Sách giáo viên 12

Một số vấn đề chung về chương trình, nội dung và phương pháp dạy học đã được nêu trong các sách giáo viên (SGV) Ngữ văn lớp 10 và 11. SGV Ngữ văn 12 chỉ đi sâu thêm một số vấn đề chính thuộc nội dung chương trình Ngữ văn trong sách giáo khoa (SGK)025 lớp 12.

I -VỀ PHẦN VĂN HỌC

l. Một số điểm thay đổi trong chương trình ngữ văn lớp 12

a) So với chương trình trong SGK chỉnh lí hợp nhất năm 2000, chương trình Ngữ văn lớp 12 có những thay đổi nhất định trong việc lựa chọn tác phẩm nhằm mở rộng phần sáng tác sau năm 1975.

Chương trình không còn một số tác phẩm như: Tâm tư trong tù, Bên kia sông Đuống, Các vị La Hán chùa Tây Phương, Mùa lạc, Mảnh trăng cuối rừng, Thư gửi mẹ,. nhưng có thêm: Đò Lèn của Nguyễn Duy, Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo, Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Bắt sấu rừng U Minh Hạ của Sơn Nam, Một người Hà Nội của Nguyễn Khải, Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu; Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ,.

b) Chương trình cũng chú ý thêm về loại thể. Văn nghị luận có thêm Nguyễn Đình Chiểu ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc của Phạm Văn Đồng, chân dung văn học Đô-xtôi-ép-xki của Xvai-gơ, hai văn bản nhật dụng: Nhìn về vốn văn hoá dân tộc của Tràn Đình Hượu và Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS, 1-12-2003 của Cô-phi- An-nan. Kịch sau năm 1975 với Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ. Hồi kí Những năm tháng không thể nào quên của Võ Nguyên Giáp, bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường,. Đây là những tác phẩm mới có mặt trong nhà trường.

c) Chương trình không chỉ chọn các sáng tác văn chương nghệ thuật mà còn tăng cường nghị luận xã hội, nghị luận văn học, văn bản nhật dụng. Nghị luận văn học và nghị luận xã hội có 4 bài, văn nhật dụng có 2 bài.

 

doc275 trang | Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 2425 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Sách giáo viên 12, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SÁCH GIÁO VIÊN 12 Tập 1 (tr1à152) Phần một NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG Một số vấn đề chung về chương trình, nội dung và phương pháp dạy học đã được nêu trong các sách giáo viên (SGV) Ngữ văn lớp 10 và 11. SGV Ngữ văn 12 chỉ đi sâu thêm một số vấn đề chính thuộc nội dung chương trình Ngữ văn trong sách giáo khoa (SGK)025 lớp 12. I -VỀ PHẦN VĂN HỌC l. Một số điểm thay đổi trong chương trình ngữ văn lớp 12 a) So với chương trình trong SGK chỉnh lí hợp nhất năm 2000, chương trình Ngữ văn lớp 12 có những thay đổi nhất định trong việc lựa chọn tác phẩm nhằm mở rộng phần sáng tác sau năm 1975. Chương trình không còn một số tác phẩm như: Tâm tư trong tù, Bên kia sông Đuống, Các vị La Hán chùa Tây Phương, Mùa lạc, Mảnh trăng cuối rừng, Thư gửi mẹ,... nhưng có thêm: Đò Lèn của Nguyễn Duy, Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo, Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Bắt sấu rừng U Minh Hạ của Sơn Nam, Một người Hà Nội của Nguyễn Khải, Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu; Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ,... b) Chương trình cũng chú ý thêm về loại thể. Văn nghị luận có thêm Nguyễn Đình Chiểu ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc của Phạm Văn Đồng, chân dung văn học Đô-xtôi-ép-xki của Xvai-gơ, hai văn bản nhật dụng: Nhìn về vốn văn hoá dân tộc của Tràn Đình Hượu và Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS, 1-12-2003 của Cô-phi- An-nan. Kịch sau năm 1975 với Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ. Hồi kí Những năm tháng không thể nào quên của Võ Nguyên Giáp, bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường,... Đây là những tác phẩm mới có mặt trong nhà trường. c) Chương trình không chỉ chọn các sáng tác văn chương nghệ thuật mà còn tăng cường nghị luận xã hội, nghị luận văn học, văn bản nhật dụng. Nghị luận văn học và nghị luận xã hội có 4 bài, văn nhật dụng có 2 bài. 2. Hướng tiếp cận mới a) Với chương trình này, ngoài những tác phẩm mang tính sử thi, Giáo viên (GV) còn phải tiếp cận và giải mã những tác phẩm đi vào đời sống tinh thần của con người và nhân vật cũng như tư tưởng đổi mới của tác giả. Hồn Trương Ba, da hàng thịt là cả một cuộc đấu tranh phức tạp bên trong mỗi con người, làm sao giữ được chất thiện, chất người của bản thân trước mọi cám dỗ dữ dội và tinh ma của cái ác, cái xấu. Cách đến với Chiếc thuyền ngoài xa không giống với cách tiếp cận Mảnh trăng cuối rừng. Một bên chủ yếu là khám phá thế giới con người trong quan hệ với bên ngoài, với cộng đồng, với ngoại cảnh; một bên là quá trình khám phá thế giới bên trong của từng nhân vật, từng con người trước cuộc đời phức tạp và nghiệt ngã. Với tư duy đơn giản và cách tiếp cận văn chương mòn cũ, người đọc sẽ không hiểu hết được những vấn đề tác giả đang đặt ra trong tác phẩn với bao trăn trở thường nhật đầy trách nhiệm của mình. Một phóng viên nhiếp ảnh nếu chỉ đến với vẻ đẹp bề ngoài của cảnh thiên nhiên, của con người thì không tài nào ghi được những bức tranh thật của cuộc đời, của con người. GV khi giảng dạy những tác phẩm này rõ ràng phải biết tự đòi hỏi một sự đổi mới trong tư duy xã hội, tư duy văn học và cả phương pháp tiếp cận văn chương đương đại. b) Việc bổ sung những văn bản nghị luận, nhất là những văn bản nhật dụng cũng đặt ra những yêu cầu mới đối với GV. Dĩ nhiên, ai cũng thừa nhận là chương trình văn học nhất thiết phải chú trọng đến những sáng tác văn chương, nhất là những tác phẩm xuất sắc. Đó là những cơ sở để giáo dục và phát triển tình cảm thẩm mĩ và nhân văn cho học sinh (HS). Chương trình văn học nhà trường nếu coi nhẹ chất văn chương sẽ đưa đến những hậu quả không hay, không những cho việc giảng dạy văn học mà cho cả việc giáo dục con người của xã hội, nhất là trong thời đại mà khoa học công nghệ đang thâm nhập sâu vào cuộc sống và bản thân mỗi người. Gần đây, nhà thơ Ép-tu-xen-cô có nhắc lại một câu nối bất hủ của Viện sĩ Môi-sép: “Muốn chạy đua về khoa học vũ trụ thì phai tăng cường học thơ trong nhà trường”. Nhưng mặt khác, cũng cần thấy rằng chương trình Ngữ văn trong nhà trường không thể chỉ chú trọng đến mĩ cảm, đến tư duy hình tượng mà coi nhẹ tư duy lôgíc, tư duy khoa học và coi nhẹ những vấn đề của cuộc sống mà hằng ngày và sau này các em sẽ phải đối mặt. Đa số HS phổ thông ra trường, đi vào các ngành nghề thuộc lĩnh vực văn học nghệ thuật không nhiều mà phần lớn là vào các ngành khoa học kĩ thuật hoặc lao động chân tay. Văn nghị luận cũng như văn nhật dụng có ý nghĩa quan trọng trong việc chuẩn bị cho HS đi vào cuộc sống. Cho nên, GV cần ý thức rõ vị trí riêng của mảng văn học này trong chương trình để giúp HS có được những kiến thức cùng những kĩ năng cần thiết. Một văn bản nghị luận hay nhật dụng xuất sắc có vẻ đẹp riêng về trí tuệ, về tư duy, về phương pháp luận cũng như cách kết cấu và văn phong độc đáo của nó. Vả chăng, việc học tốt các văn bản nghị luận và văn bản nhật dụng cũng có tác dụng sâu sắc đến việc rèn luyện tư duy, phương pháp, tư tưởng, sự am hiểu cuộc sống,... Những điều này nhiều khi lại giúp ích không ít cho việc học văn, làm văn của HS. Văn nghị luận, văn nhật dụng hay văn chương nghệ thuật có khác nhau ở đế tài phương thức phản ánh, biểu đạt, nhưng xét trong cội nguồn vẫn là sự phản ánh những phương diện khác nhau của cuộc đời và con người. Khi giảng dạy phần này của chương trình, GV không đối lập hay coi nhẹ phần văn bản nhật dụng trong quan hệ với phần văn chương nghệ thuật để có thể tạo được một hiệu quả tích hợp và tổng hợp chung cho cả chương trình. c) về phần văn học nước ngoài ở lớp 12, đáng chú ý là ngoài những tác giả tác phẩm quen thuộc như Sô-lô-khốp vời Số phận con người, Lỗ Tấn Với Thuốc, Hê-minh-uê với ông già và biến cả còn có thêm bài Đô-xtôi-ép-xki Của Xvai-Gơ, và bài thơ Tự do của Êluy-a. Như vậy, diện tiếp xúc về văn học nước ngoài có mở rộng hơn về tác giả, về thể loại. Việc thay đổi này cũng không gây nhiều khó khăn cho GV. Những kiến thức cần thiết về kiểu bài chân dung văn học của Xvai-gơ được cung cấp một phần trong SGV. Ngoài ra, những thông tin về các nhà văn nước ngoài cũng không phải hoàn toàn mới lạ. Các giáo trình văn học nước ngoài cũng có đề cập đến, anh chị em GV, dĩ nhiên, phải tự tìm đọc thêm. 3. Một số vấn đề thuộc quan điểm tiếp cận văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 và sau năm 1975. a) Về phần văn học từ năm 1945 đến năm 1975 Cách mạng tháng Tám đánh dấu một mốc mới cho văn học dân tộc. Cùng với sự hồi sinh của dân tộc là sự khai sinh của nên văn học mới. Đó là nền văn học của nhân dân với những nguyên tắc mới mẻ: dân tộc, khoa học, đại chúng (như Đề cương văn hoá năm 1943 đã nêu), với nhiệm vụ phục vụ sự nghiệp chiến đấu và lao động của nhân dân, với nội dung phản ánh cuộc sống của quần chúng nhân dân. Nhân vật trung tâm của văn học là công, nông, binh. Nhà văn cũng là chiến sĩ trên mặt trận văn hoá, được tập hợp trong tổ chức với phương châm cách mạng hoá tư tưởng và quần chúng hoá sinh hoạt được sự lãnh đạo của Đảng,... Dĩ nhiên, khi nhấn mạnh những đặc điểm cơ bản, những thành tựu nổi bật của nền văn học mới, chúng ta không tách rời nó với những thành tựu đã có trước Cách mạng tháng tám. Chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng là truyền thống tốt đẹp trong thơ văn của dân tộc. Văn học sau Cách mạng tháng Tám có kế thừa những thành tựu của văn học tiến bộ trước đó. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Tố Hữu,... là những người đặt nền móng và một số nhà văn, nhà thơ tiến bộ khác ít nhiều cũng có phần đóng góp đáng kể cho sự ra đời của nền văn học mới. Nền văn học mới ra đời và lớn lên trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, kéo dài 30 năm với sự phát triển không bình thường về nhiều mặt của đời sống xã hội và con người nên không khỏi không có những hạn chế nhất định. GV cũng cần biết và có thể phân tích cho HS thấy điều đó, nhưng không vì thế mà làm mờ nhạt những đóng góp to lớn của văn học cách mạng. Để có được cách nhìn nhận, đánh giá khách quan, đúng đắn về văn học giai đoạn trước năm 1975, cần có một phương pháp luận tiếp cận khoa học để tránh được những cách đánh giá phiến điện, thậm chí cực đoan, có màu sắc phủ nhận. Đã từng có những ý kiến cho rằng văn học sau năm 1945 chỉ là sự tiếp tục công việc hiện đại hoá văn học trước năm 1945. Cũng có ý kiến cho rằng văn học trong hai cuộc kháng chiến chỉ là văn học phục vụ chính trị, tuyên truyền cổ động mà không có giá trị văn học, đó là văn học minh hoạ, văn học quan phương. Cũng có ý kiến đối lập yêu nước, chiến đấu với nhân văn, sử thi với đời thường, cá nhân với cộng đồng. Cần có quan điểm lịch sử để nhìn nhận thực chất giá trị và tác dụng to lớn của văn học kháng chiến trước yêu cầu cao cả mà lịch sử dân tộc lúc bấy giờ đã đặt ra cho văn học; mỗi nhà văn công dân, nhà văn chiến sĩ từng giờ, từng phút không thể đứng ngoài cuộc chiến đấu sinh tử và cuộc ra quân hào hùng chưa từng có trong lịch sử của dân tộc mình. Cũng cần có cách nhìn khách quan về thành tựu của văn học kháng chiến trên nhiều phương diện trong tương quan so sánh với văn học trước năm 1945. Có thế mới đánh giá đúng những thành tựu to lớn chưa từng có và chưa thể có trong các giai đoạn văn học trước năm 1945: sự giác ngộ sâu sắc, về nhiệm vụ của người cầm bút; sự phát triển toàn diện về nhiều mặt của đội ngũ nhà văn, về công chúng văn học, về nội dung hiện thực của văn học, về tư tưởng yêu nước, tinh thần cách mạng và cả chủ nghĩa nhân văn mới trong sáng tác văn học; sự phát triển về thể loại, đặc biệt là truyện ngắn và thơ. Thơ trữ tình không như cũ mà đã có những phát triển mới về cái tôi trữ tình của thơ hiện đại, không chỉ là cái tôi khép kín, riêng lẻ mà còn là cái tôi hoá thân vào cộng đồng, thống nhất cái riêng với cái chung, hoà cái tôi nhà thơ với cái tôi quần chúng công nông,... Trên đây là những kiến thức cơ bản, GV cần giúp cho HS nhận thức được sâu sắc bản chất, đặc điểm và thành tựu của nền văn học sau Cách mạng tháng Tám. Đó là cách nhìn nhận đúng đắn, khoa học, khách quan về nền văn học mới, đành rằng văn học trong hai cuộc kháng chiến do những điều kiện lịch sử đặc biệt của hai cuộc chiến tranh kéo dài không khỏi không có những mặt hạn chế nhất định. b) Về phần văn học sau năm 1975, nhất là sau năm 1986 Năm 1975 là mốc son lịch sử đánh dấu thời kì mới, thời kì độc lập, thống nhất của dân tộc. Chiến tranh đã qua và đất nước bước vào thời kì xây dựng trong hoà bình. Nhiều vấn đề sau chiến tranh được đặt ra trên mọi lĩnh vực của đời sống, kể cả văn học. Đến năm 1986, với Đại Hội VI của Đảng Cộng sản việt Nam, đất nước ta chuyển từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có thể nói đây là một bước ngoặt lớn trong tiến trình phát triển của đất nước sau khi Tổ quốc được thống nhất. Những đổi mới trong đường lối chính trị xã hội đưa đến những đổi mới về tư duy văn hoá và văn học. Đổi mới là một tất yếu lịch sử để đưa đất nước tiến lên, thoát khỏi sự trì trệ, lạc hậu, từng bước hoà nhập với thế giới ngày nay. Đời sống văn học cũng có khởi sắc. Không khí dân chủ được đề cao hơn. Đây là một điểm nồi bật của văn học thời kì Đổi mới. Nhà văn, nhất là lớp nhà văn trẻ đã có những tìm tòi về đề tài, kể cả những đề tài về chiến tranh với tư duy nghệ thuật mới và phương thức biểu đạt mới, kịp thời nói lên những vấn đề bức xúc của đời sống sau chiến tranh. Hiện thực đời sống được khám phá trên nhiều phương diện, nhất là đời sống nội tâm của con người với những trăn trở, khát vọng thầm kín, nhân bản mà lâu nay do hoàn cảnh phải tập trung cao độ mọi nỗ lực, tâm trí cho cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và một phần do tư duy mòn cũ nên ít được chú ý. Tinh thần nhân văn, ý thức về cá nhân đã trở thành cảnh hứng sáng tạo cho các văn nghệ sĩ ở thời kì Đổi mới. Trong cuộc chiến tranh vĩ đại để giải phóng và thống nhất Tổ quốc, tất cả sức lực, tình cảm đều dồn cho dân tộc, cho cộng đồng. Văn chương và nhà văn cũng vậy. Nhà văn tự nguyện làm người chiến sĩ, người công dân trước đã. Nhiều mảng hiện thực, nhiều tình cảm đành phải gác lại, phải lướt qua để tập trung cho chủ đề lớn là đánh giặc cứu nước. Đến nay, chúng ta có điều kiện để khắc phục những hạn chế trước đây. Với tư duy mới, nhiều vấn đề về cách cắt nghĩa, thẩm định tác phẩm hay đánh giá một số hiện tượng văn học đã bớt cứng nhắc và máy móc. Một số bài kí, phóng sự, một số bài thơ, truyện ngắn và tiểu: thuyết bước đầu đã làm cho không khí văn học trong xã hội khởi sắc hơn, dân chủ và mới mẻ hơn. Thế giới bên trong của con người được chú trọng hơn với nhiều diễn biến phức tạp, đa dạng hơn, nhân văn hơn, điều mà trước đây chưa có điều kiện nói kĩ đến. SGK đã nhắc đến một số nhà văn và tác phẩm mở đầu cho thời kì Đổi mới như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng,... Trên đây là những điều cần được GV khẳng định trong quá trình giảng dạy giai đoạn văn học sau năm 1945, nhất là sau năm 1975. Tuy nhiên, cũng phải lưu ý là trong quá trình đổi mới về chính trị và văn học cũng đã xuất hiện một vài khuynh hướng không đúng, những cách nhìn tiêu cực, những thái độ cực đoan, những tìm tòi quá trớn làm cho không khí văn học ít nhiều không lành mạnh. Cũng có thể do nhận thức chính trị không đúng, cũng có thể do phương pháp tư duy cực đoan hoặc do tâm trạng bối rối, mất phương hướng trước một số hiện tượng xã hội và đời sống, nhất là trước sự sụp đổ nhanh chóng của Liên Xô và khối Đông Âu, đã xuất hiện những cách nhìn tiêu cực. Ít nhiều đã có khuynh hướng vô tình hay hữu ý muốn phủ nhận thành tựu của văn học cách mạng kháng chiến. Một ít tác phẩm thiên về mặt tối của cuộc đời dễ làm cho người đọc cũng bi quan theo, dù cố tình hay không, thực chất đó là cách nhìn nhận đánh giá không khách quan về thành tựu to lớn của văn học cách mạng kháng chiến, làm cho văn học xa rời chính trị và cuộc sống,... Đổi mới và tự do tìm tòi sáng tạo là cần thiết và đáng quý, nhưng không nên có những lối viết cầu kì, rối rắm, thậm chí có khi tô đậm những chi tiết bạo lực, dâm tục làm cho văn chương hoá thành dung tục, thô lỗ, phản mĩ cảm. Nhưng nhìn chung cho đến nay, “đổi mới văn học đã bước qua giai đoạn nhận thức ban đầu, giờ đây tư duy, cảm hứng, cách nhìn của nhà văn đã được điều chỉnh một bước, trở lại điềm tĩnh, sâu lắng với sự suy ngẫm sâu hơn về xã hội và con người...” (báo cáo tại Đại hội đại biểu Hội nhà văn Việt Nam lần Thứ VII). II - VỀ PHẦN TIẾNG VIỆT 1. Chương trình Tiếng Việt lớp 12 gồm hai loại bài. Loại thứ nhất chủ yếu dành cho củng cố và nâng cao nhưng kiến thức và kĩ năng đã học ớ các lớp dưới như: thực hành một số phép tu từ ngữ âm, cú pháp và hàm ý,... Loại bài thứ hai hình thành kiến thức và kĩ năng mới như: giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, luật thơ, nhân vật giao tiếp, phong cách ngôn ngữ khoa học, phong cách ngôn ngữ hành chính. 2. Về phương pháp dạy học, vẫn tiếp tục những nguyên tắc và phương chân như ớ các lớp 10 và 11. Đó là nguyên tắc tích hợp, thực hành giao tiếp và phát huy tính tích cực của HS. III. VỀ PHẦN LÀM VĂN Chương trình Làm văn hiện hành quy định giảng dạy các kĩ năng phân tích, bình giảng, bình luận văn học, bình luận xã hội, đồng thới cũng chú ý hoàn thiện cách mở bài, kết bài, chuyển đoạn. Chương trình mới không phân chia tách biệt các kĩ năng phân tích, bình giảng, bình luận mà chú ý đến những thao tác tư duy có tính chất tổng hợp hơn như xây dựng luận điểm, luận cứ và cuối cùng là luyện tập các kiểu bài bình luận xã hội và bình luận văn học. Trên đại thể, chương trình mới không rèn luyện các kiểu bài quen thuộc trong nhà trường như phân tích, bình giàng mà chỉ chú trọng kiểu bài bình luận trên cơ sở hình thành các thao tác nghị luận như xây dựng luận điểm, luận cứ,... IV - VỀ VẤN ĐỀ TIẾP TỤC ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP Ở lớp 10 và 11 chúng ta đã đề cập khá kĩ những vấn đề lí luận đổi mới phương pháp. Vấn đề này cần được tiếp tục triển khai ở lớp cuối cấp THPT. Tuy nhiên, qua các đợt triển khai chương trình và SGK các lớp 10, 11 đã thấy có biểu hiện là nhiều GV vẫn chưa thật thấu triệt, đặc biệt là chưa vận dụng được lí thuyết vào các bàn soạn cụ thể. Kinh nghiệm cho thấy, nên tổ chức nhiều những bài giảng cụ thể để GV thảo luận, rút kinh nghiệm chung ở tổ bộ môn hay nhóm soạn bài. Khi GV trình bày bài soạn thử nghiệm, nhất thiết phải thuyết minh được ý tưởng đổi mới nội dung và phương pháp theo yêu cầu của chương trình, đặc biệt là phải chỉ ra được chỗ khác vời cách dạy học cũ. Trên cơ sở đó, tập thể góp ý về các mặt được hay chưa được. Tiêu chuẩn chính để đánh giá một giờ ngữ văn thành công là giờ học đã thực sự đi vào quỹ đạo đổi mới hay chưa? Nội dung bài học đã thể hiện được yêu cầu đặt ra trong SGK chưa? Nguyên tắc thích hợp đã được thể hiện chưa? Phương pháp trên lớp đã thực sự tạo điều kiện cho HS hoạt động chưa hay vẫn theo lối thuyết giảng? Không khí giờ học đã dân chủ, tự do chưa? Đến lớp 12, chúng ta đi vào việc vận dụng sao cho nhuần nhuyễn những vấn đề lí luận về đổi mới đã bàn ở lớp 10, 11, nhất là ở lớp 11. Trên đây là một và định hướng chính. Nội dung cụ thể sẽ được trình bày trong Tài liệu bồi dưỡng giáo biên Ngữ văn lớp 12, GV có thể tham khảo thêm. Phần hai GỢI Ý DẠY HỌC KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN HẾT THẾ KỈ XX A - MỤC TIÊU BÀI HỌC Giúp HS Nắm được một số nét tổng quát về các chặng đường phát triển, những thành tựu chủ yếu và những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975 và những đổi mới bước đầu của văn học Việt Nam giai đoạn từ năm 1975, nhất là từ năm 1986 đến hết thế kỉ XX. - Rèn luyện năng lực tổng hợp, khái quát, hệ thống hoá các kiến thức đã học về văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX. B - NHỮNG ĐIỀU CẦN LƯU Ý I - NỘI DUNG 1. Đặc điểm bài học - Đây là bài khái quát cả một thời kì văn học, nội đung kiến thức rất phong phú, GV cần phải chọn lọc, tránh sa vào chi tiết. phải có quan điểm lịch sử, quan điểm toàn diện khi đánh giá văn học thời kì này. 2. Trọng tâm bài học Quá trình phát triển và những thành tựu chủ yếu của văn học Việt Nam từ cách mạng tháng Tám năm l945 đến năm 1975. - Những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ năm l945 đến năm 1975. Những đổi mới bước đầu của văn học việt Nam từ năm 1975 đến hết thế kỉ XX. II - PHƯƠNG PHÁP VÀ TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC DẠY HỌC 1. Phương pháp dạy học GV hướng dẫn cho HS đọc kĩ SGK và trả lời các câu hỏi trong phần Hướng dẫn học bài. GV nêu câu hồi. Có thể hướng dẫn cho HS thảo luận một số câu hỏi, sau đó, GV nhấn mạnh những điểm quan trọng. 2. Tiến trình tổ chức dạy học . (l) Khái quát văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975 a) Vài nét về hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hoá GV nhấn mạnh những điểm có ảnh hưởng tới văn học: Đường lối văn nghệ của Đảng Cộng sản, sự lãnh đại của Đảng đã tạo nên trên đất nước ta một nền văn học thống nhất. - Hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mĩ kéo dài suốt 30 năm đã tác động sâu sắc, mạnh mẽ tới đời sống vật chất và tinh thần của toàn dân tộc, trong đó có văn học nghệ thuật, tạo nên văn học giai đoạn này những đặc điểm và tính chất riêng của một nền văn học hình thành và phát triển trong hoàn cảnh chiến tranh lâu dài và vô cứng ác liệt. - Nền kinh tế còn nghèo nàn và chậm phát triển. Về văn hoá, từ năm 1945 đến năm 1975, điều kiện giao lưu bị hạn chế, nước ta chủ yếu tiếp xúc và chịu ảnh hưởng của văn hoá các nước xã hội chủ nghĩa (Liên Xô, Trung Quốc,...). b) Quá trình phát triển và những thành tựu chủ yếu ● Chặng đường từ năm 1945 đến năm 1954 - Một số tác phẩm trong những năm 1945 - 1946 đã phản .ảnh được không khí hồ hởi, vui sướng đặc biệt của nhân dân ta khi đất nước vừa giành được độc lập. - Từ cuối năm 1946, văn học tập trung phản ánh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Văn học gắn bó sâu sắc với đời sống cách mạng và kháng chiến; tập trung khám phá sức mạnh và những phẩm chất tốt đẹp cửa quần chúng nhân dân; thể hiện niềm tự hào dân tộc và niềm tin vào tương lai tất thắng của cuộc kháng chiến. - Truyện ngắn và kí là những thể loại mở đầu cho văn xuôi chặng đường kháng chiến chống thực dân Pháp. Những tác phẩm tiêu biểu là: Một lấn tới Thủ đô và Trận phố ràng của Trần Đăng, Đôi mắt và Nhật kí ở rừng của Nam Cao, Làng của Kim Làn, Thư nhà của Hồ Phương,...Từ năm 1950, đã xuất hiện những tập truyện, kí khá dày dặn: Vùng mỏ của Võ Huy Tâm, Xung kích của Nguyễn Đình Thi, Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc,... . Thơ ca những năm kháng chiến chóng thực dân Pháp đạt được nhiều thành tựu xuất sắc Tiêu biểu là những tác phẩm: Cảnh khuya, Cảnh rừng Việt Bắc, Rằm tháng giêng, Lên núi của Hồ Chí Minh, Bên kia sông Uống của Hoàng Cầm, Tây Tiến của Quang Dũng, Nhớ của Hồng Nguyên, Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Đồng chí của Chính Hữu, đặc biệt là tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu,... Một số vở kịch xuất hiện gây được sự chú ý lúc bấy giờ như Bắc Sơn, Những người ở lại của Nguyễn Huy Tưởng, Chị Hoà của Học Phi. ● Chặng đường từ năm 19S5 đến năm 1964 Văn xuôi mở rộng đề tài, bao quát được khá nhiều vấn đề, nhiều phạm vi của hiện thực đời sống. Một số tác phẩm khai thác đề tài kháng chiến chống Pháp: Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, Cao điểm cuối cùng của Hữu Mai, trước giờ nổ súng của Lê Khâm. Một số tác phẩm khai thác đề tài hiện thực đời sống trước Cách mạng tháng Táng: Tranh tối tranh sáng của Nguyễn Công Hoan, Mười năm của Tô Hoài, Vỡ bờ (hai tập) của Nguyễn Đình Thi, Cứa biển (bốn tập) của Nguyên Hống. Viết về đề tài công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội: Sông Đà cua Nguyễn Tuân, Bốn năm sau của Nguyễn Huy Tưởng, Mùa lạc của Nguyễn Khải, Cái sân gạch của Đào Vũ,… Thơ ca phát triển mạnh mẽ. Các tập thơ xuất sắc ở chặng này gồm có: Gió lộng của Tố Hữu, Ánh sáng và phù sa của Chế Lan Viên, Riêng chung của Xuân Diệu, Đất nở hoa của Huy Cận, Tiếng sóng của Tế Hanh,... - Kịch nói ớ giai đoạn này cũng phát triển. Tiêu biểu là các vơ Một đảng viên của Học Phi, Ngọn lửa của nguyễn vũ, Chị Nhàn và Nổi gió của Đào Hồng Cẩm,... ● Chặng đường từ năm 1965 đến năm l975 Chủ đề bao trùm của văn học là đề cao tinh thần yêu nước, ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Từ tiền tuyến lớn, những tác phẩm truyện, kí viết trong máu lửa của chiến tranh đã phản ánh nhanh nhạy và kịp thời cuộc chiến đấu của quân dân miền Nam anh dũng: Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng, Hòn Đất của Anh Đức Mẫn và tôi của Phan Tứ,... Ở miền Bắc, truyện, kí cũng phát triển mạnh. Tiêu biểu là những tập kí chống Mĩ của Nguyễn Tuân; truyện ngắn của Nguyễn Thành Long, Nguyễn Kiên, Vũ Thi Thường, Đỗ Chu,... Nhiều tác giả nổi lên nhờ những cuốn tiểu thuyết như Hữu Mai với Vùng trời (ba tập), Nguyễn Minh Châu với Cửa sông và Dấu chân người lính, Chu Văn với Bão biển (hai tập),... - Thơ ca những năm chống Mĩ cứu nước đạt được nhiều thành tựu xuất sắc, thực sự là một bước tiến mới của nền thơ Việt Nam hiện đại. Thơ ca chặng đường này thể hiện rất rõ khuynh hướng mở rộng hiện thực; đồng thời bổ sung, tăng cường chất suy tưởng, chính luận. Nhiều tập thơ có tiếng vang, tạo được sự lôi cuốn, hấp dẫn như: Ra trận, Máu và hoa của Tố Hữu, Hoa ngày thường - Chim báo bão và Những bài thơ đánh giặc của Chế Lan Viên, Đầu súng trăng treo của Chính Hữu,. Vầng trăng quầng lửa của Phạm Tiến Duật, Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, Gió Lào cát trắng của Xuân Quỳnh, lương cây -Bếp lửa của Lưu Quang Vũ và Bằng Việt, Cát trắng của Nguyễn Duy, Góc sân và khoảng trời của Trần Đăng Khoa,... lịch sử thơ ca chặng đường này đặc biệt ghi nhận sự xuất hiện và những đóng góp của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ. Đó là Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Lê Anh Xuân, Lưu Quang Vũ, Bằng Việt, Nguyễn Mĩ, Xuân Quỳnh, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy, Hoàng Nhuận Cầm, Trần Đăng Khoa,... - Kịch cũng có những thành tựu đáng ghi nhận. Các vở kịch gây được tiếng vang: Quê hương Việt Nam và Thời tiết ngày mai của Xuân Trình, Đại đội trưởng của tôi của Đào Hồng Cẩm, Đôi mắt của Vũ Dũng Minh,... c) Đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 ● Văn học chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hoá, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước. Đây là một đặc điểm nói lên bản chất của văn học giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975. Dựa vào SGK, GV nhấn mạnh và làm rõ đặc điểm cơ bản này. ● Nền văn học hướng về đại chúng. Đây cũng là một đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975. GV dựa vào SGK, phân tích để làm rõ đặc điểm này. ● Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Đây là một đặc điểm thể hiện khuynh hướng thẩm mĩ của văn học Việt Nam những năm 1945 - 1975. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đã đáp ứng được yêu cầu phản ánh hiện thực đời sống trong quá trình vận động và phát triển cách mạng của văn học giai đoạn này. GV dựa vào SGK, phân tích để làm rõ đặc điểm này. (2) Vài nét khái quát văn học Việt Nam từ năm 1975 đến hết thế kỉ XX a) Vài nét về hoàn cảnh lịch sử, xã hội và văn hoá - Với chiến thắng mùa xuân năm 1975, lịch sử dân tộc ta lại mở ra một thời kì mới - thời kì độc lập, tự do và thống nhất đất nước. Tuy nhiên, từ năm 1975 đến năm 1985, đất nước ta lại gặp những khó khăn, thử thách mới. - Từ năm 1986, vớ

File đính kèm:

  • docgiao an van 1112.doc
Giáo án liên quan