Sáng kiến kinh nghiệm - Một số giải pháp khắc phục tình trạng học sinh học yếu môn toán lớp 10

MỤC LỤC

Trang

Phần thứ nhất

MỞ ĐẦU

I. Lý do chọn đề tài . 2

II. Cơ sở lý luận và thực tiễn. 3

III. Phạm vi đề tài. 4

IV Phương pháp nghiên cứu. 4

Phần thứ hai

NỘI DUNG

I. Thực trạng giảng dạy môn toán. 5

1 Kết quả khảo sát chất lượng . 5

2 Một số đặc điểm thể hiện ở học sinh học yếu môn Toán . 5

3 Nguyên nhân . 8

II. Các giải pháp khắc phục tình trạng học sinh yếu môn toán 10

1. Giải pháp tâm lý . 11

2. Giải pháp dạy học 12

III. Một số ý kiến đề xuất . 18

 Phần thứ ba

KẾT LUẬN 19

 TÀI LIỆU THAM KHẢO 21

 

doc22 trang | Chia sẻ: thanhthanh29 | Lượt xem: 1368 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm - Một số giải pháp khắc phục tình trạng học sinh học yếu môn toán lớp 10, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Trang Phần thứ nhất MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài ...................................................................... 2 II. Cơ sở lý luận và thực tiễn......................................................... 3 III. Phạm vi đề tài............................................................................ 4 IV Phương pháp nghiên cứu.......................................................... 4 Phần thứ hai NỘI DUNG I. Thực trạng giảng dạy môn toán............................................... 5 1 Kết quả khảo sát chất lượng. 5 2 Một số đặc điểm thể hiện ở học sinh học yếu môn Toán. 5 3 Nguyên nhân. 8 II. Các giải pháp khắc phục tình trạng học sinh yếu môn toán 10 1. Giải pháp tâm lý . 11 2. Giải pháp dạy học 12 III. Một số ý kiến đề xuất ............................................................... 18 Phần thứ ba KẾT LUẬN 19 TÀI LIỆU THAM KHẢO 21 PHẦN THỨ NHẤT. MỞ ĐẦU I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Khi nói đến lĩnh vực giáo dục, đổi mới phương pháp dạy học đã được đề cập và bàn luận sôi nổi từ nhiều thập kỉ qua. Các nhà nghiên cứu phương pháp dạy học đã không ngừng nghiên cứu, tiếp thu những thành tựu mới của lí luận dạy học hiện đại để đưa nền giáo dục nước ta ngày càng hiện đại hơn, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao. Những năm gần đây, định hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được thống nhất theo tư tưởng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh dưới sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên. Học sinh phải tự giác chủ động tìm tòi phát hiện, giải quyết nhiệm vụ nhận thức và có ý thức vận dụng các kiến thức, kỹ năng thu nhận được Và thực tế, việc áp dụng phương pháp dạy học đã phát huy tối đa năng lực học tập của học sinh, đặc biệt là đối tượng học sinh khá trở lên.Còn đối với những đối tượng học sinh yếu, kém thì sao? Tình trạng học sinh học yếu môn Toán ở cấp THPT là một thực tế đáng lo ngại và là nỗi băn khoăn trăn trở của nhiều giáo viên dạy Toán. Tình trạng trên còn trầm trọng hơn đối với học sinh trên địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, vùng kinh tế đặc biệt khó khăn. Có nhiều nguyên nhân làm cho học sinh học yếu môn Toán, song nguyên nhân chính là học sinh chưa có phương pháp học tập đúng đắn, có nhiều lỗ hỗng về kiến thức, kỹ năng. Chính vì vậy, tình trạng học sinh học yếu môn Toán ngày càng tăng và nguy hiểm hơn là sự kéo dài từ năm này sang năm khác. Từ thực tế đó tôi nhận thấy cần phải nghiên cứu, tìm ra giải pháp để khắc phục tình trạng học sinh yếu môn Toán và cụ thể là lớp 10 mới có thể nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn, tạo cho học sinh niềm say mê học tập nhất là đối với môn Toán. Vì lí do trên nên tôi chọn đề tài: Một số giải pháp khắc phục tình trạng học sinh học yếu môn Toán để nghiên cứu. II/CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN. Nghị quyết số 40/2000/QH10 ngaøy 9/12/2000 của quốc hội khóa X về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông với mục tiêu “ Xây dựng nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phù hợp với thực tiễn và tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông của các nước trong khu vực và trên thế giới. Với chủ đề năm học là: “Đổi mới công tác quản lí và nâng cao chất lượng giáo dục”, một trong những biện pháp đó là giúp đỡ học sinh yếu để cải thiện chất lượng giáo dục. Toán là môn học có tính tư duy cao, đòi hỏi học sinh phải có năng lực tư duy tốt, phương pháp học tập đúng đắn, có niềm tin và sự say mê thì mới có kết quả học tập tốt. Nhưng thực tế dạy học hiện nay thì đa phần học sinh rất ngại học Toán. Kết quả học tập môn Toán tương đối thấp, hơn nữa chương trình sách giáo khoa lại là một chuẩn kiến thức chung cho tất cả các đối tượng học sinh nên khi giảng dạy đa số giáo viên phải đáp ứng các chuẩn kiến thức chung đó. Quan điểm của sự đổi mới phương pháp hiện nay là: Dạy học lấy học sinh làm trung tâm, yêu cầu người giáo viên phải quan tâm đến từng đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh yếu mới có thể đạt được hiệu quả giáo dục cao. Trình tự dạy học môn Toán cho học sinh yếu, kém dựa trên các nội dung phụ đạo học sinh yếu và được áp dụng theo phương pháp dạy học mới nhằm đặt học sinh ở vị trí trung tâm. Học sinh phải tích cực chủ động, sáng tạo, tự giác, chủ động tìm tòi phát hiện giải quyết nhiệm vụ nhận thức và có ý thức vận dụng linh hoạt các kiến thức kỹ năng thu nhận được. Quy trình chung để giảng dạy đối với học sinh yếu kém theo các bước: Tạo tiền đề xuất phát. Lấp lỗ hỗng kiến thức. Luyện tập vừa sức. Giúp đỡ học sinh có thái độ và phương pháp học tập. III/PHẠM VI ĐỀ TÀI Tìm ra phương pháp bồi dưỡng học sinh học yếu môn Toán là vấn đề mà hầu như giáo viên dạy Toán nào cũng quan tâm để cải tiến chất lượng bộ môn. Vì lẽ đó không ít giáo viên đã nghiên cứu đề xuất nhiều giải pháp tốt. Song, thực tế giảng dạy mỗi vùng, miền, mỗi địa bàn giáo dục lại khác nhau nên tôi tiếp tục nghiên cứu phương pháp phụ đạo học sinh học yếu môn Toán cho đối tượng học sinh mà tôi giảng dạy trên địa bàn huyện EaH’Leo mà cụ thể là Trường THPT Trường Chinh. Nội dung chủ yếu là trình bày một số giải pháp để khắc phục tình trạng học yếu môn Toán của học sinh lớp 10. Gíúp các em tiến bộ hơn trong học tập. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Tham khảo tài liệu sách giáo khoa, sách tham khảo, tạp chí liên quan, khai thác thông tin trên mạng. - Phân tích, tổng kết kinh nghiệm. - Kiểm tra kết quả giảng dạy, điều tra trực tiếp thông qua các giờ dạy. PHẦN THỨ HAI. NỘI DUNG I. THỰC TRẠNG GIẢNG DẠY MÔN TOÁN. 1.Kết quả khảo sát chất lượng Từ thực tế giảng dạy ở một trường THPT thuộc huyện EaH’Leo, một trường học thuộc vùng sâu kinh tế mới có hơn 30% học sinh dân tộc Tây Nguyên. Bảng khảo sát chất lượng đầu năm học 2010 -2011 Lớp Sĩ số Điểm >=8 Trên TB Dưới TB Điểm <2.5 SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% 10A4 39 0 0% 1 2.6% 38 97.4% 20 51.28% 10A6 40 0 0% 0 0% 40 100% 25 62.5% Vì trong thời gian nghiên cứu tôi chỉ tham gia giảng dạy môn toán ở 2 lớp 10 nên nội dung nghiên cứu chủ yếu dựa trên tình hình học tập, đặc điểm tâm lý của học sinh mà tôi trực tiếp giảng dạy. Một số đặc điểm thể hiện ở học sinh học yếu môn Toán. Học sinh yếu môn Toán là những học sinh có kết quả học tập thường xuyên ở mức độ thấp, điểm kiểm tra thường xuyên dưới trung bình. Sự yếu kém có nhiều biểu hiện, nhiều vẻ nhưng nhìn chung học sinh học yếu Toaùn có những đặc điểm sau đây: a) Có nhiều lỗ hỗng về kiến thức kỹ năng. Có nhiều học sinh kĩ năng tính toán rất kém, khi thực hiện một dãy các phép toán thì luôn sai sót, đặc biệt là sai dấu. Nguyên nhân là học sinh không nắm được thứ tự thực hiện phép Toán nào trước, phép Toán nào sau. Hay khi thực hiện các bài toán có dấu ngoặc thì không nắm được quy tắc dấu ngoặc, không nhớ đổi dấu khi có dấu trừ trước dấu ngoặc cũng như không đổi dấu khi chuyển vế hay không nắm vững công thức tính lũy thừa.Cụ thể khi thực hiện bài toán giải phương trình bậc nhất bậc hai học sinh lớp 10 vẫn chưa giải được Tiếp thu kiến thức chậm, nắm kiến thức hời hợt, không biết vận dụng kiến thức vào bài tập. Học sinh yếu thường chậm hiểu, có khi bị buộc chặt vào lời giảng của giáo viên hoặc cách phát biểu trong sách giáo khoa. Thay cho việc tiếp thu nội dung bằng việc nắm kiến thức một cách hình thức. Học sinh có thể đọc vanh vách quy tắc tìm nghiệm của bài toán giải phương trình bậc nhất, bậc hainhưng các em không biết tìm ra nghiệm đúng, hay không biết cách biến đổi. Cũng như không biết cách đưa về phương trình bậc nhất, bậc hai, từ đó dẫn đến sai kết quả bài toán là điều hiển nhiên. Năng lực tư duy kém, thiếu linh hoạt. Học sinh học yếu môn Toán thì thường lười suy nghĩ, chủ yếu trông chờ vào giáo viên giải bài tập trên bảng rồi chép vào vở, khả năng tập trung chú ý thấp, khả năng phân tích, tổng hợp rất hạn chế, nắm kiến thức không chắc nên học sinh thường vận dụng kiến thức một cách máy móc, không tìm hiểu kỹ yêu cầu đề bài, không biết phân tích bài toán. Ví dụ: Không xác định thành phần cũng như quan hệ của các số, các biểu thức trong bài Toán giải phương trình bậc nhất. Chẳng hạn: Giải phương trình: a)219 – 7(x+1) =100 ; b) (3x - 6).3 = 34. Đa số học sinh yếu không biết cách bắt đầu giải ra sao? Phép Toán nào phải giải quyết trước, Phép Toán nào phải giải quyết sau. Đối với các bài Toán có vận dụng tính chất phân phối giữa phép nhân và phép cộng thì các em chỉ việc bấm máy tính cho ra kết quả mà không biết cách áp dụng. Thực hành tính toán kém, hay sai sót, nhầm lẫn. Đối với học sinh yếu khi thực hiện tính toán thường xuyên sai dấu khi thực hiện một dãy các phép Toán, nhất là các biểu thức có dấu ngoặc, kĩ năng tính rất chậm, phụ thuộc nhiều vào máy tính. Còn lúng túng và khó khăn trong khi thực hiện các phép Toán: cộng, trừ, nhân, chia.đối với hai số trái dấu. Diễn đạt thiếu mạch lạc, lập luận thiếu căn cứ, sử dụng thuật ngữ Toán học thiếu chính xác Thái độ học tập thờ ơ, phương pháp học tập bộ môn Toán chưa tốt. Nhiều em học sinh chưa tự giác học tập, chưa có động cơ học tập nên học không tốt. Có nhiều em học các môn xã hội rất khá nhưng rất ngại học Toán. Tâm lý chung của học sinh là rất sợ các môn tự nhiên, nhất là môn Toán. Các em học yếu thường không có sự cố gắng liên tục, trong giờ học thường thiếu sự tập trung, không chú ý. Hay tìm cách vắng học vào những hôm có hai tiết Toán. Có thái dộ rất thụ động và thờ ơ với việc học tập. Bài tập giao về nhà các em chỉ làm cho có trong tư thế đối phó. Tệ hơn có em còn chép nguyên văn trong sách giải hay của bạn bè mà không hiểu gì, thậm chí có những học sinh cá biệt không bao giờ làm bài tập ở nhà, thái độ thiếu hợp tác trong giờ học, không mang sách vở đầy đủ, có khi còn không chịu ghi bài. Ngoài ra còn hiện tượng một số em học sinh dân tộc thì không bao giờ nói một lời trong giờ học Toán. Ngay cả một số em đã tiến bộ được một thời gian rồi lại tiếp tục thiếu cố gắng dẫn đến tình trạng sút kém không có lối thoátNhiều em thiếu tự tin vào bản thân mình. Đôi khi bài tập làm đúng rồi nhưng khi giáo viên hỏi lại thì các em lúng túng, ngập ngừng không tự tin vào bài giải của mình. Khi học ở nhà, các em cũng không có phương pháp học tập và quy trình làm việc đúng. Thường là chưa nắm lý thuyết đã vội lao vào làm bài tập, mà lại không bao giờ làm ngoài nháp. Đây là đặc thù của học sinh học yếu các môn tự nhiên nói chung. Làm không được lại nản chí, quay sang học lý thuyết một cách miễn cưỡng, hình thức, bó chặt vào các ví dụ trong sách giáo khoa hay học vẹt để đối phó. Trong giờ hoạt động nhóm các em học sinh yếu thường rất thờ ơ, bàn quan, chỉ tham gia cùng các bạn cho có mặt hoặc làm việc một cách qua loa, chiếu lệ, không nắm được yêu cầu của vấn đề cần thảo luận hay tính toán. 3/ Nguyên nhân Một trong các nguyên nhân khiến các em sợ học bộ môn toán: Đó là một trong các bộ môn khoa học đòi hỏi người học phải có tính tư duy cao, tính kiên trì, nhẫn nại, đều này không phải ai cũng có sẵn, càng không thể học vẹt, không thể học tuỳ hứng. Các biểu hiện trên cũng là nguyên nhân chủ quan dẫn đến tình trạng học yếu ở đa số HS yếu môn Toán. Ngoài ra còn có một số nguyên nhân khách quan sau: Sự quan tâm của một số phụ huynh còn hạn chế. Điều kiện học tập còn khó khăn. Sự quan tâm của một số phụ huynh đối với việc học của con em mình còn hạn chế. Đặc biệt có những phụ huynh của những em học sinh yếu không bao giờ kiểm tra vở sách của các em. Phó thác việc học tập của các em cho nhà trường. Nhiều em thuộc diện yếu kém được nhà trường tổ chức học phụ đạo cũng không chịu tham gia học nghiêm túc, thường xuyên trốn học đi chơi mà phụ huynh không hề hay biết. Nhiều học sinh nhà ở xa trường từ 6 đến hơn 12km. Đi học phải bằng xe buýt, xe máy, việc đến trường đều đặn của các em đã là một cố gắng lớn, nhiều em không có bạn để trao đổi, học hỏi lẫn nhau. Yếu tố xã hội. Trong thực tế hiện nay, việc học tập của một số không ít học sinh còn thiếu nghiêm túc, các em có thái độ chán nản trong học tập nhất là ở các môn học có tính tư duy cao như môn toán. Sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin cùng với Internet, các dịch vụ vui chơi, giải trí hấp dẫn lôi cuốn các em hơn là nhiệm vụ học tập. Thực tế dạy học môn Toán ở nhiều trường hiện nay cho thấy nhiều, rất nhiều học sinh chán học, lười học và có khuynh hướng “ ham chơi hơn ham học”, Tình trạng học tập của các em là “rất khó nhớ nhưng lại mau quên” càng trở nên phổ biến. Nhiều giáo viên dạy Toán chưa có phương pháp phù hợp . Nhiều giáo viên dạy Toán chưa có phương pháp phù hợp với đối tượng học sinh, chưa thực sự quan tâm đến tất cả học sinh trong cả lớp, chỉ chú trọng vào những em học khá, giỏi hay chưa có biện pháp động viên khích lệ kịp thời đối với những tiến bộ của học sinh dù là rất nhỏ. Một số giáo viên còn hơi nghiêm khắc, làm cho học sinh có tâm lý e sợ trong giờ học, rụt rè không dám phát biểu . Đặc thù của bộ môn. Đặc thù của môn Toán là thiếu tính sinh động, hấp dẫn nên học sinh không có ý thức tìm hiểu, khám phá kiến thức mới như các môn học khác. Hơn nữa thiết bị dạy học cho môn Toán là rất ít, không sinh động nên học sinh ít có hứng thứ khi học môn Toán. II. CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG HỌC SINH YẾU MÔN TOÁN: Học sinh yếu là một tồn tại khách quan, một phần do giáo viên chưa quan tâm đúng mức, chưa giúp đỡ kịp thời để các em hỏng kiến thức cơ bản. Một phần là do học sinh không thích học, không biết cách học dẫn đến ngày càng tụt hậu hơn so với trình độ chung của lớp. Nếu không có sự giúp đỡ của giáo viên thì đối tượng học sinh yếu kém sẽ dễ rơi vào vòng luẩn quẩn, học yếu, học kém vì có lỗ hỗng kiến thức, vì không biết vận dụng kiến thức hay không có phương pháp học tập đúng đắn. Ngược lại, những điều đó khi không khắc phục được sẽ làm cho tình trạng học kém ngày càng trở nên trầm trọng và nguy hiểm hơn là sự kéo dài từ năm này sang năm khác. Không cần kể nguyên nhân do đâu, giúp đỡ học sinh yếu là việc làm cần thiết, không thể giải quyết trong một sớm một chiều mà phải có lộ trình hợp lý, có những biện pháp sát thực, hiệu quả và kịp thời, nhất là phải có kế hoạnh riêng cho mỗi học sinh . Để khắc phục phần nào tình trạng trên, tôi đưa ra một số giải pháp giúp các em phần nào cải thiện tình trạng yếu kém của bộ môn Toán cũng như việc nắm kiến thức kỹ hơn, sâu hơn, vận dụng được linh hoạt kiến thức đó vào bài tập. Trong tiết học đồng loạt, sử dụng bằng những biện pháp thích hợp, giáo viên đã có thể tác động đến từng đối tượng học sinh trong đó có diện yếu kém. Tuy nhiên bên cạnh đó, giáo viên cần có sự giúp đỡ cụ thể riêng đối với nhóm học sinh yếu kém. Mục đích của việc giúp đỡ riêng này là làm cho diện này theo kịp các yêu cầu chung của tiết học trên lớp và có thể hoà vào việc dạy đồng loạt tốt hơn. Những giúp đỡ riêng có thể là ngoài giờ chính khoá, cũng có khi là giúp đỡ riêng trong giờ chính khoá. Nội dung giúp đỡ nhóm học sinh yếu kém môn Toán có thể tiến hành theo các giải pháp sau : 1/Giải pháp tâm lý . Để ngay từ bước đầu học sinh yêu thích môn học của mình, tôi đã tạo sự gần gũi với các em từ những tiết học đầu tiên bằng cách hỏi thăm tình hình học tập của lớp, trao đổi một số kinh nghiệm học tập đạt hiệu quả, chú ý đến những học sinh có hoàn cảnh khó khăn, động viên các em bằng cách kể những gương học tập vượt khó mà các em có thể học tập. Luôn tạo cho các em tâm lý thoải mái trong giờ học. Trong quá trình dạy giáo viên cần phải có thái độ nhẹ nhàng khi học sinh mắc khuyết điểm, cư xử khéo léo với các em, xử lý tốt các tình huống sư phạm. Việc đánh giá nhận xét phải công bằng, khách quan và công tâm, công khai kết quả sau các giờ kiểm tra, cần phải có nhận xét bài làm học sinh. Phải có kiến thức vững vàng để giải đáp các thắc mắc một cách thuyết phục. Để bài giảng hay tiết học của mình thêm sinh động, tôi luôn tìm tòi tài liệu tranh ảnh về các nhà Toán Học nổi tiếng kể cho các em nghe, hay những câu chuyện Toán học mà tôi sưu tầm trên mạng Internet, sách báo. Xây dựng cho các em thói quen học tập tích cực, động viên kịp thời những học sinh tiến bộ, cung cấp cho các em phương pháp học tập đúng, khuyến khích các em không ngừng cố gắng, tạo cơ hội cho các em học sinh dân tộc phát biểu trong giờ học. 2. Giải pháp dạy học. a.Tạo tiền đề xuất phát. Việc học tập có kết quả trong một tiết học đòi hỏi những tiền đề xuất phát nhất định về kiến thức, kỹ năng của học sinh, giáo viên cần phải có trách nhiệm làm tái hiện những kiến thức kỹ năng đó. Với học sinh khá, giỏi những kiến thức kỹ năng có khi chỉ cần tái hiện một cách ẩn tàng ở những lúc thích hợp liên quan đến nội dung mới. Nhưng đối với học sinh yếu kém thì nên tách thành từng khâu riêng biệt, tái hiện một các tường minh. Chẳng hạn đối với chương trình đại số lớp 10: + Trước khi học bài hàm số cần ôn tập cho HS yếu kém thật kỹ tìm điều kiện để hàm số có nghĩa. + Trước khi học bài hàm số bậc hai y= ax2 +bx +c cần ôn lại cách tìm biệt thức = b2-4ac đã học ở lớp 9 để học sinh tìm đỉnh một cách thành thạo. + Trước khi học bài phương trình quy về phương trình bậc nhất,bậc hai cần ôn tập cho học sinh yếu kém thật kỹ về cách tìm nghiệm phương trình bậc nhất ở lớp 8 và cách tìm nghiệm phương trình bậc hai ở lớp 9 + Trước khi học bài dấu nhị thức và dấu tam thức cần ôn tập cho học sinh yếu kém thật kỹ cách quy đồng mẫu thức nhiều phân thức đã học ở lớp 8 Ngoài ra sự chuẩn bị trước ở nhà của học sinh cũng không kém phần quan trọng, nó góp phần tích cực vào việc tiến bộ của học sinh. Giáo viên phải yêu cầu học sinh xem trước bài ở nhà, ôn tập lại những kiến thức liên quan đến bài giảng. Một giờ dạy nói chung và giờ luyện tập nói riêng, người giáo viên không chỉ đơn thuần là chuẩn bị tốt, công phu một, hai tiết dạy mà cần chú ý đến cả quá trình dạy học, từ đồ dùng dạy học đến nội dung bài dạy để tạo cho học sinh những tiền đề xuất phát nhất định. b.Lấp lỗ hỗng kiến thức. Trong quá trình dạy học trên lớp, người giáo viên phải luôn coi trọng tính vững chắc của kiến thức kỹ năng, phải quan tâm phát hiện những lổ hỏng kiến thức kỹ năng. Có những lổ hỗng có thể khắc phục được ngay nhưng cũng có những lổ hỗng dù là điển hình nhưng trên lớp chưa đủ thời gian khắc phục và giáo viên phải có kế hoạch tiếp tục giải quyết. Chẳng hạn học sinh không nắm vững thứ tự thực hiện các phép Toán thì có thể khắc phục được ngay, nhưng không nắm được cách tìm ước, tìm bội, tìm ước chung lớn nhất hay bội chung nhỏ nhất của một số thì phải khắc phục dần, không thể làm ngay trong một tiết học. c.Luyện tập vừa sức. Đối với học sinh yếu kém, người giáo viên nên coi trọng tính vũng chắc của kiến thức kỹ năng hơn là chạy theo mục tiêu đề cao, mở rộng kiến thức. Khi làm việc riêng với học sinh yếu kém cần để các em tăng cường luyện tập các bài tập vừa theo sức mình. Người giáo viên cần lưu ý các yêu cầu sau: + Gia tăng số lượng bài tập cùng thể loại và cùng mức độ, chẳng hạn cho các em thực hiện các phép Toán cộng, trừ, nhân, chia hai số cho thật nhuần nhuyễn .Các bài toán có vận dụng tính chất phân phối giữa phép nhân đối với phép cộng cho các em làm càng nhiều càng tốt mà không sợ bị nhàm chán. + Tăng cường các bài tập giải phương trình bậc nhất, bậc hai cách biến đổi cách rút gọn để đưa vế phương trình bậc nhất bậc hai. + Sử dụng các dạng bài tập phân mịn hơn, chi tiết hơn. Ví dụ đối với các bài toán giải phương trình bậc nhất phải bắt đầu từ những bài đơn giản như: Dạng 1 1) 3x - 21 = 0 ; 2) 3x – 7 = 2x – 3 ; 3) 5x + 5 = 2x + 3 ; 4) - 4x + 5 = - 5x + 6; 5) 8x – 3 = 5x + 12;6) x + 1 = 2( x + 7); 7) 9x – 11 = 13 - 3x ; 8) 8x2 – 4x = 0; 8) (x - 2x + 1) – 4 = 0 9) 2x(x - 3) + 6(x - 3) = 0; Dạng 2 1);2); 3); 4) 5); 6) ; Đối với dạng 1 cần cho các em xác định được vai trò của nghiệm trong bài Toán, cách tìm ra sao? Một khi các em đã làm tốt rồi thì chuyển sang dạng 2, yêu cầu các em xác định thành phần cũng như quan hệ của các phân thức, quy đồng các mẫu thức trong bài toán rồi mới thực hiện giải phương trình. d.Giúp đỡ học sinh về thái độ và phương pháp học tập. Người giáo viên cần tìm hiểu, phân tích, tìm ra nguyên nhân học yếu của từng học sinh để có biện pháp khắc phục hợp lý và hiệu quả, kiên trì động viên học sinh, giúp đỡ các em từng bước có niềm tin vào mình, từ đó có thái độ và phương pháp học tập đúng. Cần cung cấp cho học sinh các kiến thức sơ đẳng về cách thức học tập như phải nắm vững lý thuyết mới tiến hành làm bài tập, cần phải đọc kỹ đề bài, phân tích các yêu cầu của bài toán. Đối với hình học phải vẽ hình sáng sủa, đúng và rõ ràng. Phải nắm được các định nghĩa, tính chất, định lý liên quan đến bài tập đó, phải biết được đâu là giả thiết, đâu là kết luận. Thì mới tìm ra cách làm. Đối với số học hay đại số, phải nắm được công thức, quy tắc tính toán. Khi làm bài phải làm nháp, viết nháp rõ ràng. Đây là điều mà đa số học sinh yếu không bao giờ thực hiện. Bên cạnh đó người giáo viên cần chú trọng dạy cho học sinh biết rèn luyện tính tự giác học tập. Đó là việc tự học ở nhà. Thực chất việc rèn luyện phương pháp tự học cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Theo giáo sư Nguyễn Hải Châu (vụ giáo dục trung học) thì :“Trong các phương pháp học tập mang lại hiệu quả cao thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho học sinh được phương pháp, kỹ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho học sinh lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có của mỗi học sinh, kết quả học tập sẽ tăng lên gấp bội, tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang học tập chủ động.” Vì vậy rèn luyện phương pháp tự học cho học sinh được coi là một tiêu chí quan trọng và cần thiết để khắc phục tình trạng học sinh học yếu, không chỉ là môn Toán mà là tất cả các môn học. e.Tích cực hoá hoạt động nhóm. Phương pháp dạy học theo nhóm là một trong những phương pháp mới, giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ băn khoăn kinh nghiệm của bản thân và cùng nhau xây dựng kiến thức mới. Bằng cách thảo luận, học sinh có thể nói ra điều mình đang nghĩ, từ đó mỗi học sinh nhận thức rõ được trình độ hiểu biết của mình về vấn đề được nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Trong phương pháp này, thành công của bài học phụ thuộc vào sự tham gia nhiệt tình của các thành viên, nó là bước trung gian giữa sự làm việc độc lập của từng học sinh với sự làm việc chung của cả nhóm. Khi phân nhóm học tập, giáo viên cần chú ý đến sự đồng bộ giữa các nhóm phải có đủ các đối tượng học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu để các em có thể pháp huy hết năng lực của bản thân mình. Sự phân nhóm không nên cứng nhắc, không phải lúc nào cũng là chia theo bàn mà cũng có khi để các em tự chọn nhóm học tập cho mình. Sau mỗi nội dung đã giảng giải, thông qua các kiến thức đã cung cấp, giáo viên có thể định hướng cho học sinh cách giải quyết vấn đề cần thảo luận, cần thực hành hay tính toán. Tôi nhận thấy theo phương pháp này, học sinh được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó học sinh sẽ tự khám phá được những điều mình chưa rõ mà không phải thụ động tiếp thu những tri thức do giáo viên sắp đặt. Hơn nữa, được trực tiếp thảo luận, học sinh sẽ nắm được kiến thức mới, kỹ năng mới. Tuy nhiên cần tránh khuynh hướng hình thức và đề phòng lạm dụng, cho rằng tổ chức hoạt động nhóm là dấu hiệu tiêu biểu nhất của đổi mới phương pháp dạy học, hoạt động nhóm càng nhiều thì phương pháp dạy học càng đổi mới là sai lầm. Theo tôi để đạt hiệu quả cao trong hoạt động nhóm thì phương tiện nhất thiết phải có là bảng phụ nhóm. Vì qua đó, học sinh được theo dõi một cách trực tiếp, được đóng góp ý kiến và công sức của mình vào bài tập của nhóm mình từ đó các em sẽ có hứng thú học tập. Khi báo cáo kết quả của nhóm, giáo viên nên khuyến khích các em mà có lực học yếu hơn mà đã nắm được vấn đề mà gọi lên trình bày chứ không nhất thiết phải là em nhóm trưởng. f.Giúp đỡ học sinh yếu ngoài giờ lên lớp. Giáo viên nên chủ động gặp từng phụ huynh để trao đổi về việc học của học sinh, cùng với phụ huynh tìm ra giải pháp tối ưu nhất để giúp các em tiến bộ. Kinh nghiệm cho thấy, càng cá nhân hoá triệt để càng tốt, giáo viên làm việc với nhóm độ 1- 2 học sinh thì hiệu quả cao hơn với số lượng đông. Tôi nhận thấy học sinh càng yếu thì phải có hướng giúp đỡ càng nhiều. Ngoài giờ dạy trên lớp giáo viên phải dành riêng thời gian để quan tâm đến đối tượng học sinh yếu bằng cách dạy phụ đạo riêng. Nếu có nhiều học sinh yếu thì có thể phân công các em khá, giỏi trong lớp có trách nhiệm giúp đỡ bạn yếu bằng hình thức khuyến khích các em thực hiện tốt phong trào học tập chung của cả lớp nhưng giáo viên vẫn phải quan tâm đến những học sinh yếu này để giúp các em ngày càng tiến bộ. g.Kết quả đạt được. Bằng việc áp dụng các giảp pháp để bồi dưỡng học sinh yếu kém đã trình bày trên đây, kết hợp với phương pháp dạy học mới, cùng với sự nổ lực của thầy và trò, chất lượng môn Toán của các lớp 10A4 – 10A6 ở trường THPT Trường Chinh đã có sự chuyển biến rất khả quan. Điều đó thể hiện qua bảng khảo sát sau: Điểm thi môn Toán học kỳ 1 năm học 2010 -2011 Lớp Sĩ số Điểm >=8 Trên TB Dưới TB Điểm <2.5 SL TL% SL TL% SL

File đính kèm:

  • docskkn 2010-2011.doc
  • docBIA SKKN 2010-2011.doc