Đổi mới PPDH là một vấn đề đã được đặt ra từ rất lâu và được sự quan tâm đặc biệt của nhiều nhà giáo dục, nhất là của các thầy giáo, cô giáo. Nhưng việc vận dụng đổi mới PPDH trong dạy học không phải là việc dễ dàng thực hiện và đạt được hiệu quả ngay từ đầu. Trước đây, chúng ta dạy học vẫn theo phương pháp truyền thống với quan niệm : học là quá trình tiếp thụ và lĩnh hội qua đó hình thành kiến thứ, kỹ năng, tư tưởng tình cảm. Giáo viên luôn là người truyền thụ toàn bộ những kiến thức, những hiểu biết của mình về một vấn đề nào đó; còn học sinh là người ghi nhớ, tiếp thu mọi lời giảng của giáo viên. Chính vì vậy mà phương pháp đó dẫn đến chỗ học sinh là người thụ động và qúa trình nhận thức mang tính chất áp đặt, một chiều. Học sinh học để đối phó với thi cử và sau khi thi xong những điều đã học thường bị bỏ quên hoặc ít dùng đến. Hiện nay, PP DH truyền thống không còn thích hợp với mục tiêu giáo dục - đào tạo, hơn thế việc đổi mới chương trình SGK càng cần phải đặt trọng tâm vào việc đổi mới PPDH. Bởi chỉ có đổi mới cơ bản PP DH chúng ta mới có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong giáo dục, mới có thể đào tạo được lớp người năng động, sáng tạo, có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều nước trên thế giới đang hướng tới nền kinh tế tri thức.
Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII(1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII(1996),được thể chế hóa trong luật giáo dục (2005). Điều 28.2 trong Luật giáo dục đã ghi : “ Phưng pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của học sinh;phù hợp vói đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rền luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đêm lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh “ . Có thể nói cốt lõi của việc đối mói dạy học là hướng tới hoạt động học tập chủ động; chống lại thói quen học tập thụ động.
Tuy nhiên, đối với mỗi môn học trong nhà trường tùy theo đặc trưng bộ môn mà vận dụng việc đổi mới phương pháp sao cho thích hợp, linh hoạt để đạt mục tiêu cần đạt . Đối với môn Ngữ văn, việc vận dụng PP dạy học mới vẫn còn hạn chế . GV chỉ say mê khám phá văn bản và khổ công tìm tòi cách thức lên lớp sao cho hấp dẫn mà không chú ý học sinh học bái đó như thế nào ?. Mục đích của giờ dạy học văn theo quan điểm, phương pháp mới không phải người giáo viên là người truyền thụ lời giảng của mình một cách chủ quan mà mục đích cao nhất là làm sao để chủ thể học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên chủ động khám phá, tiếp nhận tác phẩm và đồng thời bộc lộ được tình cảm bản thân.
Trong quá trình giảng dạy văn học, có nhiều phương pháp dạy học tích cực được áp dụng và mỗi phương pháp đều được thử thách qua thời gian. Chẳng hạn PP thuyết trình; PP dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề ; PP dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ; dạy học theo dự án . Kết quả của mỗi phương pháp đều có những ưu điểm, nhược điểm riêng. Một trong những phương pháp dạy học tích cực đưa lại kết quả cao trong học tập, phát huy được tính chủ thể của học sinh là phương pháp vấn đáp.
23 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1392 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới phương pháp dạy học trong việc tiếp nhận văn bản văn học, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sở giáo dục và đào tạo Hà Nội
Trường THPT ứng hòa B
Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài:
Đổi mới phương pháp dạy học trong việc
tiếp nhận văn bản văn học
Người viết : Nguyễn Mạnh Hòa
Tổ : Ngữ Văn
Trường THPT ứng hòa B
Hà Nội- thỏng 5 năm 2009
A. Mở đầu
I.Lý do chọn đề tài.
Đổi mới PPDH là một vấn đề đã được đặt ra từ rất lâu và được sự quan tâm đặc biệt của nhiều nhà giáo dục, nhất là của các thầy giáo, cô giáo. Nhưng việc vận dụng đổi mới PPDH trong dạy học không phải là việc dễ dàng thực hiện và đạt được hiệu quả ngay từ đầu. Trước đây, chúng ta dạy học vẫn theo phương pháp truyền thống với quan niệm : học là quá trình tiếp thụ và lĩnh hội qua đó hình thành kiến thứ, kỹ năng, tư tưởng tình cảm. Giáo viên luôn là người truyền thụ toàn bộ những kiến thức, những hiểu biết của mình về một vấn đề nào đó; còn học sinh là người ghi nhớ, tiếp thu mọi lời giảng của giáo viên. Chính vì vậy mà phương pháp đó dẫn đến chỗ học sinh là người thụ động và qúa trình nhận thức mang tính chất áp đặt, một chiều. Học sinh học để đối phó với thi cử và sau khi thi xong những điều đã học thường bị bỏ quên hoặc ít dùng đến. Hiện nay, PP DH truyền thống không còn thích hợp với mục tiêu giáo dục - đào tạo, hơn thế việc đổi mới chương trình SGK càng cần phải đặt trọng tâm vào việc đổi mới PPDH. Bởi chỉ có đổi mới cơ bản PP DH chúng ta mới có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong giáo dục, mới có thể đào tạo được lớp người năng động, sáng tạo, có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều nước trên thế giới đang hướng tới nền kinh tế tri thức.
Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII(1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII(1996),được thể chế hóa trong luật giáo dục (2005). Điều 28.2 trong Luật giáo dục đã ghi : “ Phưng pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của học sinh;phù hợp vói đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rền luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đêm lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh “ . Có thể nói cốt lõi của việc đối mói dạy học là hướng tới hoạt động học tập chủ động; chống lại thói quen học tập thụ động.
Tuy nhiên, đối với mỗi môn học trong nhà trường tùy theo đặc trưng bộ môn mà vận dụng việc đổi mới phương pháp sao cho thích hợp, linh hoạt để đạt mục tiêu cần đạt . Đối với môn Ngữ văn, việc vận dụng PP dạy học mới vẫn còn hạn chế . GV chỉ say mê khám phá văn bản và khổ công tìm tòi cách thức lên lớp sao cho hấp dẫn mà không chú ý học sinh học bái đó như thế nào ?. Mục đích của giờ dạy học văn theo quan điểm, phương pháp mới không phải người giáo viên là người truyền thụ lời giảng của mình một cách chủ quan mà mục đích cao nhất là làm sao để chủ thể học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên chủ động khám phá, tiếp nhận tác phẩm và đồng thời bộc lộ được tình cảm bản thân.
Trong quá trình giảng dạy văn học, có nhiều phương pháp dạy học tích cực được áp dụng và mỗi phương pháp đều được thử thách qua thời gian. Chẳng hạn PP thuyết trình; PP dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề ; PP dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ; dạy học theo dự án ... Kết quả của mỗi phương pháp đều có những ưu điểm, nhược điểm riêng. Một trong những phương pháp dạy học tích cực đưa lại kết quả cao trong học tập, phát huy được tính chủ thể của học sinh là phương pháp vấn đáp.
Trong phạm vi bài tập nghiên cứu khoa học này, tôi đi sâu tìm hiểu phương pháp dạy học vấn đáp trong dạy học môn Ngữ văn ở khối trung học phổ thông. Tôi đã quyết định chọn đề tài này để trước hết là bản thân có điều kiện khái quát nâng cao chuyên môn sau thời gian nghiên cứu áp dụng và qua đây mong được chia xẻ với đồng nghiệp cùng quan tâm để góp phần nâng cao chất lượng chuyên môn và đổi mới PPDH môn ngữ văn trong phạm vi nhà trường THPT
II Mục đích nghiên cứu.
- Dựa trên một số lí luận cơ bản về triết học, về tâm lí học, về việc đổi mới PPDH văn ... để đề ra một số biện pháp trong PP dạy học vấn đáp .
- Nhằm mục đích nâng cao chất lượng của giờ học, phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của học sinh; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, rèn cho HS bản lĩnh tự tin, khả năng diễn đạt một vấn đề, gây hứng thú học tập cho học sinh
IV. Thời gian, đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Thời gian nghiên cứu : Từ tháng 09 năm 2008 đến tháng 05 năm 2009
- Đối tượng nghiên cứu: Phương pháp vấn đáp trong việc dạy học môn Ngữ Văn.
- Phạm vi nghiên cứu: Học sinh khối : 11,12
V. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tôi đề xuất một số nhiệm vụ của đề tài:
+ Xác định cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn của dạy học vấn đáp (đàm thoại) .
+ Đề xuất một số biện pháp dạy học vấn đáp trong môn Ngữ Văn.
+ Thực hiện một số công việc trong phương pháp vấn đáp.
+ Thiết kế một bài dạy vận dụng PP vấn đáp
VI. Phương pháp nghiên cứu.
Làm đề tài này, tôi đã vận dụng nhiều phương pháp. Dưới đây là những phương pháp chủ yếu:
1. Phương pháp thống kê, nêu ví dụ.
2.Phương pháp thực nghiệm qua giảng dạy, dự giờ,bài kiểm tra, bài thi học kỳ, số điểm.
3.Phương pháp so sánh.
4.Phương pháp phân loại, phân tích.
5. Phương pháp tổng hợp.
B. Nội dung
Chương I
Những cơ sở khoa học của phương pháp vấn đáp trong giờ học Ngữ văn.
1. Cơ sở tâm lí học.
Nhận thức thế giới xung quanh, tìm hiểu những sự vật, hiện tượng xảy ra xung quanh mình là một nhu cầu không thể thiếu của con người. Đây là một trong ba mặt cơ bản của đời sống, của tâm lí con người (Nhận thức - Tình cảm - Hành động). Nhờ có nhận thức mà chúng ta không chỉ phản ánh hiện thực xung quanh mình mà cả hiện thực của bản thân nữa, không chỉ phản ánh cái bên ngoài, cái hiện tại mà cả cái bên trong, cái sẽ tới và các quy luật phát triển của hiện thực.
Mục tiêu của nhà trường phổ thông nói chung và mục tiêu của trường THPT nói riêng là hình thành nhân cách của học sinh, phát triển toàn diện và trưởng thành về mặt xã hội của học sinh. Trong nhà trường phổ thông, học sinh được giáo dục bằng nhiều phương pháp, nhiều ngành học... trong đó bộ môn Ngữ văn được coi là một môn học chủ công trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách.
Nhân cách là toàn bộ những đặc điểm, phẩm chất tâm lí cá nhân quy định giá trị xã hội và hành vi của họ. Học sinh là một nhân cách trong chừng mực nào đó mà các phẩm chất xã hội ở đó được phát triển để nó trở thành chủ thể có ý thức đối với mọi hoạt động công ích của mình. Như vậy có nghĩa là một trong những con đường để hình thành và phát triển nhân cách là con đường hoạt động của chính học sinh. Con đường tác động có mục đích tự giác của xã hội bằng giáo dục đến học sinh sẽ trở nên vô hiệu hoá nếu như học sinh không tiếp nhận, không hưởng ứng những tác động đó, không trực tiếp tham gia vào các hoạt động nhằm phát triển tâm lí, hình thành nhân cách. Chính vì vậy qua giờ học vấn vận dụng PP vấn đáp, học sinh có dịp bù đắp những tri thức mà mình chưa được biết, chưa hiểu hoặc hiểu chưa rõ, để tự mình tiếp nhận và hoàn thiện mình về tư tưởng, đạo đức và hành vi trong học tập và trong cuộc sống.
2. Cơ sở nhận thức.
Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người nhưng sự phản ánh này không phải giản đơn, thụ động mà là quá trình biện chứng dựa trên hoạt động tích cực của chủ thể trong quan hệ đối với khách thể. Nhưng không phải con người nào cũng đều là chủ thể của nhận thức. Con người trở thành chủ thể khi nó tham gia vào hoạt động xã hội nhằm biến đổi và nhận thức khách thể. Trong nhà trường học sinh chính là chủ thể của hoạt động nhận thức; còn khách thể chính là những tri thức kinh nghiệm của nền văn minh nhân loại. Theo cơ sở triết học: con người tự làm ra mình bằng chính hoạt động của mình nhưng cái quan trọng là làm ra cái đó như thế nào và bằng cách nào?
Đối với môn Ngữ Văn học sinh đến trường để học tập thực chất là để tiếp nhận, chiếm lĩnh những giá trị của tác phẩm văn chương. Vì mục đích ấy, học sinh tự đọc lấy tác phẩm, tự chiếm lĩnh lấy tác phẩm, nắm bắt được cái hồn của tác phẩm chứ không phải học lấy những điều giáo viên giảng giải, giáo viên cắt nghĩa như xưa nay người ta vẫn thường làm. Giáo viên chỉ là người hướng dẫn, chỉ bảo cho học sinh những hướng tiếp cận tác phẩm sao cho có hiệu quả nhất, học sinh từ đó mà tự chiếm lĩnh tác phẩm. Đồng thời cùng với sự chiếm lĩnh tác phẩm ấy, học sinh dưới những câu hỏi gợi mở, dẫn dắt của giáo viên mà trình bày những suy nghĩ, cách hiểu của mình về vấn đề đặt ra trong tác phẩm.
Chính vì những vấn đề đó mà rất cần có một giờ học vấn đáp để qua giờ học ấy học sinh có thể khẳng định họ thật sự là những chủ thể sáng tạo trong quá trình nhận thức bằng chính hoạt động của mình.
3. Cơ sở văn học.
Nếu hình tượng hội hoạ được xây dựng bằng đường nét, màu sắc; âm nhạc được xây dựng bằng nhịp điệu, giai điệu, âm thanh...thì hình tượng văn học được xây dựng bằng chất liệu ngôn từ. Do lấy ngôn từ làm chất liệu cho nên hình tượng văn học chỉ tác động vào trí tuệ, tâm hồn, tình cảm gợi nên sự liên tưởng và tưởng tượng trong tâm trí người đọc. Nhờ liên tưởng và tưởng tượng trên những nét tương đồng giữa thế giới âm thanh và hình ảnh, giữa thế giới hữu hình và thế giới vô hình trở thành hiện hình qua phương tiện ngôn ngữ.
Thực chất của vấn đề phát huy chủ thể học sinh trong giờ Ngữ văn là khêu gợi, kích thích và nuôi dưỡng, phát triển ở học sinh nhu cầu đồng cảm và khát vọng nhận thức cái mới qua hình tượng, tính cách nhân vật. Và cũng qua đó việc học tác phẩm văn học thực sự trở thành một hoạt động cá thể hoá sâu sắc đi từ nhận thức khách quan hình tượng đến chỗ tự nhận thức; do đó có khát vọng sống và hành động theo nhân vật lí tưởng.
Chính vì vậy trong giờ học văn rất cần có sự trao đổi giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh và giào viên để qua giờ học ấy thu được kết quả cao hơn và cũng qua giờ học ấy học sinh có dịp bộc lộ mình, tự khẳng định mình, đồng thời giáo viên cũng có cơ hội để nắm được trình độ tiếp nhận của học sinh.
Chương II
Thực trạng của đề tài
Qua quá trình dạy học, kinh nghiệm của bản thân, quá trình dự giờ của đồng nghiệp , tôi nhân thấy :
- Một số giáo viên chủ yếu vẫn dạy theo phương pháp dạy học truyền thống : giáo viên sử dụng các PP diễn giảng truyền thụ toàn bộ những kiến thức một chiều ; còn học sinh là người ghi nhớ, tiếp thu mọi lời giảng của giáo viên. Giờ học trở nên khô khan, trầm, thậm chí căng thẳng, học sinh tham gia học bài một cách chiếu lệ. Rõ ràng điều đó dẫn đến chất lượng, hiệu quả giờ học không cao
- Còn một số giáo viên có vận dụng một số PPDH tích cực trong giờ học song chưa hiệu quả còn hình thức . Chẳng hạn vận dụng PP vấn đáp : giáo viên đặt ra những câu hỏi yêu cầu học sinh trả lời song chưa tạo ra được không khí tranh luận sôi nổi giữa học sinh với nhau hay giữa học sinh với giáo viên.
Một trong những nguyên nhân đẫn tới tình trạng trên là một số giáo viên nhận thưcs chưa rõ bản chất của việc dạy học văn. Dạy học văn trong nhà trường không đơn thuần là giảng văn, phân tích văn học mà là dạy đọc văn bản, đó là quá trình đối thoại giữa học sinh, thấy giáo và tác giả đằng sau văn bản . Đó là hình thức giao tiếp , đói thoại vượt thời gian , không gian. Không phải là truyền thụ một chiều.Bên cạnh đó một số giáo viên vẫn còn nhiều ngộ nhận về lí thuyết và lùng túng trong biện pháp thực thi việc cải cách, đổi mới phương pháp dạy học vấn đáp . Chẳng hạn các phương pháp đổi mới là gì ? Khi đổi mới phương pháp dạy học thì vai trò của ngưới thầy có bị hạ thấp không ? Câu hỏi như thế nào là đổi mới?Bao nhiêu câu hỏi là vừa ?.....
Ngoài ra, giáo viên chuẩn bị bài dạy chưa thật kĩ, đặc biệt là chưa xây dựng được hế thống câu hỏi phù hợp với bài dạy, chưa chú ý tới việc chuẩn bị bài học của học sinh, chưa phân loại đối tượng học sinh trong từng lớp ... Giáo viên chưa ý thức rõ về dạng câu hỏi, mức độ yêu cầu của câu hỏi dẫn đến khâu tổ chức dạy học tìm hiểu bài học thiếu tính khao học, tình trạng giáo viên hỏi một đằng học sinh trả lời một nẻo hoặc trả lời không đùng trọng tâm yêu cầu.
Chính vì vậy, vần đề vận dụng đổi mới phương pháp dạy và học văn càng được quan tâm hơn bao giờ hết đặc biệt là phương pháp vấn đáp . Tuy nhiên, việc đổi mời PP DH văn không có nghĩa là gạt bỏ các PP truyền thống mà phải vận dụng một cách hiệu quả các PPDH hiện có theo quan điểm dạy học tích cực kết hợp các PP hiện đại
Chương III:
Nội dung dạy học vấn đáp (đàm thoại).
I Quan niệm về dạy học vấn đáp (đàm thoại).
1.1 Thế nào là phương pháp vấn đáp?.
Phương pháp vấn đáp là phương pháptrong đó giáo viên đặt ra các câu hỏi để HS trả lời , hoặc tranh luận với nhau và với cả giáo viên, qua đó HS lĩnh hội được nội dung bài học. Phương pháp vấn đáp, đàm thoại khác vói thuyết trình ở chỗ nội dung cần truyền thụ không được thể hiện qua lời giảng của người dạy mà được thực hiện bời hệ thống câu trả lời của người học, dưới sự gợi mở bởi các câu hỏi của người dạy đè xuất . Các câu hỏi này được tổ chức thành một hệ thống phù hợp với nội dung bài học, đối tượng học sinh.
1.2 Mục đích và yêu cầu của PP vấn đáp
Mục đích của PP vấn đáp là nâng cao chất lượng giờ học bằng cách tăng cường hình thúc hỏi đáp, đàm thoại giữa GV va HS , rèn cho HS bản lĩnh tự tin, khả năng diễn đạt một vấn đề trước tập thể . Muốc thực hiện điều đó, đòi hỏi GV phải xây dựng được hệ thống câu hỏi phù hợp với yêu cầu bài học, hấp dẫn , sát đối tượng, xác định được vai trò chức năng của từng câu hỏi , mục đích hỏi , các yếu tố kết nối hệ thống câu hỏi. Câu hỏi phải khơi gợi được hứng thú tham gia hoạt động của học sinh và phải được chuẩn bị một cách chu đáo và thục sự khoa học, không thể tùy hứng, vụn vặt, thiếu hệ thống,đặc biệt là không có tác dụng.đẫn dắt HS thâm nhập và cắt nghĩa văn bản . Câu hỏi không cần nhiều nhưng phải là những câu hỏi thích đáng, trọng tâm, then chốt, có tình huống buộc học sinh phải suy nghĩ và có húng thú bộc lộ cảm nghĩ của mình Ngoài ra người giáo viên cần dự án các phương án trả lời của học sinh đế có thể thay đổi hình thức , cách thức mức độ hỏi, có thể dẫn dắt qua các câu hỏi phụ tránh đơn điệu nhàm chán, nặng nề bế tắc ; tạo hứng thú học tập cho HS và tăng hấp dẫn của giờ học .
1.3 Các nhân vật tham gia trong giờ học vấn đáp.
1.3.1 Người giáo viên trong giờ học vấn đáp.
Thực tế cho thấy, trong một thời gian dài trước khi cải cách giáo dục người ta đã từng quan niệm học văn là một quá trình thầy đọc, giảng, cảm thụ còn trò chỉ là những cỗ máy ghi chép.Theo cách dạy học truyền thống, người giáo viên trong giờ học là người quyết định một cách toàn diện chất lượng dạy học và được coi là chủ thể của hoạt động dạy Thế nhưng, trước yêu cầu ngày càng cao của xã hội và sự bùng nổ về tri thức, thông tin đã đặt người học trước một nhiệm vụ mới khó khăn hơn. Bản chất của sự học ngày nay đã thay đổi. Học bao giờ cũng phải đi đôi với hành “học và hành phải kết hợp chặt chẽ…phải gắn liền với thực tế những đòi hỏi của dân tộc, xã hội” giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, GV trở thành người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập, hoặc theo nhóm nhỏ để HS tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Điều này đòi hỏi người GV phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mời có thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, đông viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt đọng tìm tòi tranh luận của HS . GV phải có trình độ chuyên môn sâu, rộng, có trình độ sư phạm mới có thể tổ chức hướng dẫn các hoạt động của HS.
Với giờ đọc - hiểu văn bản Ngữ văn, GV là người điều khiển, hướng dẫn để học sinh tự khám phá ra vẻ đẹp của văn bản văn học. Người GV phải chuẩn bị kĩ nội dung bài học như xác định rõ mục tiêu bài học, tiến trình tổ chức dạy học . Đặc biệt là quá trình tổ chức hướng dẫn dạy – học bài mới. GV phải xây đựng được một hệ thống câu hỏi vấn đáp phù hợp với nội dung bài học.Câu hỏi phải khơi gợi được hứng thú tham gia hoạt động của học sinh và phải được chuẩn bị một cách chu đáo và thục sự khoa học, không thể tùy hứng, vụn vặt, thiếu hệ thống,đặc biệt là không có tác dụng.đẫn dắt HS thâm nhập và cắt nghĩa văn bản . Câu hỏi không cần nhiều nhưng phải là những câu hỏi thích đáng, trọng tâm, then chốt, có tình huống buộc học sinh phải suy nghĩ và có húng thú bộc lộ cảm nghĩ của mình . Có thể nói xây dựng được hệ thống câu hỏi vấn đáp có chất lượng có tác dụng gợi dẫn HS thâm nhập khám phá tác phẩm là một nghệ thuật đòi hỏi sự công phu và tài năng thực sự của GV
Theo kinh nghiệm của tôi, đối với mỗi câu hỏi, người GV phải xác định được mức độ, mục đích, nội dung và hình thức câu hỏi, cũng như tính hệ thống, đẫn dắt của mồi câu hỏi .Cũng cũng phải lưu ý một điều là tùy vào tình huống thực tế, vào đối tượng HS mà người GV có thể thay câu hỏi hoặc bổ sung các câu hỏi cho phù hợp vói tình huống, đối tượng học sinh và mục tiêu bài học. Chẳng hạn, đứng trước một vấn đề mà học sinh khó phát hiện cũng như khó trả lời, người giáo viên cần có câu hỏi gợi mở để từ đó giúp học sinh có sự định hướng và trả lời.
1.3.2 Người học sinh trong giờ học vấn đáp.
Trong cơ chế dạy học văn theo lối cũ, mối liên hệ giữa giáo viên và học sinh là mối liên hệ giữa người giảng với người nghe, người truyền thụ với người tiếp thu, người thông tin với người tiếp nhận, người trình bày với người ghi nhớ. Như vậy những năng lực chủ quan của bản thân học sinh không được phát huy. Trong giờ học văn , học sinh chỉ có nhiệm vụ, nghe nhớ, và lặp lại điều đã nhớ được qua lời giảng của giáo viên. Học sinh được xem như là khách thể, một đối tượng thụ động chịu sự tác động của giáo viên, của tài liệu, của tiến trình giảng dạy mà không thấy rõ học sinh cũng là chủ thể năng động trong tiến trình tổ chức dạy học.
Tưởng đổi mới dạy học văn hiện nay là coi trọng, chú trọng đến người học, là phát huy cao độ tiềm năng sáng tạo của người học . Do đó, khi dạy một bài Ngữ văn, GV không chỉ chú trọng đến văn bản, đến việc dạy cái gì và cách dạy như thế nào mà còn phải chú ý tới người học sẽ học như thế nào . Sai lầm lâu nay của cách dạy học cũ là GV chỉ say mê khám phá văn bản và khổ công tìm tòi cách thức lên lớp sao cho háp dẫn mà không chú ý HS học bài đó như thế nào. Xác định đúng đắn vai trò của học sinh như là một chủ thể cảm thụ trong giờ dạy học văn sẽ đưa đấn những đổi mới cơ bản trong phương pháp dạy học văn.
Trong giờ đọc hiểu văn bản, khi giáo viên vận dụng PP vấn đáp gợi mở đẫn dắt, HS không chỉ tự cảm thụ, rung cảm, cảm xúc trước cái hay, cái đẹp mà còn được trao đổi, thảo luận với bạn bè, được tiếp thu tri thức mới và được tự do phát biểu những suy nghĩ, sáng kiến của mình. Với hệ thống câu hỏi phát vấn trong giờ học Văn, giáo viên có thể phát huy những năng lực tư duy và phẩm chất trí tuệ của từng học sinh. Năng lực độc lập, tự làm việc, óc tìm tòi suy nghĩ, thói quen giao tiếp xã hội của học sinh được phát huy một cách tích cực.
Như vậy, trong giờ văn theo phương pháp vấn đáp học sinh luôn là một chủ thể trực tiếp tiếp nhận, chiếm lĩnh tác phẩm cũng như giáo viên. Người GV không cảm thụ hộ mà là người đứng ra tổ chức quá trình học sinh tiếp nhận, chiếm lĩnh văn bản văn học. Từ đó, học sinh được rèn luyện và phát triển một số kĩ năng tự tiếp nhận văn bản văn học cũng như các vấn đề trong cuộc sống.
II - Một số giải pháp vận dụng PP vấn đáp
Tuy là một giáo viên mới vào nghề, kinh nghiệm còn hạn chế, nhưng qua một thời gian công tác giảng dạy, bản thân tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp bước đầu làm căn cứ cơ sở cho vận dụng PP DH vấn đáp trong giờ đọc hiểu Ngữ văn ở trường THPT :
- Trong giờ học văn, giáo viên phải là người điều khiển, hướng dẫn để học sinh tự khám phá ra vẻ đẹp của văn bản văn học. HS là một chủ thể trực tiếp tiếp nhận, chiếm lĩnh tác phẩm. HS có điều kiện phát huy những khả năng mới vốn tiềm ẩn mà lâu nay bản thân các em chưa khám phá, bộc lộ hoặc còn rụt rè, lúng túng... Từ đó, tạo cho các em HS sự mạnh dạn, tự tin khi diễn đạt một vấn đề trước tập thể.
- GV cần phải nắm vững bản chất của PP vấn đáp, đặc biệt là phải phân biệt được các loại, mức độ vấn đáp để từ đó xây dựng hệ thống câu hỏi thích đáng, trọng tâm, then chốt, có tình huống , khơi gợi được hứng thú tham gia hoạt động của học sinh,phù hợp với nội dung bài học .
Qua tài liệu tham khảo và kinh nghiệm của bản thân, tôi nhận thấy có ba phương pháp (mức độ) vấn đáp : Vấn đáp tái hiện , Vấn đáp giải thích chứng minh và vấn đáp tìm tòi, phát hiện, sáng tạo
+ Vấn đáp tái hiện : Đây là phương pháp GV đặt ra câu hỏi yêu cầu HS chỉ cần nhớ lại và tái hiện nội dung bài học .Đây là dạng vấn đáp ở mức độ bình thường, không đòi hỏi HS phải tư duy mà chỉ cần huy động trí nhớ hoặc dựa vào văn bản văn học
Chẳng hạn khi tổ chức cho HS tìm hiểu chung về văn bản văn học, giáo viên chủ yếu sử dụng PP vấn đáp tái hiện .Ví dụ dạy học bài Việt Bắc, sau khi đọc phần tiểu dẫn, giáo viên đặt câu hỏi : Em hãy cho biết phần tiểu dẫn giới thiệu nội dung gỡ?. Học sinh lắng nghe và căn cứ vào văn bản để trả lời :- Hoàn cảnh và mục đớch sỏng tỏc bài thơ Việt Bắc. Giới thiệu khỏi quỏt về bố cục bài thơ . Hay khi tổ chức hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản Việt Bắc, giáo viên đặt câu hỏi tái hiện : Cuộc chia giữa kẻ ở người đi tay được miờu tả như thế nào trong tám câu thơ đầu? HS đọc văn bản và tái hiện cảnh chia tay : Trên nền cảnh núi rùng Việt Bắc, diễn ra cảnh chia tay đầy bịn rịn lưu luyến giữa đồng bào Việt Bắc và cán bộ CM miền xuôi .Lời của Việt Bắc lờn tiếng trước
Hỏi về khụng gian và thời gian thường gợi kỉ niệm vừa gắn bú vừa sõu nặng. Lời anh cỏn bộ khỏng chiến cất lờn lời đỏp thể hiện nỗi lòng bõng khuõng, xao xuyến không muốn rời xa.
Ví dụ : Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu những phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh trongvăn bản Chiếc thuyền ngoài xa(Nguyễn Minh Châu) , giáo viên đặt câu hỏi vấn đáp tái hiện : Tuy nhiên, ngay khi tâm hồn bay bổng trong những cảm xúc thẫm mỹ, đang tận hưởng cái khoảng khắc trong ngần của tâm hồn thì người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã kinh ngạc phát hiện ra điều gì tiếp theo ngay sau bức tranh ? Tâm trạng người nghễ sĩ khi đó như thế nào? .
HS tái hiện : Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ là một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi ; một gã đàn ông to lớn, dữ dằn ; một cảnh tượng tàn nhẫn: gã chồng đánh đập vợ một cách thô bạo ... đứa con thương mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận lấy hai cái bạt tai của bố ngã dúi xuống cát...Chứng kiến cảnh tượng đó người nghệ sĩ Phùng kinh ngạc đến thẫn thờ. Người nghệ sĩ như chết lặng, không tin vào những gì đang diễn ra trước mắt.
ị Vấn đáp tái hiện có thể xem là bước đầu khi đi sâu tìm hiểu, khám phá,phát hiện giá trị của văn bản văn học. Đây còn là cơ sở để giáo viên đặt ra những câu hỏi nêu vấn đề nhằm hướng dẫn, giúp HS phát hiện giá trị, vẻ đẹp của văn bản văn học
+ Vấn đáp giải thích, chứng minh . Giáo viên phải xây dựng hệ thống câu hỏi yêu cầu HS phải tư duy, biết vận dụng các thao tác lập luận giải thích(dùng lí lẽ, lí giải nội dung, bản chất của vấn đề để mọi người cùng hiểu vấn đề ), phân tích, chứng minh( chia tách đôí tượng thành từng khía cạnh, từng phần xem xét đánh giá, kết hợp dùng dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề, đối tượng ) đẻ làm sáng rõ vấn đề, hay đối tượng .
Với PP này, giáo viên tổ chức hướng dẫn HS đi sâu khám phá các giá trị của tác phẩm văn học nay bản chất vấn đề của bài học . Tuy nhiên vấn đề đặt ra là GV xây dựng hệ thống câu hỏi vấn đáp giải thích, chứng minh như thế nào để hấp dẫn học sinh đồng thời đảm bảo được mục tiêu cần đạt. Theo kinh nghiệm của bản tôi, người GV nên căn cứ vào mục tiêu cần đạt kết hợp với hệ thống câu hỏi Hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa, thể loại văn bản, dung lượng bài học . Ngoài ra, còn phải chú ý đến đối tượng HS từng lớp, từng nhóm, thậm chí từng cá nhân trong lớp trong lớp về các mặt như lứa tuổi, tâm sinh lý, trình độ ,vốn sống, khả năng nhận thức, khả năng diễn đạt... Trên cơ sở đó giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi vấn đáp .
Chẳng hạn khi tìm hiểu vẻ hung bạo của con sông Đà trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, Giáo viên nêu câu hỏi: có ý kiến nhận xét cho rằng : Nguyễ Tuân đã có sự Quan sỏt cụng phu, tỡm hiểu kĩ càng để khắc họa sự hung bạo trờn nhiều dạng vẻ. Emcó đồng ý với ý kiến trên không? vì sao ?. HS thảo luận rồi trả lời : Quả đúng là Nguyễn Tuân đã có sự Quan sỏt cụng phu, tỡm hiểu kĩ càng để khắc họa sự hung bạo trờn nhiều dạng vẻ . Từ đó, HS vận dụng thao tác giải thích ,chứng minh để làm sáng tỏ vấn đề . Kết quả HS trả lời : Trong phạm vi 1 lũng sụng hẹp, như chiếc yết hầu bị đỏ bờ sụng chẹt cứng.Lại có những quãng sông hàng cõy số của một thế giới đầy giú gựn ghố, đỏ giăng đến chõn trời và súng bọt tung trắng xúa... Tả cỏi hỳt nước quóng Tà Mường Vỏt, những cỏi hỳt nước xoỏy tớt lụi tuột mọi vật xuống đỏy sõu... Những trựng vi thạch trận sẵn sàng nuốt chết con thuyền và người lỏi. .. Âm thanh luụn thay
File đính kèm:
- SKKN PP doc hieu van ban vh.doc