ác giải pháp:
Bộ môn công nghệ cũng là bộ môn mới (dựa trên cơ sở môn kỹ thuật), chúng ta phải thực hiện như thế nào? để bộ môn công nghệ thực sự bổ ích, lý thú, học sinh học, học tập có chất lượng. Giáo viên phải lên kế hoạch, có tổ chức, có mục đích, có kiến thức chuyên môn, không ngừng tìm hiểu, học hỏi trau dồi trình độ chuyên môn nhằm góp phần nâng cao chất lượng về trí dục cũng như đức dục và nhân cách phẩm chất, tay nghề cho học sinh.
Những bài thực hành rất cần để giúp các em hiểu biết sâu hơn về bài học, nắm chắc hơn về kiến thức lý thuyết cũng như tay nghề. Phương pháp của tôi là truyền đạt chắc kiến thức cho học sinh và cho học sinh phát huy tính sáng tạo thực hành thành thạo.
Có thể chia nhỏ lớp học thành nhiều nhóm nhưng phải đảm bảo được học sinh nào cũng nắm được kiến thức, cũng được thực hành.
Giáo viên chỉ hướng dẫn những phần nguy hiểm và công tác chuẩn bị những yêu cầu của tiết thực hành để tránh gây ra tai nạn, khi học sinh sáng tạo thực hành giáo viên đi tầng nhóm kiểm tra uốn nắn sửa chữa.
Giáo viên nên phát huy khả năng tự học, sáng tạo của học sinh, theo kiểu học sinh chuẩn bị bài đầy đủ ở nhà.
Bài học thực hành của các em đạt kết quả cao giáo viên phải giao nhiệm vụ và công việc của buổi (tiết) thực hành cho từng học sinh thật cụ thể, giáo viên hướng dẫn ban đầu, hướng dẫn thường xuyên và kết thúc.
22 trang |
Chia sẻ: trangtt2 | Ngày: 04/07/2022 | Lượt xem: 256 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Những thay đổi quy ước ký hiệu và phương pháp dạy học môn Công nghệ công nghiệp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A- Đặt vấn đề
I/. Lời nói đầu:
Khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, ngày càng có những thiết bị mới lạ ra đời bên cạnh đó là sự cải cách giáo dục đã tiếp cận với sự phát triển của khoa học kỹ thuật.
Vậy ở trường trung học cơ sở giáo viên dạy môn công nghệ phải làm gì để các em học sinh cảm nhận được sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật đó.
Để góp phần đưa chiến lược phát triển giáo dục đào tạo đạt kết quả cao trước yêu cầu ngày càng cao của khoa học kỹ thuật, của nền kinh tế xã hội. Để làm được điều đó vấn đề giáo dục phải được đặt lên hàng đầu trên, trên cơ sở phát huy sức mạnh của cải cách giáo dục. Giáo viên dạy môn Công nghệ và dạy thực hành nghề đó là tri thức, kỹ năng thực hành nghề, nghiệp vụ sư phạm và khả năng tiếp cận với những vấn đề mới của khoa học kỹ thuật.
Hành trang của chúng ta ở thế kỷ 21 là kiến thức và sức mạnh, chúng ta phải học tập, rèn luyện và truyền đạt, hình thành cho học sinh có những kiến thức vững chắc, một sức mạnh tự tin để bước vào cuộc sống, khơi dạy cho học sinh sự sáng tạo, tìm tòi để các em tập làm nhà khoa học. Thực tiễn công tác giáo dục dạy và học nhất là dạy thực hành môn công nghệ đạt kết quả cao thiết nghĩ chúng ta phải xem nó là một lĩnh vực khoa học thực sự, đòi hỏi chúng ta phải đi sâu nghiên cứu tìm hiểu một cách nghiêm túc để tránh sự ngụy biện, hình thức tuỳ tiện của một số người thường nghĩ và thực hiện đối với bộ môn. Người giáo viên phải có kỷ cương tình thương và trách nhiệm.
Trong khuôn khổ đề tài này tôi muốn đưa ra những vấn đề:
"Đề cập những thay đổi quy ước ký hiệu
và phương pháp dạy học môn công nghẹ công nghiệp
Môn công nghệ là môn khoa học thực nghiệm, chương trình được gắn liền giữa lý thuyết và thực hành.
Để góp phần vào sự nghiệp giáo dục xây dựng đất nước công nghiệp hoá - hiện đại hoá chúng ta phải giáo dục cho học sinh hiểu rõ và nắm chắc các môn học. Bộ môn kỹ thuật trước kia, nay cải cách gọi là môn Công Nghệ, đối với học sinh và một số đồng nghiệp cho rằng nó là môn học phụ. Nhưng nếu chúng ta là những người trực tiếp giảng dạy sẽ thấy được sự sinh động, hấp dẫn và cần thiết đối với học sinh ở độ tuổi trung học. Nó tác động tích cực của ngoại lực chính là yêu cầu điều kiện toàn xã hội với nền giáo dục và để bổ trợ tốt khi học các môn học khác trong đó có đào tạo nghề áp dụng trong cuộc sống hàng ngày.
Hoạt động dạy và học là hoạt động mang tính nghệ thuật hai hoạt động này độc lập nhau nhưng lại có chung một đích, có mối quan hệ khăng khít không thể trách rời nhau và luôn là đối tượng của nhau, mặt khác tính thể hiện nghệ thuật cũng khác nhau.
II/. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
1/. Thực trạng:
Trong quá trình giảng dạy, nghiên cứu và khảo sát thực tế tôi thấy có rất nhiều những trường, giáo viên chưa chịu khó tìm tòi, chịu khó nghiên cứu để tích hợp kiến thức tìm ra phương pháp để dạy một tiết lý thuyết hay thực hành môn công nghệ đạt kết quả cao. Chúng ta tổ chức một tiết dạy một cách đầy đủ về mọi mặt giáo án cũng như giáo cụ, đúng kiến thức, đúng trọng tâm, chính xác khoa học, đúng, biết tích hợp những quy định cũ và mở rộng thêm kiến thức mới để học sử dụng tốt hơn.
Ví dụ: Trong bài sơ đồ điện SGK không đưa ra ký hiệu quy ước của áp tô mát mà giáo viên không mở rộng cho học sinh thò khi thiết kế mạch điện, vẽ sơ đồ học sinh sẽ rất khó khăn.
Để khắc được điều này đòi hỏi người thầy không chỉ biết về kiến thức chuyên môn mà còn phải biết cách thực hiện tiết dạy, bài dạy, biết lòng ghép kiến thức và những thay đổi xưa và nayđể học sinh nắm chắc được kiến thức và biết sử dụng(nhất là những tiết thực hành) nếu thầy không làm được mẫu thì làm sao trò có thể biết được, vì học sinh làm thực hành có thể là bắt chước quan sát sao chép, có thể là tự làm được, có thể là biến hoá thuần thục. Nhưng theo tôi nghĩ để đạt được thành quả của vấn đề chúng ta không xem nhẹ lý thuyết đi sâu vào thực hành, học bài nào tất cả học sinh nắm được thực hành cũng như cách làm phần ấy. Thì chúng ta đem lại kết quả cao, nếu không học sinh, học đến đâu quên đến đấy và làm cho các em chán môn học theo kiểu mất gốc.
2/. Kết quả - hiệu quả của thực trạng:
Bên cạnh những khó khăn bất cập như trình độ tiếp thu của học sinh, điều kiện cơ sở vật chất thiếu thốn, hạn hẹp về thiết bị, phòng xưởng thực hành không có Nếu chúng ta phó mặc cho thời gian trôi theo kiểu "sống chết mặc bay", không thường xuyên cập nhật kiến thức khoa học kỹ thuật, không thường xuyên tìm tòi, học hỏi đưa nhiều những phương pháp dạy học mới để thay đổi sự tiếp thu, tư duy sáng tạo của học sinh thì kết quả của thực trạng thật đáng buồn. không vẽ được các quy ước ký hiệu thiết bị, đồ dùng điện trên bản vẽ; không thiết kế được mạch điện, có chăng thì theo những kiến thức và quy ước cũv.vthì quả là uổng phí.
Từ những điều đáng buồn trên có thể xảy ra, ta hãy suy nghĩ cùng đưa ra các biện pháp để dạy bài Sơ đồ điện để học sinh khi thiết kế mạch điện và vẽ sơ đồ điện được thành thạo.
B- Giải quyết vấn đề
I/. Các giải pháp:
Bộ môn công nghệ cũng là bộ môn mới (dựa trên cơ sở môn kỹ thuật), chúng ta phải thực hiện như thế nào? để bộ môn công nghệ thực sự bổ ích, lý thú, học sinh học, học tập có chất lượng. Giáo viên phải lên kế hoạch, có tổ chức, có mục đích, có kiến thức chuyên môn, không ngừng tìm hiểu, học hỏi trau dồi trình độ chuyên môn nhằm góp phần nâng cao chất lượng về trí dục cũng như đức dục và nhân cách phẩm chất, tay nghề cho học sinh.
Những bài thực hành rất cần để giúp các em hiểu biết sâu hơn về bài học, nắm chắc hơn về kiến thức lý thuyết cũng như tay nghề. Phương pháp của tôi là truyền đạt chắc kiến thức cho học sinh và cho học sinh phát huy tính sáng tạo thực hành thành thạo.
Có thể chia nhỏ lớp học thành nhiều nhóm nhưng phải đảm bảo được học sinh nào cũng nắm được kiến thức, cũng được thực hành.
Giáo viên chỉ hướng dẫn những phần nguy hiểm và công tác chuẩn bị những yêu cầu của tiết thực hành để tránh gây ra tai nạn, khi học sinh sáng tạo thực hành giáo viên đi tầng nhóm kiểm tra uốn nắn sửa chữa.
Giáo viên nên phát huy khả năng tự học, sáng tạo của học sinh, theo kiểu học sinh chuẩn bị bài đầy đủ ở nhà.
Bài học thực hành của các em đạt kết quả cao giáo viên phải giao nhiệm vụ và công việc của buổi (tiết) thực hành cho từng học sinh thật cụ thể, giáo viên hướng dẫn ban đầu, hướng dẫn thường xuyên và kết thúc.
II. Các biện pháp tổ chức thực hiện
Giáo viên càn cải tiến cách dạy, cách thực hiện bài dạy, phương pháp truyền đạt theo hướng tích cực, chủ động, độc lập sáng tạo của học sinh trong quá trình nhận thức. Giáo viên cần giúp học sinh thấy được vị trí, ý nghĩa của môn học, bài học trong thực tiễn, ứng dụng trong cuộc sống. Cần tổ chức chỉ đạo, kiểm tra thường xuyên tính tự học của học sinh, Giáo viên cần bồi dưỡng cho học sinh cách tự học, tự thực hành đảm bảo an toàn lao động theo các bài qua phần cụ thể.
1/. Về kỹ năng
- Kỹ năng là thói quen áp dụng thành thạo vào thực tiễn những kiến thức đã học hoặc những kết quả của một quá trình luyện tập.
- Kỹ năng là khả năng thực hiện thành công một loại công việc trên cơ sở nắm vững lý thuyết .
Vậy Kỹ năng dạy thực hành
- Kỹ năng dạy thực hành là khả năng tổ chức giờ học thực hành thành công cho học sinh. Vậy để lập được kế hoạch một bài dạy thực hành cần phải căn cứ vào những gì? Đó là: Chương trình môn học (Phân phối chương trình và nội dung bài học), mối quan hệ với các bài khác, các quy ước công nghệ trước kia và bây giờ.
Đặc điểm của người học, môi trường và nguồn lực để thực hiện (điều kiện thực tế của trường và địa phương).
Trong giảng bài giáo viên cần tạo ra khoảng trống để học sinh bổ sung, hoàn thiện. Tạo ra các tình huống, những bài tập có thể thường xảy ra trong thực tế để học sinh có thể nắm bắt vấn đề và nội dung kiến thức nhanh hơn.
Tạo ra không khí thoải mái, điều kiện thuận lợi cho việc dạy và học, cung cấp đầy đủ kiến thức liên quan giữa các môn học và trong thực tế, tăng cường hoạt động ngoại khoá trong chương trình học để giúp học sinh liên hệ khoa học và đời sống, mở rộng kiến thức.
Giáo viên cần khuyến khích tuyên dương những thành quả việc tự học của học sinh, hướng dẫn các tiều liệu để học sinh đọc tham khảo.
Đẩy mạnh tích cực học theo nhóm, đánh giá theo nhóm, thi đua theo nhóm
Yêu cầu học sinh tự học nắm chắc kiến thức lý thuyết, chuẩn bị tốt cho tiết thực hành
ứng dụng phương pháp chắc lý thuyết vững thực hành tôi nghĩ nó sẽ giúp cho học sinh nắm rất chắc kiến thức của bài học và giúp cho các em thành thạo hơn, lành nghề hơn. Có những bài liên quan tôi lại tiếp tục vận dụng và liên hệ để các em tư duy sáng tạo. Ví dụ như trong thiết kế lắp ráp mạch điện. Tôi đưa ra một số ví dụ cụ thể ở của bài sau để minh chứng:
a/. Ký hiệu quy ước trong sơ đồ điện bổ sung.
Tên gọi
Ký hiệu
Tên gọi
Ký hiệu
áp tô mát 1pha và 3 pha
Hộp số quạt trần
Máy biến áp
Công tắc 4 cực
Đèn com pác
Một số quy ước ký hiệu thay đổi
Tên gọi
Ký hiệu trước kia
Tên gọi
Ký hiệu bây giờ
Hai dây dẫn chéo nhau
Hai dây dẫn chéo nhau
Hai dây dẫn nối nhau
Hai dây dẫn nối nhau
b- Sử dụng đồ dùng trong giảng dạy
Chất lượng giáo dục đang là một đề tài thường xuyên của thông tin đại chúng vậy chúng ta phải làm gì để có thể nâng cao chất lượng đào trong các nhà trường lên một tầm cao.
Để tránh những thực trạng đáng tiếc xay ra nêu trên về chất lượng dạy và học, tôi đưa ra các giải pháp về phương pháp dạy học. Với cải cách về nội dung sách giáo khoa, đổi mới phương pháp dạy học có rất nhiều phương pháp, nhưng tôi tâm đắc nhất phương pháp trực quan và thực nghiệm.
Có câu:
“Tôi nghe - Tôi quên
Tôi nhìn - tôi nhớ
Tôi làm - tôi biết”.
Lê Nin đã nói “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của sự nhận thứcchân lý, nhận thức thực tại khách quan”
Theo quan điểm này, trực quan là xuất phát điểm của nhận thức, tức trực quan là nguồn cung cấp tri thức. Sự trực quan sinh động được dặc trưng bởi quá trình tâm lý: cảm giác, tri giác, biểu tượng và các quá trình tình cảm, ý chí.
Để nhận thức được cái bản chất của sự vật và hiện tượng, cần phải xử lý các thông tin (thu được nhờ quan sat) ở trong trí óc.
Theo mô hình truyền thông hai chiều dạy học, các giác quan thuộc kênh cảm giác ảnh hưởng lớn tới kết quả quá trình truyền thông.
Sự tiếp thu tri thức khi học chỉ đạt được:
- 1% qua nếm
- 1,5% qua sờ
- 3,5% qua ngửi
- 11% qua nghe
- 8,3% qua nhìn
Tỷ lệ thức nhớ được sau khi học đạt được:
- 20% qua Nghe được.
- 30% qua nhìn được
- 50% qua nghe và nhìn được
- 90% qua làm được
+/. Phương tiện dạy học là một tập hợp những đối tượng vật chất được giáo viên sử dụng tư cách là những phương tiện điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh.
Đối với học sinh, phương tiện còn là nguồn tri thức phong phú để lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng.
+/. Vai trò của phương tiện dạy học có thể cung cấp cho học sinh các kiến thức một cách chắc chắn và chính xác, như vậy nguồn tin họ thu nhận được trở nên đáng tin cậy và được nhớ lâu bền hơn.
Làm cho việc dạy học trở nên cụ thể hơn, vì vậy tăng thêm khả năng của học sinh tiếp thu những sự vật, hiện tượng và các quá trình phức tạp mà bình thường học sinh khó nắm vững được.
Rút ngắn thời gian giảng dạy mà việc lĩnh hội kiến thức của học sinh lại nhanh hơn.
Giải phóng người thầy khỏi một khối lượng lớn các công việc tay chân, do đó làm tăng khả năng nâng cao chất lượng dạy học.
Dễ dàng gây được cảm tình và sự chú ý của học sinh
Bằng việc sử dụng phương tiện dạy học, giáo viên có thể kiểm tra một cách khách quan khả năng tiếp thu kiến thức cũng như hình thành kỹ năng, kỹ xảo của học sinh.
+/. Bộ môn công nghệ cũng là bộ môn mới chúng ta phải thực hiện như thế nào? Để bộ môn công nghệ thực sự bổ ích, lý thú, học sinh học, học tập có chất lượng. Giáo viên phải lên kế hoạch sử dụng phương tiện gì, giáo cụ noà, tổ chức làm sao, có mục đích, có kiến thức chuyên môn, không ngừng tìm hiểu, học hỏi trau dồi trình độ chuyên môn nhằm góp phần nâng cao chất lượng về trí dục cũng như đức dục và nhân cách phẩm chất, tay nghề cho học sinh.
Những bài thực hành rất cần để giúp các em hiểu biết sâu hơn về bài học, nắm chắc hơn về kiến thức lý thuyết cũng như tay nghề. Phương pháp của tôi là hướng dẫn mẫu qua các thông tin để học sinh bắt chước, truyền đạt chắc kiến thức cho học sinh và cho học sinh phát huy tính sáng tạo thực hành thành thạo.
Có thể chia nhỏ lớp học thành nhiều nhóm nhưng phải đảm bảo được học sinh nào cũng nắm được kiến thức, cũng được thực hành.
Giáo viên chỉ hướng dẫn những phần nguy hiểm và công tác chuẩn bị những yêu cầu của tiết thực hành để tránh gây ra tai nạn, khi học sinh sáng tạo thực hành giáo viên đi tầng nhóm kiểm tra uốn nắn sửa chữa.
Giáo viên nên phát huy khả năng tự học, sáng tạo của học sinh, theo kiểu học sinh chuẩn bị bài đầy đủ ở nhà.
Bài học thực hành của các em đạt kết quả cao giáo viên phải giao nhiệm vụ và công việc của buổi (tiết) thực hành cho từng học sinh thật cụ thể, giáo viên hướng dẫn ban đầu, hướng dẫn thường xuyên và kết thúc.
2. Các biện pháp tổ chức thực hiện khi dạy phương pháp trực quan
áp dung phương tiện dạy học, giáo cụ trực quan truyền đạt theo hướng tích cực, chủ động, độc lập sáng tạo của học sinh trong quá trình nhận thức. Giáo viên cần giúp học sinh thấy được vị trí, ý nghĩa của sản phẩm. Cần tổ chức chỉ đạo, kiểm tra thường xuyên tính tự học của học sinh, Giáo viên cần bồi dưỡng cho học sinh cách tự học, tự thực hành đảm bảo an toàn lao động theo các bài qua phần cụ thể.
a/. Về kỹ năng
- Sử dụng phương tiện dạy học trực quan có nghĩa là trình bày phương tiện vào lúc cần thiết, lúc học sinh mong muốn nhất được quan sát, gợi nhớ trong trạng thái tâm sinh lý thuận lợi nhất.
- Sử dụng phương tiện dạy học đúng chỗ tức là tìm vị trí để giới thiệu phương tiện trên lớp học hợp lý nhất, giúp cho học sinh có thể sử dụng nhiều giác quan nhất để tiếp xúc với phương tiện một cách đồng đều ở mọi vị trí trong lớp.
- Sử dụng phương tiện dạy học áp dụng thành thạo vào thực tiễn những kiến thức đã học hoặc những kết quả của một quá trình luyện tập.
Khi giảng bài giáo viên cần tạo ra khoảng trống để học sinh bổ sung, hoàn thiện. Tạo ra các tình huống, những bài tập có thể thường xảy ra trong thực tế để học sinh có thể nắm bắt vấn đề và nội dung kiến thức nhanh hơn.
Luôn tạo không khí thoải mái, điều kiện thuận lợi cho việc dạy và học, cung cấp đầy đủ kiến thức liên quan giữa các môn học và trong thực tế, tăng cường hoạt đông ngoại khoá trong chương trình học để giúp học sinh liên hệ khoa học và đời sống, mở rộng kiến thức.
Giáo viên cần khuyến khích tuyên dương những thành quả việc tự học của học sinh, hướng dẫn các tiều liệu để học sinh đọc tham khảo.
Đẩy mạnh tích cực học theo nhóm, đánh giá theo nhóm, thi đua theo nhóm
Yêu cầu học sinh tự học nắm chắc kiến thức lý thuyết, chuẩn bị tốt cho tiết thực hành.
Học sinh tiếp thu kiến thức về những dấu hiệu đặc trưng trong quá trình phân tích các hiện tượng kỹ thuật và các vật phẩm kỹ thuật nhờ sự tích luỹ dần kinh nghiệm trong qua strình quan sát các sự vật hiện tượng tự nhiên hay các phương tiện trực quan do giáo viên phụ trách biểu diễn. Trong dạy học Công nghệ, muốn cho học sinh hình thành được những khái niệm kỹ thuật hay cấu tạo cuả một vật phẩm kỹ thuật thì cần phải tạo điều kiện để các em có được những biểu tượng rõ ràng, chính xác về các sự vật và hiện tượng cần nghiên cứu. Trên cơ sở những biểu tượng đó bằng những câu hỏi định hướnghợp lý, giáo viên hướng dẫn để học sinh phân tích phát hiện những dấu hiệu chung, bản chất cảu các sự vật, hiên tượng đó.
Sử dụng trực quan để hình thành khái niệm kỹ thuật và cấu tạo của vật phẩm được tiến hành theo các bước sau:
- Giới thiệu khái quát về vật thể trực quan.
- Giải thích mục đích quan sát, hướng dẫn trọng tâm, liêtk kê các dấu hiệu.
- Hướng dẫn thực hiện các thao tác phân tích, tổng hợp, so sánh và khái quát hoá để rút ra dấu hiệu chung, bản chất.
- Tổng kết sự phân tích rút ra kết luận.
Tiến trình này ta có thực hiên theo sơ đồ sau:
Các dấu hiệu chung, bản chất
Hình thành khái niệm, cấu tạo của vật thể
Giáo viên
Học sinh
Vật thể tực quan 1
Vật thể tực quan 2
Quan sát, nhận xét, liệt kê các dấu hiệu
Hướng dẫn
Vật thể tực quan 3
Phân tích
So sánh
Khái quát hoá
b. Yêu cầu của sử dụng phương tiện
Tác dụng của các phương tiện trực quan trong dạy học môn công nghệ là rất lớn. Tuy nhiên việc sử dụng chúng trong dạy học phải đảm bảo những yêu cầu nghiêm ngặt nếu không, tác dụng của chúng lại diễn ra theo chiều ngược lại. Chẳng hạn sử dụng các phương tiện trực quan vào lúc nàolà phù hợp, số lượng bao nhiêu là vừa phải. Nếu đầu giờ dạy đã treu tất cả các tranh giáo khoa phục vụ toàn bài, trong đó nhiều tranh in đẹp, màu sắc sặc sỡ ... thì sẽ làm học sinh phân tanswj chú ý bài giảng. Vì vậy khi dạy tới phần nào, thì sử dụng tranh phần đó, giảng xong phải cất đi. Chỉ khi hệ thống hoá cuối giờ mới cần treo tất cả các tranh minh hoạ. Với những tranh vẽ xấu, cẩu thả, thậm chí sai bản chất khoa học, nếu đưa ra sẽ rất có hại cho việc tiếp thu kiến thức và hại cả cho việc giáo dục học sinh. Do đó dfdối với các phương tiện trực quan đưa ra biểu diễn phải có những yêu cầu nhất định và việc sử dụng chúng cũng phải đảm bảo yêu cầu sư phạm.
+/. Tính khoa học sư phạm
Phương tiện dạy học phải đảm bảo cho học sinh tiếp thu được các kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp tương xứng với chương trình học, giúp cho giáo viên truyền đạt cho học sinh các kiến thức phức tạp, kỹ xảo tay nghề một cách thuận lợi, làm cho họ phát triển khả năng nhận thức và tư duy logic.
Nội dung và cấu tạo của phương tiện dạy học phải đảm bảo các đặc trưng của việc dạy lý thuyết, thực hành và các nguyên lý sư phạm cơ bản.
Phương tiện dạy học phải phù hợp với nhiệm vụ sư phạm và phương pháp giảng dạy, thúc đẩy khả năng tiếp thu của học sinh
Các phương tiện dạy học, tập hợp thành bộ phải có mối liên hệ chặt chẽ về nội dung, bố cục và hình thức trong đó mỗi loại trong một bộ phải có vai trò và chỗ đứng riêng.
Phương tiện dạy học phải thúc đẩy công việc cho học sinh và đưa ra tiêu chí đánh giá.
+/. Những yêu cầu đối với phương tiện trực quan:
- Phái phù hợp với mục đích nội dung bài dạy.
- Phải phù hợp với khả năng lĩnh hội của học sinh, không nên dùng các tranh quá phức tạp.
- Không được phản ánh sai bản chất khoa học, kỹ thuật.
- Phải Phải được chế tạo theo đúng quy cách tiêu chuẩn kỹ thuật, nhất là các bản vẽ kỹ thuật.
- Phải đủ lớn đủ rõ để dảm bảo cho tất cả quan sát được.
- Phải đơn giản dễ sử dụng, không chiếm mất nhiều thời gian khi sử dụng.
- Phải đảm bảo tính mỹ thuật.
+/. Những yêu cầu sử dụng phương tiên trực quan:
Khi sử dụng các phương tiện trực quan khác nhau trên lớp, giáo viên cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Biểu diễn phương tiên trực quan đúng lúc, đúng chỗ, dùng đến đâu đưa ra đến đó.
- Sử dụng số lượng trực quan vừa phải, dùng quá nhiều dẫn đến ức chế tư duy học sinh. Nên kết hợp các loại trực quan với nhau, Ví dụ tranh và vật thật,
- Việc biểu diễn phương tiện trực quan phải tiến hành thong thả, theo một trình tự nhất định, vừa biểu diễn vừa hướng dẫn học sinh quan sát, nhất là quan sát nỡiaỷ ra hiện tượng chính. Việc hướng dẫn quan sát tốt nhất là nêu ra các câu hỏi, trả lời được câu hỏi đó, đòi hỏi học sinh phải chú ý theo dõi, nhận xét.
c/. Cách thực hiện.
Giáo viên sử dụng nhiều phương pháp dạy học phối hợp làm tăng tính tích cực, độc lập, tự giác, sáng tạo của học sinh.
Trình bày kiến thức lý thuyết có liên qua đến bài tập: Phối hợp các phương pháp dạy học đàm thoại, trực quan, giảng giải, thảo luận, tích cực, đặt vấn đề ....
Giáo viên có thể thực hiện dạy học bằng phương pháp trực quan cho các phần trong bài học như: “Khái niện”; “Cấu tạo”; “Nguyên lý làm việc”...
Cấu trúc chung của bài dạy thực hành:
Bài dạy thực hành gồm có 4 phần chính
Mục tiêu bài học.
Nội dung chuẩn bị.
Phương pháp dạy học.
Các hoạt động dạy-học (Tiến trình dạy-học).
Trong đào tạo nghề thì người ta chia ra làm nhiều loại bài thực hành đó là:
+ Bài học có tính chất luyện (Thao tác, nguyên công cơ bản)
+ Bài học có tính chất sản xuất (Thực tập kết hợp với thực tập sản xuất) nâng cao củng cố các thao tác ở bài tập
+ Bài tập sản xuất (đi sản xuất, bài tập tạo ra sản phẩm, làm quen với lao động sản xuất ngoài xã hội)
+ Bài tập riêng. (Hướng vào luyện tập những mặt mạnh, yếu của từng học sinh hay thực hiện bài tập bổ trợ trước khi vào bài tập chính thức)
ở đây đối với học sinh ở bậc THCS thì việc thực hành của các em là chủ yếu nên chúng ta cần áp dụng cả dạng trên, còn đối với học sinh lớp 8 các em không được rèn luyện về thực hành nhiều nên chúng ta chỉ sử dụng dạng thứ nhất và dạng thứ hai
Phần I: Mục tiêu bài học
Mục tiêu bài dạy là tuyên bố về những gì học sinh phải hiểu rõ, phải nắm vững, phải làm được sau bài học.
Mục tiêu của bài dạy thực hành gồm 3 phần:
- Kiến thức: (Phát triển tư duy kỹ thuật).
- Kỹ năng (Hình thành kỹ năng kỹ xảo qua bài thực hành).
- Thái độ: (Có tác phong lao động công nghiệp và định hướng nghề).
Với bài dạy thực hành thì mục tiêu kỹ năng được đặt lên hàng đầu. Còn đối với bài lý thuyết thì thì mục tiêu kiến thức được chú trọng hơn.
Nhiều giáo viên muốn dạy thật tốt nhưng họ không có tư tưởng rõ ràng về cái đích của bài dạy. Kết quả cuối giờ thực hành có học sinh thực hiện được học sinh thì không thực hiện được. Như có triết gia nói:
“Nếu không biết mình đi đâu, làm sao biết được là mình đã đến đích”.
Vậy để đặt được mục tiêu của bài dạy thực hành chúng ta cần phải nắm vững các mức độ khác nhau của việc thực hành kỹ năng.
Theo Harrow có 5 mức độ hình thành kỹ năng đó là:
Trình độ
Định nghĩa
1. Bắt chước
Quan sát và sao chép rập khuôn
2. Làm được
Quan sát và thực hiện được những hướng dẫn (Kỹ năng)
3. Làm chính xác
Quan sát và làm việc một cách chính xác như hướng dẫn
4. Làm biến hoá
Thực hiện kỹ năng trong các hoàn cảch và tình huống khác nhau
5. Làm thuần thục
Đạt trình độ cao về tốc độ và sự chính xác, ít cần sự can thiệp của ý thức
Căn cứ vào các mức độ hình thành kỹ năng trên mà người giáo viên áp dụng cho bài dạy của mình tuỳ thuộc vào khối, lớp học. đối với học sinh khối 6,7,8 thì chỉ cần đạt đến trình độ 2, nhưng đối với học sinh khối 9 ở những đối tượng học sinh khá có thể nâng đến trình độ 4, Trình độ 4 và trình độ 5 thường áp dụng cho các trường nghề.
Như vậy mục tiêu ở đây là mục tiêu mô tả sự thực hiện của học sinh, chứ không phải là sự thực hiện của giáo viên. Mục tiêu thực hiện bao giờ cũng bắt đầu bằng một động từ hành động do đó giáo viên cần cân nhắc và lựa chọn kỹ luỡng nên sử dụng động từ nào.
VD: Đối với bài thực hành : Truyền và biến đổi chuyển động lớp 8.
+ Kiến thức : Hiểu được cấu tạo và nguyên lí làm việc của một số bộ truyền và biến đổi chuyển động
+ Kỹ năng: Tháo, lắp được và tính được tỷ số truyền của các bộ truyền động.
+ Thái độ: Làm việc nghiêm túc, có tác phong làm việc đúng quy trình và có ý thức tìm hiểu kỹ thuật trong đời sống ,đảm bảo vệ sinh và an toàn lao động.
Phần II. Chuẩn bị
Phần này gồm có chuẩn bị nội dung và chuẩn bị phương tiện dụng cụ, vật liệu như trong bài học yêu cầu.
1. Chuẩn bị nội dung:
Gồm những kiến thức liên quan đến nội dung chính qua bài học. Phần này người giáo viên ngoài những kiến thức về lý thuyết của bài học còn phải có những kiến thức thực hành. Vì vậy trước khi hướng dẫn giáo viên phải tiến hành thực hành thử trước để có những kỹ năng về thao tác thuần thục từ đó định ra thời gian hoàn thành bài tập biết những nguyên nhân sai hỏng thường gặp trong quá trình thực hành để đưa ra những biện pháp khắc phục.
2. Chuẩn bị dụng cụ, vật liệu.
Gồm có sự chuẩn bị của giáo viên và của học sinh (Cho từng học sinh hoặc cho từng nhóm học sinh thực tập). Những dụng cụ, vật liệu, thiết bị ,vật mẫu và các tranh vẽ mà bài học yêu cầu.
3. Địa điểm thực hành
Đối với những trường có phòng học chuyên biệt thì có các phòng thực hành riêng cho các môn học, giờ học bài thực hành thì giáo viên nhắc học sinh làm việc tại phòng học quy định.
Đối với những trường chưa có phòng học chuyên biệt thì thực hành ngay tại lớp học.
VD : Đối với bài 5 SGK Công nghệ 9 “Thực hành nối dây dẫn điện”
a. Chuẩn bị nội dung:
Ngiên cứu SGK, SGV, các tài liệu có kiến thức liên quan như: Nghề điện dân dụng NXB GD, SGK Kỹ thuật lớp 9 cũ...
Nghiên cứu quy trình nối dây và các yêu cầu kỹ thuật của các mối nối
b. Chuẩn bị dụng cụ, vật liệu
Dụng cụ: Kìm tuốt dây, kìm mỏ nhọn, kìm tròn, tuavít, mỏ hàn.
Vật liệu: Dây dẫn điện lõi 1 sợi, giấy ráp, băng cách điện, nhựa thông, thiếc hàn.
Thiết bị: Phích cắm điện, công tắc điện, hộp nối dây.
Tranh vẽ quy trình nối dây.
- Địa điểm thực hành; Tại lớp học.
Phần III- Tiến trình dạy - học
Đây là phần thực hiện bài dạy thực hành ta có thể chia làm 3 gia đoạn chính
Hướng dẫn mở đầu
Hưỡng dẫn thường xuyên
Hướng dẫn kết thúc.
Để rõ hơn về hướng dẫn trước hết ta tìm hiểu khái niệm về hướng dẫn:
Hướng dẫn là sự chỉ bảo cách thức, hành động, thực hiện một công việc nhất định, một bài tập nhất định.
Việc hướng dẫn của giáo viên có tác dụng tích cực đến việc
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_nhung_thay_doi_quy_uoc_ky_hieu_va_phuo.doc