Sáng kiến kinh nghiệm - Ứng dụng CNTT trong dạy học

A. ĐẶT VẤN ĐỀ

 Ngày nay, khi công nghệ thông tin càng phát triển thì việc phát ứng dụng công nghệ thông tin vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, CNTT bước đầu đã được ứng dụng trong công tác quản lý, một số nơi đã đưa tin học vào giảng dạy, học tập. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn hiện nay, việc ứng dụng CNTT trong giáo dục ở các trường nước ta còn rất hạn chế. Chúng ta cần phải nhanh chóng nâng cao chất lượng, nghiệp vụ giảng dạy, nghiệp vụ quản lý, chúng ta không nên từ chối những gì có sẵn mà lĩnh vực CNTT mang lại, chúng ta nên biết cách tận dụng nó, biến nó thành công cụ hiệu quả cho công việc của mình,mục đích của mình.

 Hơn nữa, đối với giáo dục và đào tạo, công nghệ hông tin có tác dụng mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung, phương pháp dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới “xã hội học tập”. Mặt khác, giaó dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT. Bộ giáo dục và đào tạo cũng yêu cầu “đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng dẫn học CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp dạy học ở các môn”.

 Thực hiện tinh thần chỉ đạo trên của bộ giáo dục và của sở giáo dục và đào tạo, nhận thức được rằng, việc ứng dụng CNTT phục vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy học là một trong những hướng tích cực nhất, hiệu quả nhất trong việc đổi mới phương pháp dạy học và chắc chắn sẽ được sử dụng rộng rãi trong nhà trường phổ thông trong một vài năm tới, tôi đã mạnh rạn học tập và đưa CNTT vào giảng dạy 5 năm nay.

 Nhưng làm thế nào để ứng dụng CNTT hiệu quả trong các tiết dạy đó là vấn đề mà bất cứ một môn học nào cũng gặp phải khi có ý định đưa CNTT vào giảng dạy. Trong bản sáng kiến này, tôi sẽ đưa ra những ý kiến, kinh nghiệm của cá nhân mình, cũng như một số tiết dạy tôi đã thử nghiệm trong các năm học vừa qua để cùng các bạn đồng nghiệp thảo luận tìm ra những giải pháp tốt nhất cho những tiết dạy của mình.

 

doc17 trang | Chia sẻ: thanhthanh29 | Lượt xem: 996 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm - Ứng dụng CNTT trong dạy học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đặt vấn đề Ngày nay, khi công nghệ thông tin càng phát triển thì việc phát ứng dụng công nghệ thông tin vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, CNTT bước đầu đã được ứng dụng trong công tác quản lý, một số nơi đã đưa tin học vào giảng dạy, học tập. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn hiện nay, việc ứng dụng CNTT trong giáo dục ở các trường nước ta còn rất hạn chế. Chúng ta cần phải nhanh chóng nâng cao chất lượng, nghiệp vụ giảng dạy, nghiệp vụ quản lý, chúng ta không nên từ chối những gì có sẵn mà lĩnh vực CNTT mang lại, chúng ta nên biết cách tận dụng nó, biến nó thành công cụ hiệu quả cho công việc của mình,mục đích của mình. Hơn nữa, đối với giáo dục và đào tạo, công nghệ hông tin có tác dụng mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung, phương pháp dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới “xã hội học tập”. Mặt khác, giaó dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT. Bộ giáo dục và đào tạo cũng yêu cầu “đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng dẫn học CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp dạy học ở các môn”. Thực hiện tinh thần chỉ đạo trên của bộ giáo dục và của sở giáo dục và đào tạo, nhận thức được rằng, việc ứng dụng CNTT phục vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy học là một trong những hướng tích cực nhất, hiệu quả nhất trong việc đổi mới phương pháp dạy học và chắc chắn sẽ được sử dụng rộng rãi trong nhà trường phổ thông trong một vài năm tới, tôi đã mạnh rạn học tập và đưa CNTT vào giảng dạy 5 năm nay. Nhưng làm thế nào để ứng dụng CNTT hiệu quả trong các tiết dạy đó là vấn đề mà bất cứ một môn học nào cũng gặp phải khi có ý định đưa CNTT vào giảng dạy. Trong bản sáng kiến này, tôi sẽ đưa ra những ý kiến, kinh nghiệm của cá nhân mình, cũng như một số tiết dạy tôi đã thử nghiệm trong các năm học vừa qua để cùng các bạn đồng nghiệp thảo luận tìm ra những giải pháp tốt nhất cho những tiết dạy của mình. B. Nội dung I. Những trở ngại khi sử dụng giáo án điện tử Phần lớn các giáo viên ngại sử dụng giáo án điện tử, nghĩ rằng sẽ tốn thời gian để chuẩn bị một bài giảng. Việc thực hiện một bài giảng một cách công phu bằng các dẫn chứng sống động trên các slide trong các giờ học lý thuyết là một điều mà các giáo viên không muốn nghĩ đến. Để có một bài giảng như thế đòi hỏi phải mất nhiều thời gian chuẩn bị mà đó chính là điều mà các giáo viên thường hay tránh. Khảo sát hiệu quả từ phía học sinh cho thấy, nếu sử dụng phương pháp dạy học truyền thống với phấn trắng bảng đen thì hiệu qua mang lại chỉ có 30%,trong khi hiệu quả của phương pháp multêmedia (nhìn - nghe) lên đến 70%. Việc sử dụng phương pháp mới đòi hỏi một giáo án mới. Thực ra, muốn “click” chuột để tiết dạy thực sự hiệu quả thì giáo viên phải vất vả gấp nhiều lần so với cách dạy truyền thống. Ngoài kiến thức căn bản về vi tính, sử dụng thành thạo phần mềm power point, giáo viên cần phải có niềm đam mê thật sự với công việc thiết kế đòi hỏi sự sáng tạo, sự nhạy bén, tính thẩm mỹ để săn tìm tư liệu từ nhiều nguồn. Hơn nữa trong quá trình thiết kế, để có được một GAĐT tốt, từng cá nhân giáo viên còn gặp không ít khó khăn trong việc tự đi tìm hình ảnh minh hoạ, âm thanh sôi động, tư liệu dẫn chứng phù hợp với bài giảng. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân mà một số giáo viên thường đưa ra để tránh né việc thực hiện dạy bằng CNTT. Chính vì những khó khăn trên mà các giáo viên chỉ ứng dụng CNTT khi có nhu cầu. Tức là chỉ có thao giảng mới sử dụng và việc làm này chỉ mang tính chất đối phó. Tình trạng này cũng phổ biến trong các trường phổ thông. Mục đích sử dụng máy tính phục vụ cho công tác giảng dạy chỉ được áp dụng trong các tình huống này. II. Yêu cầu cần thiết để làm giáo án điện tử Mặc dù giáo án điện tử (GAĐT) chưa được các trường học đón nhận rộng rãi, chưa thực sự phổ biến, nhưng bước đầu nó đã tạo ra một không khí học tập và làm việc khác hẳn cách học và cách giảng dạy truyền thống. Phải chăng việc dạy bằng giáo án điện tử sẽ giúp người thầy đỡ vất vả bởi vì chỉ cần “click” chuột? Thực ra, muốn click chuột để tiết dạy thực sự hiệu quả thì người dạy cũng phải chịu bỏ công tìm hiểu, làm quen với cách giảng bài mới này. Cụ thể, người thầy cần phải: Có một ít kiến thức về sử dụng máy tính. Biết sử dụng phần mềm trình diễn PowerPoint. Biết cách truy cập Internet. Có khả năng sử dụng một phần mềm chỉnh sửa ảnh, làm các ảnh động, cắt các file âm thanh. Biết cách sử dụng projector. Thoạt nghe thì có vẻ phức tạp nhưng thực sự muốn ứng dụng CNTT vào giảng dạy có bắt buộc phải thực hiện hết những yêu cầu trên? Câu trả lời là không. Tuỳ thuộc vào tính chất của mỗi môn học mà các yêu cầu khác nhau được đặt ra cho các giáo viên. Tuy nhiên nếu đáp ứng được các nhu cầu trên thì thật tuyệt vời. Tại sao tôi lại đặt ra các yêu cầu như trên? Chúng ta thử tưởng tượng xem nếu một người không có khái niệm gì về CNTT liệu họ có bật máy tính lên và chọn cho mình một chương trình làm việc? Liệu họ có biết được tài liệu của mình ở đâu trên máy tính? Cách copy tài liệu từ nơi này sang nơi khác hay xoá một tài liệu nào đó khi không còn dùng?... Nghĩa là dù ít hay nhiều họ cũng phải sử dụng được chiếc máy tính theo ý muốn của mình. Thứ hai, từ những giáo án được soạn sẵn trên giấy và được trình bày lại trên bảng đen làm thế nào để chúng trở thành các GAĐT được trình bày trên màn chiếu? Điều này đòi hỏi người thầy phải biết sử dụng PowerPoint. Đây là một phần mềm nằm trong bộ MS Office dùng để tạo các trình diễn đa dạng trên máy tính. Nếu chỉ dừng ở mức độ gõ những nội dung cần thiết cộng thêm một ít định dạng về màu sắc, font chữ, chúng tôi thiết nghĩ giáo viên nào cũng có thể làm được. Tuy nhiên nếu chỉ có thế thì chúng ta chưa thực sự thấy được sức mạnh của PowerPoint cũng như chưa phát huy hiệu quả của phương pháp giảng dạy mới này. Lấy ví dụ trong một tiết dạy toán lớp 6 Tiết 15: Nửa mặt phẳng Mục tiêu: Học sinh hiểu về nửa mặt phẳng, khái niệm nửa mặt phẳng bờ a, biết cách gọi tên nửa mặt phẳng có bờ cho trước. Hiểu tia nằm giữa hai tia, biết vẽ tia nằm giữa hai tia. Phương pháp: Đàm thoại, diễn giảng, trực quan. Tài liệu – phương tiện : Chuẩn bị của giáo viên: GAĐT, thước thẳng, phiếu học tập Chuẩn bị của học sinh: SGK, dụng cụ học tập Hoạt động dạy và học: - Giới thiệu: HS: đọc một số quy định của tiết học 1.Kiểm tra bài cũ: Vẽ đường thẳng a. Có mấy cách đặt tên cho đường thẳng? 2. Vào bài: HS :Quan sát hình ảnh sau : GV: Những chùm tia sáng đã tạo thành các góc. Góc là gì? góc có ứng dụng gì trong toán học và trong thực tế? Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu qua các bài học ở chương II -> chươngII: góc Hãy quan sát trên màn hình Trang giấy, mặt bảng, mặt bàn là những hình ảnh của mặt phẳng. H:Nêu 1 vài hình ảnh của mặt phẳng?(Quan sát trên màn hình rồi trả lời câu hỏi) H: Mặt phẳng có bị giới hạn không? H: Đường thẳng a trên mặt bảng chia mặt bảng thành mấy phần? - >2phần GV: Mỗi phần ấy và đường thẳng a tạo thành một hình mới gọi là nửa mặt phẳng bờ a.H: Thế nào là nửa mặt phẳng bờ a? -> Vào bài Tiết 15: Nửa mặt phẳng 3. Phát triển bài: Hoạt động của thầy Hoạt động của trò Ghi bảng H: Thế nào là nửa mặt phẳng bờ a? GV: Đó là K/N SGK/72 GV: Nửa mặt phẳng phía trên gọi là nửa mặt phẳng (I), nửa phía dưới gọi là nửa mặt phẳng (II) H: Nửa mặt phẳng (I)và nửa mặt phẳng (II) có phần nào chung? GV: Người ta gọi chúng là 2 nửa mặt phẳng đối nhau H: Thế nào là 2 nửa mặt phẳng đối nhau? GV: Đó là chú ý SGK/72 -Quan sát: H: Nửa mặt phẳng (I) chứa điểm nào? Không chứa điểm nào? GV: Nửa mặt phẳng (I) gọi là nửa mặt phẳng bờ a chứa điểm M, hoặc nửa mặt phẳng bờ a không chứa điểm P hoặc (I) là nửa mặt phẳng đối của (II) H: Nêu các cách gọi khác nhau của nửa mặt phẳng (II)? GV: Cho thêm điểm N. H: Gọi tên nửa mặt phẳng (I) và (II) dựa vào điểm N? - Quan sát: H: 2 điểm M, N cùng thuộc nửa mặt phẳng nào? GV: Ta nói hai điểm M,N nằm cùng phía đối với đường thẳng a. H: Hai điểm M, P có nằm cùng phía đối với đường thẳng a không? Vì sao? GV: Vậy hai điểm M và P nằm khác phía đối với đường thẳng a. ?1 b) Nối M với N, M với P. Đoạn thẳng MN có cắt a không? Đoạn thẳng MP có cắt a không? Chốt: Đoạn thẳng có 2 đầu không nằm trên đường thẳng a nhưng cùng thuộc 1 nửa mặt phẳng bờ a thì không cắt đường thẳng a. Đoạn thẳng có hai đầu không nằm trên a nhưng thuộc 2 nửa mặt phẳng bờ a thì cắt đường thẳng a. Bài tập 1: Vẽ hình Cho 3 tia Ox, Oy,Oz chung gốc. Lấy điểm M bất kỳ trên tia Ox, N bất kỳ trên tia Oy (M, N đều không trùng với điểm O) GV: Chiếu các trường hợp hình vẽ - Trả lời - Đọc khái niệm -Chung bờ a -Trả lời - Đọc chú ý - Chứa điểm M - Không chứa điểm P -Nửa mặt phẳng (II) gọi là nửa mặt phẳng bờ a chứa điểm P hoặc nửa mặt phẳng bờ a không chứa điểm M Hoặc (II) là nửa mặt phẳng đối của (I) - Nửa mặt phẳng (I) gọi là nửa mặt phẳng bờ a chứa điểm N, nửa mặt phẳng (II) gọi là nửa mặt phẳng bờ a không chứa điểm N. - 2 điểm M, N cùng thuộc nửa mặt phẳng (I) - Hai điểm M và P không nằm cùng phía đối với đường thẳng a vì Mẻ(I), Pẻ(II) - Đọc ?1/b - H/s tự nối - Trả lời . - Đọc đề bài - 3 HS lên bảng vẽ hình HS khác vẽ vào vở. 1.Nửa mặt phẳng bờ a: *Khái niệm: SGK/72 a (II) (I) *Chú ý: SGK/72 M P (I) (II) a N O x z y M N y z x M N Hình a O x y O Hình b Hình c M N y z x M N Hình d O z Xét hình a H: Tia Oz có cắt đoạn thẳng MN không? GV: Khi tia Oz cắt đoạn thẳng MN tại điểm nằm giữa M và N thì tia Oz nằm giữa hai tia Ox và Oy->2 H: Tia Oz nằm giữa 2 tia Ox và Oy khi nào? ở hình b,c,d tia Oz có cắt đoạn thẳng MN không? Tia Oz có nằm giữa 2 tia Ox và Oy không? GV: cho HS hoạt động nhóm cử đại diện nhóm lên trình bầy. - Tia Oz có cắt đoạn thẳng MN - Khi tia Oz cắt đoạn thẳng MN tại 1 ểm nằm giữa Mvà N -Hình b) Tia Oz có cắt đoạn thẳng MN Tia Oz nằm giữa 2 tia Ox và Oy -Hình c) hình d) Tia Oz không cắt đoạn thẳng MN Tia Oz không nằm giữa 2 tia Ox và Oy. x 2. Tia nằm giữa hai tia: SGK/72 M z y O N MẻOx, N ẻOy (M≠O,N≠O) Nếu tia Oz cắt đoạn thẳng MN tại 1 điểm nằm giữa Mvà N thì tia Oz nằm giữa hai tia Ox, Oy. Củng cố: Bài tập 2( bài 3 SGK/73) Điền vào chỗ trống trong các phát biểu sau: Bất kỳ đường thẳng nào nằm trên mặt phẳng cũng là bờ chung của hai Cho ba điểm không thẳng hàng O, A, B. Tia Ox nằm giữa hai tia OA, OB khi tia Ox cắt.. Bài tập 3: Vẽ vào ô trống hình vẽ phù hợp với cách viết thông thường: Cách viết thông thường Hình vẽ Nửa mặt phẳng bờ a Nửa mặt phẳng bờ d chứa điểm M Ba tia Ox, Oy, Oz chung gốc O Tia Ot nằm giữa hai tia Ox và Oy Tia Ox không nằm giữa hai tia Om và On ứng dụng thực tế: Hình ảnh 2 nửa mặt phẳng đối nhau 12 3 9 6 (I) (II) Coi 3 kim đồng hồ là 3 tia chung gốc.Trong các hình sau chỉ ra kim nào là tia nằm giừa 2 tia còn lại? giải thích? 12 3 9 6 M N 12 3 9 6 M N 6.Về nhà: + Học thuộc định nghĩa thế nào là nửa mặt phẳng, nhận biết được tia nằm giữa hai tia khác. + Làm bài tập: 3,4 (SGK/73), 1, 4, 5 (SBT/52). Hướng dẫn bài 5/73 SGK Gọi M là điểm nằm giữa hai điểm A, B. Lấy điểm O không nằm trên đường thẳng AB. Vẽ ba tia OA, OB, OM. Hỏi tia nào nằm giữa hai tia còn lại ? Tia OM nằm giữa hai tia OA, OB vì tia OM cắt đoạn thẳng AB tại một điểm nằm giữa A, B A O M B Ngoài những nội dung trên, hình ảnh minh họa được đưa vào bài giảng, thao tác cơ bản nhất đòi hỏi người thầy phải nắm được là cách thiết lập các hiệu ứng để làm cho bài giảng sinh động, mang lại không khí học tập, giảng dạy mới mẻ.Các hiệu ứng này là gì? Đó chính là các hoạt ảnh của các đối tượng (văn bản,hình ảnh...) được thiết lập có thứ tự. Có thể dòng chữ này xuất hiện trước dòng chữ kia hay khi dòng chữ này xuất hiện từ dưới lên, khi từ trên rơi xuống...chẳng hạn trong giờ học toán khi tổ chức trò chơi, giáo viên cho học sinh đoán kết quả trước, sau đó mới hiển thị kết quả trên màn hình, như thế mới tiết kiệm được thời gian chép câu hỏi lên bảng,đồng thời tăng khả năng tư duy cuả học sinh. Ngoài ra, đặc điểm này giúp cho giáo viên tiết kiệm được thời gian viết nôi dung lên bảng, nội dung hiển thị đến đâu, giaó viên giảng đến đó, làm cho thời gian giảng bài nhiều hơn, các em học sinh hiểu bài sâu hơn. Đối với các môn học như lịch sử, địa lý, bài giảng thường đi kèm với nhiều hình minh họa. Có thể là hình ảnh mô tả một trận chiến, các căn cứ địa cách mạng hay hình ảnh các vùng kinh tế, diện tích lãnh thổ của vùng văn hóa nào đó... Nếu chỉ trình bày suông, chúng tôi nghĩ cũng chẳng có vấn đề gì cả, nhưng tại sao khi chúng ta đã chấp nhận làm GAĐT chúng ta lại không làm bài tập phong phú hơn? Hiện tại những hình ảnh minh họa cho các nội dung nói trên tương đối nhiều trên Internet. Chúng tôi thiết nghĩ, nếu chỉ cần bỏ chút thời gian mà có được những nội dung, hình ảnh cần minh hoạ cho bài giảng thì người thầy nào cũng sẵn lòng cả. Điều này cũng đồng nghĩa với việc giáo viên cần biết cách thức truy cập Internet để lấy thông tin.Tuy nhiên, không phải hình ảnh nào chúng ta lấy từ Internet đều thỏa mãn ý muốn của chúng ta. Chẳng hạn, chúng ta cần hình ảnh của một hình lập phương để minh họa trong giờ học toán nhưng hình ảnh chúng ta lấy từ internet lại quá nhỏ hay nó lại nằm chung với một hình khác .Như vậy chúng ta bó tay , không cần minh họa hay vẽ lên bảng hay tìm một hình khác cho đến khi vừa ý? Không, giải pháp đơn giản hơn là chúng ta có thể phóng to hình này lên hay xén lại hình để chỉ lấy phần hình thoi. Hay để tăng thêm tính thuyết phục, tính chất thực của các sự kiện , giáo viên dạy lịch sử có thể thông qua các đoạn phim tư liệu. Vậy chúng ta thực hiện các công việc trên bằng cách nào? Điều này đòi hỏi giáo viên cần biết một ít kỹ thuật để xử lý màu sắc, cắt xén ảnh, các đoạn phim, đoạn nhạc một cách hợp lý . Hoặc trong giờ học ngoại ngữ, giáo viên có thể lấy các hình ảnh minh họa và cho các em nghe các bài đọc của người bản xứ . Có như thế bài giảng sẽ sinh động hẳn, các em lại nhớ được các từ vựng và phát âm chuẩn hơn. Có thể đây là thao tác tương đôí phức tạp nhưng nó mang lại tính hiệu quả cao trong công tác giảng dạy . Bài giảng sau khi thiết kế sẽ được trình chiếu lên màn hình thông qua máy chiếu. Nghĩa là dù muốn hay không giáo viên buộc phải biết cách sử dụng nó. Đây là một trong những yêu cầu bắt buộc đối với giáo viên, chỉ cần một vài thao tác lắp máy chiếu với CPU của máy tính và điều chỉnh độ lớn, độ nét trên màn hình giáo viên chắc hẳn sẽ có một bài giảng chất lượng, học trò sẽ có không khí học thoải mái hơn. Điều cuối cùng tôi muốn nói đến là nhờ các GAĐT mà các giáo viên đã tạo ra một không khí khác hẳn so với giờ dạy truyền thống. Học sinh buộc phải tập trung nghe giảng và tư duy nhiều hơn trong các giờ học. Tuy nhiên, tối thiểu người dạy phải có một kiến thức nhất định chẳng hạn như sử dụng được phần mềm trình diễn PowerPoint để trình bày bài giảng và cần phải có quan niệm các phương tiện kỹ thuật được đề cập trên là các phương tiện hỗ trợ cho việc giảng dạy chứ không thể thay thế vai trò chủ đạo của người thầy trong giờ lên lớp. III. Quy trình và nguyên tắc khi thực hiện GAĐT Hiện tại, một số trường đã áp dụng GAĐT trong các giờ dạy. Nhưng vấn đề là chúng ta có nghĩ đến việc áp dụng như thế đã đúng chưa, đã hiệu quả chưa? Nừu chưa thì áp dụng thế nào cho đúng quy trình để chuẩn bị cho một GAĐT. Khi chuyển từ bài giảng truyền thống sang các slide trình diễn, giáo viên thường mang tư tưởng của bài giảng cũ để áp đặt vào. Nghĩa là chúng ta nghĩ chúng ta sẽ trình bày những gì mình nói và viết tất cả các nội dung vào slide. Điều này hoàn toàn sai lầm vì như thế học sinh sẽ cho rằng giáo viên chỉ nói những điều trong sách, không mở rộng các kiến thức ngoài. Chúng ta cần nhớ một điều: Slide là nơi chỉ chứa tên bài học, các đề mục và các cụm từ chốt phục vụ cho bài giảng. Tuỳ theo từng môn học, chúng ta có thể bổ xung các công thức, hình ảnh minh hoạ một cách hợp lý. Đây là bước mà giáo viên cần vận dụng khả năng, kiến thức về tin học của mình để xây dựng bài giảng. Nừu slide cần hình ảnh minh họa, giáo viên nên tìm kiếm hình ảnh để chèn vào. Hay slide kia đang trình bày một kết quả của thí nghiệm vào để tăng tính thực tế. Công đoạn đưa nội dung vào các slide giáo viên cũng nên lưu ý đến số lượng chữ, mầu sắc, kích thước trên các slide. Giáo viên nên tóm tắt vấn đề mình muốn trình bày dưới dạng keyword một cách rõ ràng và dễ hiểu. Nhìn vào slide giáo viên có nhiệm vụ giải thích kỹ càng và mở rộng nó ra chứ không phải là đọc các dòng chữ trên slide. Nừu chưa quen với cách giảng dạy này, giáo viên có thể thấy khó khăn trong việc xác định xem slide tiếp theo sẽ trình bày về vấn đề gì. Không sao, giáo viên có thể in ra một bản handout để vừa giảng vừa nhìn vào nó để xác định vấn đề sẽ nói tiếp theo. Sử dụng GAĐT cũng có nghĩa giáo án truyền thống được lãng quên. Chúng ta hãy nhìn lại xem trong giáo án truyền thống chúng ta trình bày những gì? Phải chăng là tất cả nội dung bài giảng ? Vậy thì đối với GAĐT chỉ gồm một số slide, các slide chỉ chứa keyword, hình ảnh thì làm thế nào mà giáo viên có thể quan sát hết các vấn đề cần được giảng? Phải chăng giáo viên thích nói nội dung nào trước đều được? Những nội dung cảm thấy thích thì tập trung nhiều thời gian vào và giảm thời gian cho các nội dung còn lại? Liệu một giáo viên mới có thể nhớ hết nội dung mình đã chuẩn bị trước buổi dạy? Chỉ cần chúng ta xây dựng đề cương giảng dạy thì vấn đề trên sẽ được giải quyết ngay lập tức. Đề cương này sẽ ghi rõ số tiết dạy của môn học, tên bài giảng tương ứng với các tiết học nội dung cụ thể sẽ được trình bày trong mỗi tiết học là gì? Vấn đề nào trình bày trước, vấn đề nào trình bày sau? Vấn đề nào cần được trọng tâm và nhấn mạnh? Sở dĩ chúng ta phải chuẩn bị kỹ lưỡng như vậy là vì nếu tiết giảng dạy đó giáo viên chưa nói hết nội dung các slide hay đã trình bày hết nhưng thời gian còn thừa đồng nghĩa với việc “cháy giáo án” và học trò rất dễ nhận ra. Kết hợp đề cương này cùng handuot một cách hợp lý giáo viên ắt hẳn sẽ không còn băn khoăn gì về cách dạy mới mẻ này. IV. Giải pháp cho việc áp dụng GAĐT Đúng là GAĐT tử lắm công phu thật. Có lẽ vì thế mà một số trường đã thực hiện nhưng chỉ mang tính hình thức và dừng lại ở các tiết học thao giảng. Phải chăng có nhiều rào cản trong việc áp dụng phương pháp mới này? Đó là do cơ sơ vật chất hay do sự ngại ngùng của một số giáo viên khi làm quen với các kỹ thuật tin học để phục vụ cho môi trường giảng dạy mới? Trở ngại thứ nhất chúng tôi nghĩ có thể giải quyết được vì hiện nay 1bộ máy tính và máy chiếu cũng không đắt lắm, còn vấn đề thứ hai cũng hoàn toàn có thể khắc phục được nếu các đồng chí giáo viên tâm huyết, có những chuyển biến về nhận thức. Với đội ngũ giáo viên tin học hiện có trong nhà trường, chỉ cần tổ chức một số buổi seminar về cách sử dụng máy chiếu, thiết lập các hiệu ứng trong PowerPoint cho toàn thể các giáo viên các bộ môn khác để họ có thể tự mình thiết kế cho mình một GAĐT riêng cho mình. Ngoài ra, các thầy cô giáo trong cùng tổ chuyên môn nên có các buổi thao giảng để thu nhận những góp ý chân thành từ những người khác, từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy theo phương pháp mới. Chúng tôi nghĩ rằng, với khả năng sư phạm vốn có cộng thêm một ít bồi dưỡng về kiến thức tin học, các giáo viên hoàn toàn có thể thiết kế được bài giảng thiết kế điện tử để thể hiện tốt hơn phương pháp sư phạm, góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy. Do thời gian và năng lực có hạn nên những vấn đề đưa ra chắc chắn sẽ có nhiều thiếu sót. Tôi rất mong lĩnh hội được những ý kiến đóng góp của các đồng chí và bè bạn đồng nghiệp, giúp cho đề tài của tôi được tốt hơn và có tác dụng trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Tôi xin chân thành cảm ơn ! Hải Phòng, ngày 10 tháng 10 năm 2007 Người viết Bùi Đình Đông

File đính kèm:

  • docskkToan6-07-08.doc
Giáo án liên quan