • docPhan tich Vo chong A Phu 1.doc