Sáng kiến kinh nghiệm Rèn luyện chữ viết cho học sinh THCS

 Chữ viết của học sinh hiện nay đang là vấn đề nan giải trong nhà trường. Thực tế cho thấy đa số học sinh viết chữ xấu, sai lỗi chính tả nhiều làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng học tập của các em. Đã không ít thầy cô giáo phải kêu lên: “Em viết tôi không thể nào đọc được”. Vì thế trong các kỳ thi, tỷ lệ môn Ngữ văn đạt yêu cầu thấp hơn các môn khác. Điều đó chứng tỏ yếu tố chữ viết có vai trò rất quan trọng và phần nào quyết định chất lượng học tập của các em. Đã có nhiều em nắm kiến thức tương đối tốt nhưng do chữ viết xấu, sai lỗi nhiều cho nên điểm không cao (thậm chí có khi không đạt yêu cầu ) và vì thế đã không ít trường hợp đáng tiếc xảy ra.

 Rồi thực tế ngoài xã hội nhiều người có học vấn, có bằng cấp hẳn hoi nhưng vẫn còn trường hợp chữ viết xấu khó đọc. Từ thực tế đó, là người làm công việc dạy chữ, tôi cảm thầy mình có một phần trách nhiệm trong đó. Mỗi khi chấm vở và chấm bài cho các em, tôi rất buồn cho nên tôi đã mạnh dạn đi vào vấn đề nan giải đang là mối lo cho nhiều nhà trường và xã hội. Tôi đã tiến hành tìm những biện pháp cụ thể, thích hợp để luyện chữ viết cho các em nhằm ngăn ngừa, uốn nắn và dần dần chấm dứt tình trạng viết chữ xấu và sai lỗi chính tả cho học sinh và bước đầu đã có hiệu quả.

 

doc13 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1921 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Rèn luyện chữ viết cho học sinh THCS, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A- Đặt vấn đề I. Lời mở đầu Chữ viết của học sinh hiện nay đang là vấn đề nan giải trong nhà trường. Thực tế cho thấy đa số học sinh viết chữ xấu, sai lỗi chính tả nhiều làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng học tập của các em. Đã không ít thầy cô giáo phải kêu lên: “Em viết tôi không thể nào đọc được”. Vì thế trong các kỳ thi, tỷ lệ môn Ngữ văn đạt yêu cầu thấp hơn các môn khác. Điều đó chứng tỏ yếu tố chữ viết có vai trò rất quan trọng và phần nào quyết định chất lượng học tập của các em. Đã có nhiều em nắm kiến thức tương đối tốt nhưng do chữ viết xấu, sai lỗi nhiều cho nên điểm không cao (thậm chí có khi không đạt yêu cầu… ) và vì thế đã không ít trường hợp đáng tiếc xảy ra. Rồi thực tế ngoài xã hội nhiều người có học vấn, có bằng cấp hẳn hoi nhưng vẫn còn trường hợp chữ viết xấu khó đọc. Từ thực tế đó, là người làm công việc dạy chữ, tôi cảm thầy mình có một phần trách nhiệm trong đó. Mỗi khi chấm vở và chấm bài cho các em, tôi rất buồn cho nên tôi đã mạnh dạn đi vào vấn đề nan giải đang là mối lo cho nhiều nhà trường và xã hội. Tôi đã tiến hành tìm những biện pháp cụ thể, thích hợp để luyện chữ viết cho các em nhằm ngăn ngừa, uốn nắn và dần dần chấm dứt tình trạng viết chữ xấu và sai lỗi chính tả cho học sinh và bước đầu đã có hiệu quả. II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 1. Thực trạng Như chúng ta đã biết, chữ viết của người được hình thành trong quá trình lâu dài dưới sự giảng dạy của nhà trường và sự rèn luyện của bản thân học sinh. Vì thế muốn khắc phục, uốn nắn và sửa chữa chữ viết cho học sinh phải kiên trì và chịu khó của cả hai phía: Người dạy và người học. Để khắc phục được tình trạng chữ viết xấu, sai lỗi chính tả không thể ngày một ngày hai mà làm được. Hơn thế nữa, muốn sửa được chữ viết cho các em, cần phải tìm nguyên nhân của chữ viết xấu, sai lỗi chính tả trên cơ sở đó, ta có thể tạm thời chia thành các lỗi sau: 1- Chữ viết cẩu thả, tuỳ tiện nó thường thể hiện ở chỗ các con chữ thường rúc vào nhau, gãy nát, mất nét không phân biệt được chữ (n) và chữ (u )hoặc chữ (h)và chữ (l) … rồi dấu câu đặt không đúng chỗ hoặc bỏ không đánh dấu… 2- Sai qui tắc chính tả như không viết hoa danh từ riêng địa danh hành chính, không viết hoa chữ cái đầu câu hay không phân biệt được khi nào viết (c), khi nào viết (k) hoặc hết một ý không biết xuống dòng, sau dấu chấm không viết hoa hoặc viết hoa tuỳ tiện bừa bãi… 3- Không hiểu rõ nghĩa dẫn đến lẫn lộn phụ âm đơn như l/n , s/x…lẫn lộn phụ âm ghép như ch/tr , ngh/ng … 4- Tiếng địa phương dẫn đến phát âm sai cho nên khi viết cũng bị sai. Ví dụ: phát âm sai: tru(trâu), ủi(ổi)... hoặc không phân biệt đúng dấu hỏi dấu ngã: suy nghỉ(suy nghĩ), chử viết (chữ viết)... Và còn nhiều nguyên nhân khác nữa dẫn đến hiên tượng chữ xấu và sai lỗi chính tả của học sinh. 2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên. Chính vì vậy, muốn khắc phục, uốn nắn chữ viết cho học sinh thật là khó khăn mà còn khó khăn hơn đối với cấp THCS vì trong chương trình không có những tiết luyện viết, lại mỗi môn một thầy dạy cho nên không có thời gian để sửa và luyện chữ cho học sinh và không quan sát thường xuyên liên tục chữ viết cho các em. Cho nên việc luyên chữ viết cho học sinh thật là khó khăn cho những thầy cô giáo chúng ta. Vì thế người giáo viên cần phải nhiệt tình, tận tâm, tận lực sửa chữa chữ viết cho học sinh trong từng tiết bài và kiểm tra đánh giá thường xuyên. Để thực hiện được ý định “ rèn luyện chữ viết cho học sinh THCS” của mình tôi đã vạch ra một số biện pháp cụ thể ngay từ đầu năm học khi bắt đầu nhập lớp. B- giải quyết vấn đề I. Các giải pháp thực hiện. 1. Kiểm tra, phân loại Vấn đề chữ viết xấu, sai lỗi chính tả không chỉ là mối lo chung của mọi người làm nghề dạy học. Việc dùng vở luyện viết cho học sinh lớp 6 là rất cần thiết. Tôi đã dựa vào vở luyện viết này mà uốn nắn, sửa chữa và luyện viết cho các em. Đồng thời tìm ra những biện pháp phù hợp đối với học sinh lớp tôi. Năm học 2007-2008 tôi được phân công dạy lớp 8A3, 8A4 với tổng số học sinh là 49 em. Vào đầu năm học , tôi đã tiến hành phân loại chữ viết cho học sinh và chia làm ba nhóm chính : Nhóm 1: Gồm những học sinh viết chữ đẹp , rõ ràng, không sai lỗi chính tả hoặc có một hai lỗi không đáng kể (có 10 em chiếm 20,4 %). Nhóm 2: Những em viết xấu, thiếu nét hoặc sai lỗi chính tả (có 25 em chiếm 51%) . Hầu hết trong nhóm này các em đều mắc phải một số lỗi cơ bản như chữ viết cẩu thả, tuỳ tiện, sai qui tắc chính tả và không hiểu nghĩa dẫn đến lẫn lộn phụ âm . Nhóm 3: Còn lại những em viết chữ quá xấu, cẩu thả, sai và lẫn lộn các phụ âm, không rõ chữ dẫn đến tình trạng không đọc được hoặc đọc sai nghĩa của từ. ( có 14 em chiếm 28,6%) 2. Hướng, cách thức thực hiện. Qua việc phân loại học sinh để có biện pháp phù hợp với từng đối tượng. Đồng thời nhận xét chung về chữ viết của từng em và ghi vào sổ ghi chép của giáo viên. Qua đó, giáo viên có cách uốn nắn một cách cụ thể và phù hợp với từng đối tượng. Dựa vào vở luyện viết, tôi hướng dẫn học sinh cách luyện viết theo từng tuần và yêu cầu học sinh đóng thêm một vở ô-li để luyện văn và luyện viết nhằm giúp các em vừa ôn luyện lại kiến thức đã học, vừa luyện chữ viết. Các vở này tôi kiểm tra một tháng một lần gồm hai bài (trong vở ô-li tôi đã ra đề về nhà cho các em làm) . Đối với học sinh ở nhóm 1 không chỉ dừng lại ở mức độ rèn chữ viết mà còn chú ý đến nội dung, chất lượng của bài viết. Đối với số học sinh ở nhóm 2 tôi cho thêm một tháng một bài luyện viết và tập trung các em học một buổi trong một tháng để uốn nắn, sửa chữa chữ viết tỉ mỉ hơn đối vơí nhóm 1. Riêng nhóm 3 mỗi tuần tôi cho thêm một bài viết chính tả về nhà để học sinh rèn luyện thêm để sửa chữa tỉ mĩ hơn với nhóm 1 và 2. Đồng thời tôi đề nghị phụ huynh học sinh cần theo dõi hàng ngày về việc học tập của các em ở nhà để có các biện pháp kịp thời uốn nắn các em. II. Các biện pháp thực hiện. 1. Giới thiệu kiểu chữ. Trong tuần thứ nhất của tháng đầu tiên, tôi giảng giải cho các em nắm được kiểu chữ, dáng chữ cách viết thường cách viết hoa và viết in. Mặc dù các em đã được học nhiều nhưng khi nghe vấn đề này cứ như là lạ lắm. Bởi vì các em quen tính cẩu thả và ít để tâm vào việc luyện chữ viết sao cho đẹp. Đầu tiên tôi giới thiệu cho các em về cách viết hoa, viết thường theo hai kiểu là kiểu chữ đứng và kiểu chữ nghiêng. Sau đó hướng dẫn học sinh chọn cho mình một kiểu chữ sao cho thuận tay và hợp ý thích của mình. Khi đã chọn kiểu chữ nào thì viết theo kiểu chữ đó không được tuỳ tiện thay đổi kiểu chữ, vì như vậy sẽ làm xấu chữ viết. 2. Giới thiệu cách trình bày một đoạn văn. Tôi cho treo một đoạn văn mẫu và cho học sinh nhắc lại hình thức trình bày một đoạn văn, nhiệm vụ của đoạn văn. Khi viết đoạn văn thì cần chú ý tới những yêu cầu gì? 3. Cách rèn luyện chữ viết cho học sinh. a. Đối với học sinh Trong buổi học đầu tiên, tôi lấy một đoạn văn mẫu và cho học sinh chép lại đoạn văn đó trong thời gian 15 phút. Sau đó cho các em đổi chéo bài cho nhau để cùng phát hiện lỗi của bạn, liệt kê những lỗi mà bạn mắc phải. Trong buổi học này học sinh nhóm 2 và đặc biệt là nhóm 3 học rất vất vả nhọc nhằn bởi lâu nay các em viết theo kiểu tuỳ hứng và không chú tâm vào việc luyện chữ. Đồng thời trong buổi học đầu tiên này tôi kể cho các em nghe một số mẩu chuyện về tác hại của chữ viết xấu, sai lỗi chính tả dẫn đến người đọc hiểu sai ý hoặc chất lượng bài kiểm tra kém… để các em thấy rõ tầm quan trọng của chữ viết. Từ đó các em có ý thức uốn nắn, sửa chữa và rèn luyện chữ viết của chính mình. Qua đó cho học sinh thấy “ nét chữ là nét người” để các em phải cẩn thận tránh cẩu thả trong khi viết chữ . Vấn đề luyện chữ viết đối với học sinh trung học cơ sở chủ yếu là luyện ở nhà dưới sự hướng dẫn của thầy. Vì thế ngay trong kì họp phụ huynh đầu tiên của lớp, tôi trao đổi về tình hình chữ viết của học sinh cùng với ý định luyện chữ của tôi và đề xuất với họ một ngày dành chút ít thời gian quan tâm nhắc nhở các cháu học tập và luyện chữ, và việc luyện chữ phải luyện vào một thời gian nhất định có thời gian biểu rõ ràng cho các cháu. Việc làm này được tất cả các phụ huynh đồng tình ủng hộ. Trong buổi học thứ nhất, sau khi hướng dẫn và luyện viết một phần ở lớp, tôi giao bài cho các em viết vào vở luyện viết và vở luyện văn ở nhà để hôm sau thu chấm. Sang tuần thứ hai tôi đọc chậm một đoạn văn cho học sinh chép vào vở. Sau đó cho các em đổi bài cho nhau để chấm và kiểm tra lỗi chính tả của bạn. Riêng với các bạn nhóm 1 tôi ra một đề bài yêu cầu các em viết đoạn mở bài của bài văn và cách làm cũng như với nhóm 2 và nhóm 3 nhưng ở mức độ cao hơn là chấm cả nôị dung đoạn văn. Cứ một tuần, các em chép một bài trong vở luyện viết mà thầy giáo đề ra và cứ hai tuần cho các em làm một bài văn từ dễ đến khó. Đầu tiên là cho viết một đoạn văn và tiếp đến là một bài văn. Sau đó, tôi thu vở chấm một tháng hai lần. Riêng nhóm 3 tôi chấm hằng tuần. Bằng sự nhắc nhở và giám sát của gia đình cùng với sự kiểm tra chặt chẽ của giáo viên. Sau một tháng đầu khi chấm bài và xem vở ghi bài của các em tôi thấy các em đã có tiến bộ về chữ viết – so với bài kiểm tra chất lượng đầu năm. Cụ thể là: Các em đã có ý thức rèn luyện chữ viết, giảm được sự cẩu thả tuỳ tiện trong khi viết. Chữ viết đẹp hơn, ít lỗi hơn. Trong đó, số học sinh ở nhóm hai tôi đã chọn được hai em vào nhóm một. Số còn lại tuy viết đã có phần khá hơn song lỗi vẫn còn nhiều. Riêng nhóm 3 tiến triển rất chậm. Các tuần tiếp theo tôi tiếp tục yêu cầu học sinh viết thành nếp và cứ thế theo thói quen và quy định của tôi các em tiến hành viết theo tuần. Đối với học sinh thuộc đối tượng ở nhóm hai, tôi vẫn yêu cầu các em học thêm một tháng một buổi, nhóm 3 mỗi tuần thêm một buổi để có điều kiện uốn nắn và sửa lỗi cho các em. Ngoài ra, đối với tất cả các học sinh trong lớp, thỉnh thoảng tôi cho thêm một bài để củng cố kiến thức và ôn luyện về chữ viết. Muốn chữ viết của các em ngày càng tiến bộ thì điều chủ yếu là người giáo viên phải thu bài và chấm chữa kịp thời, khen, chê đúng lúc. Có như vậy mới khuyến khích được hứng thú luyện viết cho các em. Việc chấm chữa bài cho các em là một công việc rất vất vả vì đòi hỏi phải tốn nhiều thời gian và công sức. Nhưng tôi nghĩ muốn khắc phục, uốn nắn tình trạng chữ viết xấu, sai lỗi chính tả cho các em thì người giáo viên cần phân bố thời gian hợp lý và tận tuỵ. Chính vì vậy mà tôi đã cố gắng thực hiện việc chấm chữa bài cho các em trong vở và yêu cầu cho các em luyện viết và làm bài, sửa lỗi nghiêm túc, dựa vào lời phê của thầy cô. Vì thế, trong suốt học kỳ I, chữ viết của các em đã tiến bộ rõ rệt. Số học sinh nhóm một đã tăng lên. Điều đó làm tôi rất mừng bởi những công sức mà thầy và trò đã bỏ công luyện tập. Bước sang học kỳ II, tôi gắn luôn chữ viết vào đánh giá bài làm ở lớp. Trong các bài làm của học sinh nhất là bài làm Tập làm văn, tôi đề ra hai điều: “phải” và “cấm” như sau: Phải: + Viết cẩn thận, rõ ràng từng nét. + Phải viết hoa đầu đoạn văn, đầu câu và những danh từ riêng. + Phải chú ý phân biệt nghĩa của các từ để viết cho đúng. Cấm: +Viết hoa tuỳ tiện. +Viết thiếu nét nguệch ngoạc. Các bài làm của các em, nếu em nào viết xấu và sai lỗi nhiều, lỗi về chữ viết tôi đều không chấm và phê cụ thể yêu cầu viết lại hai lần mới chấm. Còn những bài lỗi mà tôi gạch chân và bắt viết lại mỗi lỗi năm dòng cho đúng. Tôi kiểm tra chặt chẽ việc sửa lỗi. Nếu em nào không chữa sẽ có hình thức phạt phù hợp. Chính vì vậy mà các bài làm sau của các em, tôi thấy các em có ý thức tu luyện chữ, thể hiện ở chỗ chữ ít lỗi và rõ ràng hơn. Vì phần lớn các em đều rất ngại viết đi viết lại nhiều lần. Cùng với việc chấm chữa bài và các hình thức phạt phù hợp đối với những học sinh trong những tiết bài trên lớp hay những bài các em làm trên bảng, khi chữa bài bên cạnh chữa về mặt nội dung yêu cầu thì không thể thiếu được việc chữa lỗi về chữ viết cho các em bằng các câu hỏi và cho các em nhận xét. ? Chữ viết của bạn đã đẹp và cẩn thận chưa ? ? Bài làm có mắc lỗi nào không ? ? Muốn sửa những lỗi đó, ta phải sửa bằng cách nào ? Từ đó học sinh nhận thấy lỗi của các bạn và tự sửa lỗi cho chính mình. b. Đối với giáo viên. Khi dạy học cho các em, người giáo viên khi đọc (nói) phải phù hợp nghĩa là : Phát âm chuẩn tiếng phổ thông vì nếu không phát âm chuẩn tiếng phổ thông sẽ dẫn đến viết sai. Trường hợp này đã sảy ra. Vì thế phải dạy cho học sinh nói và phát âm chuẩn mới được viết. Cho nên trong các giờ dạy ở lớp, tôi luôn chú ý vào việc đọc và phát âm của các em, nếu em nào đọc sai tôi sẽ uốn nắn luôn. Cùng với việc làm đó, tôi tìm hiểu về những lỗi mà do tiếng địa phương các em hay mắc phải để chú ý sửa cho các em ví dụ ở phần in/iên; mông/ mong; chông đợi/ trông đợi; sâu đó/ sau đó; lông lanh/ long lanh…và chú trọng sửa những lỗi này để khi các em viết bài các em chú ý và có thể sửa được những lỗi mà mình mắc phải. Để rèn luyện cho học sinh tính cẩn thận trong khi viết chữ người giáo viên khi viết lên bảng hay trong lời phê phải làm gương để cho học sinh học tập. Trong các bài luyện tập tôi hướng dẫn học sinh kiểm tra chéo bài của nhau, ghi vào phiếu kiểm tra những lỗi của bạn và nhận xét bài viết của bạn, mục đích là các em nhận biết được lỗi của bạn cũng chính là lỗi của mình, để tự sửa chữa. Cuối cùng tôi thu bài viết và cả phiếu về nhà kiểm tra, chấm lại. Cứ mỗi lỗi sai lại yêu cầu viết lại như lần trước. Khi phát hiện ra những lỗi điển hình, tôi yêu cầu sửa dần bằng cách: Trong một thời gian nhất định phải sửa dần từng lỗi một. Đối với nhóm 2 và đặc biệt là nhóm 3 yêu cầu sửa chữ thiếu nét mới yêu cầu sang lỗi khác… Việc này kết hợp chữa lỗi những tiết ngoài giờ, tiết tự chọn và cả trong giờ học chính khoá trên lớp. Cùng với những biện pháp trên, khi luyện viết chữ cho các em vừa kết hợp luyện chữ, vừa tìm những nguyên nhân mắc lỗi của các em để có cách sửa chữa cho phù hợp với từng đối tượng, từng lỗi và học sinh. Đối với học sinh, phải chú ý vào những lỗi để tự uốn nắn và sửa chữ cho chính mình để chữ viết ngày càng đẹp hơn và không sai lỗi chính tả. c- Kết luận I. Kết quả ngiên cứu: Cứ bằng các biện pháp như thế, khi thì cách này, khi thì cách khác, tôi liên tục luyện chữ cho các em trong một học kì nên chữ viết của các em đã tiến bộ rất nhiều. cụ thể như sau: Cuối học kì I năm học 2006-2007, các em đã được các giáo viên dạy 2 lớp này khen ngợi chữ viết của học sinh tương đối đẹp, dễ đọc, rõ ràng và ít lỗi chính tả, trình bày sạch, đẹp. Có được kết quả như vậy phải kể đến sự kiên trì, quyết tâm luyện tập của học sinh dưới sự kiểm tra chặt chẽ, chỉ bảo ân cần, nhẹ nhàng của giáo viên và sự giám sát kiên quyết của các bậc phụ huynh. Học kì I đã kết thúc, với ý định viết sáng kiến này tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng về chữ viết của các em cụ thể như sau: Nhóm 1: có 18 em chữ viết đảm bảo. Nhóm 2: có 22 em trong số những em viết vẫn còn sai lỗi chính tả. Những chữ còn chưa đúng phụ âm, nguyên âm là 9 em, những em này chữ viết đã có tiến bộ hơn so với lớp 7 nhưng vẫn còn sai lỗi chính tả do tiếng địa phương và việc phân biệt nghĩa của các từ chưa chính xác. Chỉ trong một học kì luyện viết, tỷ lệ 20,4% đạt yêu cầu về chữ viết đến nay đã tăng lên 36,7%. Tỉ lệ học sinh chưa đạt yêu cầu từ 79,6% xuống còn 63,3%, giảm 16,3%. Thật là vui mừng khi chữ viết của các em đã tiến triển như vậy. Nếu cứ tiếp tục luyện chữ viết cho các em, tôi tin rằng lên lớp 9 chữ viết của các em sẽ đạt được như mong muốn . Tuy nhiên những biện pháp mà tôi đã đề ra và áp dụng với học sinh của lớp tôi chưa có gì là mới mẻ nhưng nhờ sự kiên trì, nhiệt tình của cả thầy và trò mà kết quả chữ viết của các em đã tiến bộ rõ rệt. II. Những bài học rút ra: Để luyện chữ viết cho các học sinh có hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường cần phải : - Về phía thầy: + Phải thực sự yêu nghề, quan tâm và lo lắng chất lượng học tập của các em, đặc biệt là giáo viên văn, vì chữ viết của học sinh mọi người thường qui vào chất lượng của môn Ngữ văn . + Phải chịu khó, liên tục trong cách hướng dẫn học sinh luyện chữ và luôn giữ sự nhất quán tránh “Đầu voi đuôi chuột” vì đã có những giáo viên chú ý luyện chữ cho học sinh nhưng chỉ được thời gian không lâu là nản. Do vậy chữ viết của các em không được chăm chút nên vẫn xấu và mắc lỗi nhiều. + Phải vận dụng nhiều biện pháp linh hoạt, phù hợp, cụ thể với từng đối tượng học sinh - Nhẹ nhàng khuyên bảo, tránh mạt sát, gắt gỏng vì đa số học sinh viết chữ xấu đều học yếu lại bị gắt dễ sinh tự ti . + Phải chấm chữa bài cẩn thận để các em nhận thấy lỗi và khắc phục lỗi của chính mình. + Phải kết hợp chặt chẽ với gia đình, thường xuyên hỏi thăm, kiểm tra và đôn đốc, nhắc nhở các em học tập. - Về phía trò: + Tuy học sinh lên cấp II trọng tâm của dạy và học là ngữ pháp nhưng lỗi chính tả vẫn phải chú ý uốn, sửa cho nên yêu cầu học sinh phải rèn luyện cho mình tính cẩn thận và có ý thức khi viết bài cũng như thi cử.. là điều tối cần thiết và cực kì quan trọng. + Phải chịu khó, kiên trì và quyết tâm cao. + Tự giác rèn luyện chữ viết dưới sự hướng dẫn của thầy và sự nhắc nhở của cha mẹ, vì việc luyện chữ ở nhà là chính nên các em phải tự giác mới thành công được. + Không tự ái, không chán nản trong việc luyện chữ viết. +Phải có vở luyện chữ theo yêu cầu (sách in) và vở ô-li để uốn nắn và sửa chữa, vì có viết nhiều, luyện nhiều thì chữ viết mới đẹp và tránh được lỗi chính tả. Trên đây là một số biện pháp và những ý kiến gọi là bài học mà tôi đã rút ra trong một học kì luyện chữ viết cho học sinh trong năm học 2007-2008. Bản thân tôi cũng đã được tiếp cận với SKKN của đồng chí Nguyễn Thị Thành (trường THCS Phạm Văn Hinh, Thạch Thành năm học 2005-2006) về vấn đề “ Vài suy nghĩ về việc rèn luyện chữ viết cho học sinh THCS”. Nhờ những biện pháp và bài học của đồng chí Nguyễn Thị Thành kết hợp với những biện pháp và bài học của bản thân tôi cùng với sự kiên trì của giáo viên, tính cần mẫn, lòng quyết tâm của học sinh cộng với sự đồng lòng ủng hộ của phụ huynh mà chất lượng chữ viết học sinh đã có những điều khả quan. Tôi mạnh dạn viết ra đây để các đồng nghiệp tham khảo . Rất mong được sự góp ý của đồng nghiệp. Xin giới thiệu một tiết giáo án của tuần thứ hai, thứ ba mà tôi đã áp dụng. Tiết 2, 3: rèn luyện viết đoạn văn A.mục đích yêu cầu. I. Kiến thức: Giúp HS nắm được yêu cầu về hình thức và nội dung diễn đạt của một đoạn văn. II. Kĩ năng: HS có khả năng tự sửa lỗi chính tả của mình và phát hiện lỗi chính tả của bạn. Tránh mắc những lỗi chính tả khi soạn thảo văn bản. Có kĩ năng trình bày bài văn theo đúng yêu cầu của việc tạo lập văn bản ở mức đơn giản nhất. III. Thái độ. Có ý thức rèn luyện chữ viết của mình. Khao khát muốn viết đúng, viết đẹp. B.Tiến trình lên lớp. I.Kiểm tra bài cũ. GV kiểm tra vở tập viết của học sinh. II. Bài mới Hoạt động của thầy và trò Nội dung cần đạt HĐ 1: Tìm hiểu yêu cầu trình bày của một đoạn văn GV treo bảng phụ có đoạn văn gọi học sinh đọc đoạn văn. ? Đoạn văn gồm có mấy câu? ? Em có nhận xét gì về hình thức trình bày của từng câu? Câu bắt đầu bằng chữ cái đứng đầu câu được viết hoa và kết thúc bằng dấu chấm, dấu chấm hỏi, dấu chấm than... ? Em có nhận xét như thế nào về hình thức trình bày một đoạn văn? Đoạn văn thường có từ hai câu trở lên. chữ đầu tiên viết lùi vào một chữ và được viết hoa chữ cái đầu. kết thúc bằng dấu chấm, dấu chấm than.... ? Bản thân mỗi em đã trình bày đoạn văn đúng chưa? ( HS trả lời) GV: Như ông cha ta đã từng nói “Nét chữ nét người”.Nhìn vào cách trình bày bài viết của mỗi người là ta có thể phần nào hiểu được họ. Vì vậy rèn luyện chữ viết là yêu cầu hằng ngày đối với chúng ta, nhất là những bạn viết còn sai lỗi chính tả, trình bày bài vở còn cẩu thả... ? Yêu cầu về hình thức trình bày một đoạn văn như thế nào? HĐ 2. Viết đoạn văn theo mẫu. GV cho HS viết đoạn văn theo mẫu có sẵn trên bảng phụ. Sau khi HS viết xong cho các bạn đổi chéo vở cho nhau để sửa lỗi cuả bạn. HĐ 3. Tìm lỗi chính tả GV yêu cầu học sinh tích kê những lỗi mà bạn mình mắc phải. Sau đó thảo luận nhóm để tìm ra những lỗi thường mắc phải. I. Hình thức trình bày một đoạn văn. Đoạn văn thường có từ hai câu trở lên. Bắt đàu bằng chữ cái viết hoa và lùi vào một chữ. Kết thúc bằng dấu chấm, dấu chấm than, dấu chấm hỏi... ? Những lỗi chính tả mà các bạn vẫn thường gặp? HS nêu ra những lỗi của các bạn trong nhóm và nêu lên cách sửa. HĐ 4. Tìm hiểu nguyên nhân mắc lỗi và cách sửa ? Tại sao những lỗi đó chúng ta thường mắc? Cách sửa những lỗi đó? ? Có bao nhiêu bạn trình bày đúng hình thức đoạn văn? Sau khi HS tìm ra cách sửa những lỗi mà các bạn vẫn còn mắc, GV cho HS viết lại đoạn văn. Yêu cầu viết chậm, đúng chính tả và hình thức trình bày một đoạn văn. HS viết xong đổi chéo bài cho bạn để cùng chấm bài của bạn ? Những lỗi mà bạn mác phải? Cách sửa? II. Những lỗi thương gặp, nguyên nhân, cách sửa. 1. Những lỗi thường gặp 2. Nguyên nhân mắc lỗi. - Do cẩu thả. - Do nhầm lẫn thanh điệu, phụ âm, nguyên âm... - Do thói quen phát âm ( sử dụng) tiếng địa phương. 3. cách sửa - Phải cẩn thận khi viết chữ. - Xác định đúng công dụng, chức năng của thanh điệu, phụ âm, nguyên âm... - Tư duy theo ngôn ngữ chung ( toàn dân), tránh tư duy theo ngôn ngữ địa phương khi viết. III. Cũng cố, dặn dò. ? Qua tiết học ngày hôm nay các bạn rút ra cho ình bài học gì? - Nhóm 2 và nhóm 3 về nhà chép lại văn bản: (" Trong lòng mẹ" Ngữ văn 8 tập 1) - Nhóm 1: kể về một thói quen tốt của em hoặc của bạn em? IV. Bài học kinh nghiệm Thạch Thành, ngày 15/01/2008 Người thực hiện Hđ xét skkn Nguyễn Vĩnh Lộc Xếp loại........................ Phòng giáo dục thạch thành Trường thcs thành minh Sáng kiến kinh nghiệm Rèn luyện chữ viết cho học sinh thcs Họ và tên: nguyễn vĩnh lộc đơn vị công tác: trường thcs thành minh skkn thuộc môn: Ngữ văn skkn thuộc năm học 2007-2008

File đính kèm:

  • docSKKN LOC 2007-2008.doc