ruyền thông đa phương tiện (multimedia communication) là một khái niệm mới được xuất hiện trong những năm gần đây. Có thể hiểu Truyền thông đa phương tiện chính là quá trình chuyển tải thông tin bằng âm thanh và hình ảnh hay sự kết hợp giữa âm thanh và hình ảnh (có thể là kênh chữ, kênh hình).
Theo báo cáo của Trung tâm nghiên cứu kĩ thuật máy tính của Mỹ năm 1993 (tạm dịch): “Con người lưu lại trong bộ nhớ được 20% những gì họ thấy, 30% những gì họ nghe. Nhưng họ nhớ 50% những gì họ thấy và nghe; và con số này lên tới 80% nếu họ thấy và nghe các sự vật, hiện tượng một cách đồng thời”.
Trên cơ sở số liệu này, chúng ta có thể thấy việc dạy học môn Lịch sử và Địa lí 4 với những phương tiện truyền thống như phấn trắng bảng đen, lời của thầy và một số phương tiện dạy học mang tính tĩnh (bản đồ, lược đồ, tranh ảnh) chắc chắn hiệu quả sẽ không cao, mức độ ghi nhớ của học sinh sẽ thấp và rất chóng quên. Ngược lại, nếu học sinh được quan sát, tiếp cận với phương tiện dạy học mang tính động như một đoạn phim, bản đồ, lược đồ (được thiết kế logic các hiệu ứng theo các sự kiện), thì chắc chắn các tiết học môn Lịch sử, Địa lí sẽ gây hứng thú tích cực cho học sinh, giúp các em tiếp thu thông tin nhanh hơn, chính xác hơn và nhớ lâu hơn
28 trang |
Chia sẻ: thuongad72 | Lượt xem: 516 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Ứng dụng công nghệ thông tin trong thiết kế bài giảng điện tử môn Lịch sử và Địa lí lớp 4 - Lê Thúy Hằng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường Tiểu học Lý Thường Kiệt Lê Thúy Hằng
Sáng kiến kinh nghiệm
1
MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ 2
I – LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 2
II - MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 3
III - ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 3
IV - ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT THỰC NGHIỆM 3
V - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4
VI - PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4
NỘI DUNG 5
I – VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN 5
II - THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 5
1. Thuận lợi 5
2. Khó khăn 6
IV. MỘT SỐ LƯU Ý KHI THIẾT KẾ BÀI GIẢNG ĐIỆN TỬ 7
1. Lựa chọn bài phù hợp 7
2. Tránh lạm dụng hiệu ứng trình chiếu 7
3. Chọn hình nền đơn giản 8
4. Nên chọn slide trống sau slide kết của các hoạt động 8
5. Lựa chọn thông tin hữu ích 9
6. Không lạm dụng bài giảng điện tử 9
V. QUI TRÌNH THIẾT KẾ BÀI GIẢNG ĐIỆN TỬ 10
VI. ỨNG DỤNG CNTT TRONG THIẾT KẾ BÀI GIẢNG ĐIỆN TỬ 13
1. Lịch sử 4 13
2. Địa lí 4 20
* Bài giảng E – Learning 24
VII. KẾT QUẢ 25
VIII. BÀI HỌC KINH NGHIỆM 26
KẾT LUẬN 27
TÀI LIỆU THAM KHẢO 28
Trường Tiểu học Lý Thường Kiệt Lê Thúy Hằng
Sáng kiến kinh nghiệm
2
ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong giai đoạn ngày càng phát triển của xã hội hiện nay, xu hướng dạy
học hiện đại kết hợp với những thành tựu công nghệ thông tin đã và đang diễn ra
một cách phổ biến ở các ngành học, cấp học. Công nghệ thông tin với tư cách là
một phương tiện hỗ trợ cho việc dạy học đang chứng tỏ được những ưu thế và
hiệu quả trong quá trình dạy học nói chung và từng ngành học, cấp học, môn
học nói riêng.
Việc dạy học cần phát huy tính tích cực của học sinh nhằm phát triển cho
trẻ một con người toàn diện, có tố chất năng động, sáng tạo, có năng lực giải
quyết vấn đề,có khả năng đáp ứng yêu cầu của dòng tri thức không ngừng gia
tăng trong xã hội hiện nay. Do vậy, việc tích lũy phương pháp và hình thức dạy
học đạt hiệu quả cao chính là việc làm cần thiết và thường xuyên của mỗi giáo
viên. Và công nghệ thông tin mở ra triển vọng to lớn trong việc đổi mới các
phương pháp và hình thức dạy học. Khi bàn đến phương pháp dạy học, tuy có
nhiều cách hiểu khác nhau nhưng tất cả đều hướng đến mục tiêu của quá trình
dạy học và vai trò của giáo viên – học sinh trong quá trình dạy học. Bên cạnh
đó, một yếu tố có vai trò trung gian trong quá trình dạy học đó chính là phương
tiện dạy học. Xét trên phương diện nào đó thì phương tiện dạy học cũng chính là
quá trình truyền thông. Dạy học là quá trình truyền thông nhiều chiều trong đó
học sinh là đối tượng trung tâm, là chủ thể và giáo viên có vai trò chủ đạo để quá
trình truyền thông đạt hiệu quả. Trước đây, công việc chuẩn bị cho một tiết dạy
của giáo viên rất phức tạp, ngoài việc soạn giáo án, giáo viên còn phải chuẩn bị
đồ dùng dạy học, tranh ảnh minh hoạ cho bài học và đặc biệt việc thao tác với
các đồ dùng trực quan cùng với việc tổ chức các hoạt động cho học sinh mất rất
nhiều thời gian. Dạy học với giáo án điện tử giúp giáo viên tiết kiệm được nhiều
thời gian trong việc ghi bảng, trong thao tác sử dụng những loại đồ dùng trực
quan truyền thống hay hướng dẫn học sinh thực hiện các loại bài tập, giới thiệu
tài liệu tham khảo... Thay vào đó, giáo viên có điều kiện tốt để tổ chức cho học
sinh trao đổi thảo luận, phát huy tính tích cực, say mê, hứng thú trong học tập.
Mặt khác trong một tiết học, giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh tiếp cận
một lượng kiến thức phong phú, sâu rộng và sinh động.
Trường Tiểu học Lý Thường Kiệt Lê Thúy Hằng
Sáng kiến kinh nghiệm
3
Trong chương trình tiểu học, lịch sử và địa lí là hai phần của môn Lịch sử
và Địa lí. Vì vậy nó có mối quan hệ khăng khít với nhau. Sự liên môn của môn
Lịch sử và Địa lí càng yêu cầu học sinh phải tiếp thu lượng kiến thức song hành.
Phần Lịch sử trong môn Lịch sử và Địa lí 4 cung cấp cho học sinh các sự
kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu có hệ thống theo dòng thời gian của
lịch sử Việt Nam. Đồng thời môn học giúp cho học sinh hiểu mối quan hệ giữa
các sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử trong quá khứ và hiện tại của xã hội loài
người thuộc phạm vi đất nước Việt Nam. Như vậy, học sinh phải học hỏi tìm
hiểu môi trường xung quanh, thiên nhiên, văn hóa, Từ đó, các em biết tự hào,
tôn kính cội nguồn dân tộc để hình thành nhân cách con người toàn diện.
Phần Địa lí trong môn Lịch sử và Địa lí 4 yêu cầu học sinh phải nắm được
sự vật, hiện tượng và các mối quan hệ địa lí ở các vùng miền chính trên đất nước
Việt Nam. Sự cần thiết học sinh phải tìm hiểu thiên nhiên và hoạt động sản xuất
của con người ở các vùng miền khác nhau.
Môn Lịch sử và Địa lí 4 có lượng kiến thức dồi dào, các em phải chủ động
tiếp nhận kiến thức về các chủ đề trên với nhiều hình thức khác nhau. Những
chủ đề này rất thiết thực và gần gũi, liên quan đến cuộc sống của các em. Vì thế
các em cần phải tiếp nhận một cách hiệu quả.
Để việc dạy học có hiệu quả, ngoài việc phối hợp các phương pháp thì
việc áp dụng Công nghệ thông tin trong thiết kế giáo án điện tử sẽ tạo những giờ
học có hứng thú với học sinh. Xuất phát từ những suy nghĩ đó, tôi chọn nghiên
cứu đề tài: “Ứng dụng công nghệ thông tin trong thiết kế bài giảng điện tử
môn Lịch sử và Địa lí lớp 4”.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thiết kế bài giảng
điện tử nói chung và thiết kế bài giảng điện tử môn Lịch sử và Địa lí 4 nói riêng
nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử và Địa lí 4, đồng thời tạo ra
những giờ học hứng thú đối với học sinh. Ngoài ra tôi muốn giúp cho những
giáo viên còn hạn chế trong việc thiết kế bài giảng điện tử có thể tự mình thiết
kế những bài giảng chất lượng, phục vụ cho việc giảng dạy.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Chương trình môn Lịch sử và Địa lí lớp 4.
- Việc thiết kế bài giảng điện tử nói chung và bài giảng điện tử môn Lịch
sử và Địa lí 4 nói riêng.
- Học sinh lớp 4.
- Quá trình dạy học Lịch sử và Địa lí 4.
IV. ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT THỰC NGHIỆM
Trường Tiểu học Lý Thường Kiệt Lê Thúy Hằng
Sáng kiến kinh nghiệm
4
Đổi mới phương pháp dạy học môn Lịch sử và Địa lí 4 có ứng dụng công
nghệ thông tin trong việc thiết kế bài giảng điện tử nhằm tạo hứng thú cho học
sinh trong giờ học. Đồng thời giúp cho học sinh tiếp thu thông tin nhanh hơn,
chính xác hơn và nhớ lâu hơn.
Dạy thực nghiệm học sinh lớp 4 trường tiểu học Lý Thường Kiệt – quận
Long Biên – Hà Nội
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu tài liệu: SGK, SGV môn Lịch sử và Địa lí 4; Các phần mềm
hỗ trợ thiết kế bài giảng điện tử.
- Dự giờ đồng nghiệp.
- Phương pháp điều tra, quan sát: Giữa giáo viên với học sinh, giáo viên
với giáo viên, tình hình thực tế của lớp và trường.
VI. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Trong khoảng thời gian 3 năm từ năm học 2008 – 2009 đến năm học 2011
– 2012. Từ đó rút kinh nghiệm cho những năm sau.
.
Trường Tiểu học Lý Thường Kiệt Lê Thúy Hằng
Sáng kiến kinh nghiệm
5
NỘI DUNG
I. CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY - HỌC
Truyền thông đa phương tiện (multimedia communication) là một khái
niệm mới được xuất hiện trong những năm gần đây. Có thể hiểu Truyền thông
đa phương tiện chính là quá trình chuyển tải thông tin bằng âm thanh và hình
ảnh hay sự kết hợp giữa âm thanh và hình ảnh (có thể là kênh chữ, kênh hình).
Theo báo cáo của Trung tâm nghiên cứu kĩ thuật máy tính của Mỹ năm
1993 (tạm dịch): “Con người lưu lại trong bộ nhớ được 20% những gì họ thấy,
30% những gì họ nghe. Nhưng họ nhớ 50% những gì họ thấy và nghe; và con số
này lên tới 80% nếu họ thấy và nghe các sự vật, hiện tượng một cách đồng thời”.
Trên cơ sở số liệu này, chúng ta có thể thấy việc dạy học môn Lịch sử và Địa lí
4 với những phương tiện truyền thống như phấn trắng bảng đen, lời của thầy và
một số phương tiện dạy học mang tính tĩnh (bản đồ, lược đồ, tranh ảnh) chắc
chắn hiệu quả sẽ không cao, mức độ ghi nhớ của học sinh sẽ thấp và rất chóng
quên. Ngược lại, nếu học sinh được quan sát, tiếp cận với phương tiện dạy học
mang tính động như một đoạn phim, bản đồ, lược đồ (được thiết kế logic các
hiệu ứng theo các sự kiện),thì chắc chắn các tiết học môn Lịch sử, Địa lí sẽ
gây hứng thú tích cực cho học sinh, giúp các em tiếp thu thông tin nhanh hơn,
chính xác hơn và nhớ lâu hơn.
Có người đã nói: “Một hình ảnh, một đoạn phim có thể thay thế cho rất
nhiều lời giảng”. Giảng dạy bằng giáo án điện tử hiện nay được nhiều nhà
trường áp dụng để truyền đạt kiến thức cho học sinh một cách nhanh và hiệu quả
nhất. Điều lớn nhất mà truyền thông đa phương tiện đem lại trong các bài giảng
điện tử là lượng kiến thức lớn, hình ảnh trực quan sinh động được truyền tải đến
học sinh. Không những tạo ra những tiết học lôi cuốn với học sinh mà còn hạn
chế việc giáo viên cháy giáo án (nhất là các tiết học môn Lịch sử, địa lí) vì thời
gian được kiểm soát bằng máy. Như đã nói ở phần đầu, trong các tiết học thông
thường (không sử dụng bài giảng điện tử), giáo viên mất rất nhiều thời gian treo
tranh ảnh, bản đồ, lược đồ, tổ chức các hoạt động cho học sinh thì trong các tiết
học có sử dụng bài giảng điện tử thì chuyện đó chỉ diễn ra trong “nháy mắt”, chỉ
sau một cái “click” chuột.
II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY – HỌC MÔN LỊCH SỬ VÀ ĐỊA LÍ Ở
TRƯỜNG TIỂU HỌC
1. Thuận lợi
Trường Tiểu học Lý Thường Kiệt Lê Thúy Hằng
Sáng kiến kinh nghiệm
6
- Về điều kiện cơ sở vật chất: Nhà trường được trang bị tương đối đầy đủ
các đồ dùng trực quan như lược đồ, bản đồ, tranh ảnh minh họa, Ngoài ra,
được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, nhà trường được trang bị các phương
tiện dạy học hiện đại như máy vi tính, máy chiếu đa vật thể, máy projecter, ti vi
màn hình lớn,giúp cho giáo viên có cơ hội tiếp cận được xu hướng hiện đại và
áp dụng vào giảng dạy.
- Phần lớn giáo viên trong nhà trường được đào tạo trên chuẩn. Một số
giáo viên cốt cán về lĩnh vực công nghệ thông tin thường xuyên được tham gia
các lớp bồi dưỡng do Phòng giáo dục tổ chức. Sau đó về phổ biến, hướng dẫn
giáo viên trong trường nên giáo viên luôn được cập nhật, tiếp cận với các phần
mềm, ứng dụng mới phục vụ việc dạy và học. Bên cạnh đó, giáo viên cũng tích
cực đổi mới phương pháp dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng
phương tiện dạy học hiện đại trong giảng dạy.
- Phần lớn cha mẹ học sinh quan tâm tới việc học tập của con em, thường
xuyên phối hợp với giáo viên và nhà trường trong việc giáo dục học sinh.
- Đối với học sinh lớp 4 – đây là lứa tuổi thích khám phá những điều mới
lạ về cuộc sống xung quanh các em. Các em vô cùng hứng thú khi tiếp cận với
những cái mới, đặc biệt về khoa học, tự nhiên, xã hội, những kiến thức được mở
rộng thêm từ chính những bài học trong sách của các em.
2. Khó khăn
- Các phương tiện trực quan phục vụ dạy học dù tương đối đầy đủ nhưng
với môn Lịch sử và Địa lí 4 hiện nay còn rất hạn chế. Ngoài một số bản đồ, lược
đồ phục vụ môn học thì có thêm một số tranh ảnh minh họa. Và số lượng bản
đồ, lược đồ, tranh ảnh đó chưa đủ cho các bài dạy, chưa kể đến các đoạn phim
tài liệu để tái hiện kiến thức lịch sử cũng chưa có. So với định hướng đổi mới
phương pháp trong giai đoạn hiện nay thì những phương tiện dạy học không đáp
ứng được yêu cầu và không thể tạo hứng thú học tập cho học sinh. Các thiết bị
hiện đại như máy chiếu đa vật thể, máy projecter số lượng còn quá ít nên hạn
chế việc giáo viên sử dụng để ứng dụng công nghệ thông tin cho bài giảng của
mình.
- Một bộ phận cha mẹ học sinh chưa thực sự coi trọng việc học của con
em, chưa phối hợp với giáo viên trong việc rèn học sinh ở nhà, cũng như giúp
các em sưu tầm các tư liệu, tranh ảnh phục vụ cho bài học.
- Trong nhiều năm dạy học lớp 4, tôi nhận thấy trong những tiết học môn
Lịch sử, Địa lí, các em còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức.
Khi giáo viên kiểm tra bài cũ, có nhiều em không nhớ nổi mốc thời gian của sự
kiện vừa học bài trước hay chỉ nắm được một vài ý chính (chưa đầy đủ) trong
các sự kiện đã học. Chính vì thế, một số em còn cảm thấy sợ học môn học này vì
phải ghi nhớ lượng kiến thức tương đối lớn.
- Không phải giáo viên nào cũng tích cực ứng dụng công nghệ thông tin
vào việc thiết kế giáo án điện tử, đặc biệt là môn Lịch sử và Địa lí. Một trong
Trường Tiểu học Lý Thường Kiệt Lê Thúy Hằng
Sáng kiến kinh nghiệm
7
những lí do đầu tiên đó là trình độ tin học của giáo viên còn hạn chế (đặc biệt là
giáo viên lớn tuổi) nên rất ngại thao tác với máy móc. Thứ hai, việc tìm kiếm tư
liệu của môn Lịch sử, Địa lí không phải dễ dàng và không phải tư liệu nào cũng
có thể áp dụng vào bài học một cách triệt để.
III. MỘT SÓ LƯU Ý KHI THIẾT KẾ BÀI GIẢNG ĐIỆN TỬ
Trong quá trình ứng dụng công nghệ thông tin vào việc thiết kế bài giảng
điện tử nói chung, để bài giảng được thiết kế đạt kết quả tốt nhất, tôi nhận thấy
cần lưu ý một số điểm như sau:
1. Lựa chọn bài phù hợp
Trong các môn học ở Tiểu học nói chung và môn Lịch sử & Địa lí 4 nói
riêng, không phải bài nào trong chương trình học cũng có thể thiết kế và giảng
dạy bằng giáo án điện tử. Giáo viên cần cân nhắc và lựa chọn kĩ xem có nên sử
dụng công nghệ thông tin trong bài học đó không. Vì khi đã lựa chọn ứng dụng
công nghệ thông tin để thiết kế bài giảng cần phát huy tối đa hiệu quả của truyền
thông đa phương tiện và phải đảm bảo mục tiêu của bài học. Việc lựa chọn bài
giảng hợp lí để ứng dụng công nghệ thông tin quyết định rất lớn đến thành công
của tiết dạy.
Ví dụ: Bài Nước ta dưới ách đô hộ của các triều đại phong kiến phương
Bắc không nên ứng dụng công nghệ thông tin vì nội dung bài yêu cầu học sinh
cần nắm được là:
+ Từ năm 179 TCN đến năm 938, nước ta bị các triều đại phong kiến
phương Bắc đô hộ.
+ Kể lại một số chính sách áp bức, bóc lột của các triều đại phong kiến
phương Bắc đối với nhân dân ta.
+ Nhân dân ta đã không cam chịu làm nô lệ, liên tục đứng lên khởi nghĩa
đánh đuổi quân xâm lược, giữ gìn nền văn hóa dân tộc.
Nếu ứng dụng công nghệ thông tin trong bài này thì chỉ cần đưa ra bảng
thống kê các cuộc khởi nghĩa, đấu tranh giành độc lập dân tộc hay hình ảnh một
số cuộc khởi nghĩa. Như vậy, công nghệ thông tin chỉ mang tính chất đưa ra
hình ảnh minh họa và thay nội dung phiếu thảo luận, không được khai thác một
cách triệt để những ứng dụng khác của công nghệ. Đồng thời với cách khai thác
hình ảnh như vậy cũng không khai thác hết và không đi sâu vào trọng tâm của
bài học.
2. Chọn hình nền đơn giản
Cùng với các hiệu ứng, giáo viên nên chọn hình nền đơn giản và phù hợp
bài dạy để thể hiện đúng nội dung. Theo kinh nghiệm của tôi, tôi thường chọn
nền cho slide là một màu đen, xanh đậm tương ứng với phông chữ màu sáng
Trường Tiểu học Lý Thường Kiệt Lê Thúy Hằng
Sáng kiến kinh nghiệm
8
(trắng, vàng nhạt) hoặc nền sáng màu ứng với phông chữ màu đen, xanh. Tránh
chọn màu nền cầu kì, nhiều màu sắc, không nên sử dụng hình ảnh động, hoa lá,
vì sẽ không thể hiện rõ nội dung, làm cho học sinh khó đọc và bị phân tán bởi
những hình ảnh phụ.
Ví dụ: Bài Thủ đô Hà Nội
Giáo viên có thể đưa ra tư liệu là hình ảnh, đoạn phim về Hà Nội cổ. Đó
có thể là những hình ảnh, đoạn phim đen trắng. Và nếu giáo viên để hình nền
với sắc màu rực rỡ, nhiều hình ảnh động xung quanh tư liệu đen trắng sẽ gây
mất tập trung, học sinh không chú ý tới nội dung cần xem, mà chỉ chú ý những
hình ảnh nhiều màu sắc hay những hình ảnh động xung quanh.
3. Nên chọn slide trống sau slide kết của các hoạt động chính trong bài
dạy
Trong một bài giảng nói chung và môn Lịch sử & Địa lí 4 nói riêng, thông
thường sẽ có khoảng 2 – 3 hoạt động học tập. Kết thúc mỗi hoạt động của học
sinh, giáo viên thường có lời chốt lại kiến thức hoặc chuyển ý sang hoạt động
tiếp theo. Nếu lúc này trên màn hình vẫn còn hiển thị hình ảnh của hoạt động
trước sẽ làm cho học sinh bị phân tán, không tập trung vào lời giảng của giáo
viên. Vì thế, tôi thường thiết kế thêm một slide trống (slide màu đen) để khi chốt
kiến thức hoặc chuyển ý, giáo viên sẽ chuyển sang slide trống này, lúc này màn
hình như một màn chiếu bình thường và các em sẽ tập trung vào lời giảng của
giáo viên hơn.
4. Khai thác triệt để thông tin, hình ảnh lựa chọn
Ngày nay, mạng Internet có rất nhiều trang thông tin cung cấp tư liệu hình
ảnh, âm thanh, clip tư liệu, mà giáo viên có thể tìm để làm tư liệu cho bài
giảng của mình. Khai thác thông tin trên mạng Internet là rất cần thiết để nâng
cao chất lượng bài giảng và kết quả giảng dạy. Tuy nhiên, việc khai thác các
thông tin đó cần phải có kĩ năng chọn lọc. Vì không phải thông tin nào cũng có
thể phục vụ được cho bài giảng. Nên lựa chọn thông tin hữu ích nhất mà giáo
viên cho là cần thiết, phù hợp với nội dung của bài học. Tránh biến một tiết học
trở thành một tiết xem tranh ảnh, phim tư liệu mà làm loãng kiến thức của bài
học, khiến các em dễ lẫn và giáo viên dễ bị “cháy” giáo án.
Ví dụ: Bài Hoạt động sản xuất của người dân ở đồng bằng duyên hải
miền Trung (tiếp theo). Để khai thác về nội dung hoạt động du lịch, giáo viên
có thể tìm thấy trên mạng Internet rất nhiều hình ảnh đẹp về các bãi biển ở miền
Trung hay các di sản văn hóa ở đây như cố đô Huế, thánh địa Mĩ Sơn, phố cổ
Hội An, Tuy nhiên, giáo viên chỉ nên lựa chọn những hình ảnh phù hợp nội
dung bài như các bãi biển ở nhiều địa danh khác nhau và nên lựa chọn những địa
danh nổi tiếng, sắp xếp chúng theo thứ tự từ bắc vào nam như bãi biển Sầm Sơn
(Thanh Hóa), Cửa Lò (Nghệ An), Thiên Cầm (Hà Tĩnh), Lăng Cô (Thừa Thiên
Trường Tiểu học Lý Thường Kiệt Lê Thúy Hằng
Sáng kiến kinh nghiệm
9
Huế), Mỹ Khê, Non Nước (Đà Nẵng), Nha Trang (Khánh Hòa), Mũi Né (Bình
Thuận)... Vì qua hình ảnh những bãi biển đẹp, học sinh sẽ nhận ra lí do vì sao ở
đây lại diễn ra hoạt động du lịch và hoạt động này rất phát triển. Đồng thời giúp
các em nhớ lại nội dung bài trước: Miền Trung có bờ biển kéo dài từ bắc vào
nam nên điều này còn giúp cho công nghiệp đóng tàu cũng rất phát triển. Và với
vùng đất nhiều cát, nhiều nắng này còn thuận lợi để phát triển nghề trồng mía,
giúp cho ngành mía đường hoạt động tốt.
Bên cạnh đó, trên mạng Internet có rất nhiều trang chuyên về giáo dục,
như trang baigiang.violet.vn, bachkim.com, tailieu.vn,. Trên những trang
thông tin này còn giới thiệu rất nhiều bài giảng điện tử mẫu của tất cả các cấp
học, các khối lớp và các môn học của từng khối lớp. Giáo viên chỉ nên tham
khảo những bài giảng đó, không nên lấy đó mà áp dụng với học sinh của lớp
mình. Vì thông thường, những bài giảng điện tử được đăng trên các trang
chuyên về giáo dục đó chưa được thực nghiệm trên thực tế, nhiều hình ảnh
không phù hợp, phông chữ bị lỗi,
5. Tránh lạm dụng hiệu ứng trình chiếu
Một số giáo viên khi mới tiếp cận với bài giảng điện tử thường chọn
những hiệu ứng phức tạp, kết hợp nhiều hiệu ứng phức tạp trong một slide và
cho rằng như vậy sẽ gây hứng thú cho học sinh, tạo hiệu quả cho giờ học.
Nhưng trong thực tế, việc đó sẽ gây ra tình trạng phải mất nhiều thời gian để liên
kết các hiệu ứng đó với nhau. Đồng thời, việc áp dụng những hiệu ứng phức tạp
sẽ gây mất tập trung cho học sinh. Các em sẽ chỉ chú tâm xem các hiệu ứng mà
giáo viên trình chiếu, chứ không chú ý vào nội dung của những tư liệu mà giáo
viên đưa ra.
6. Không lạm dụng bài giảng điện tử
Bài giảng điện tử có rất nhiều ưu điểm nhưng cũng có những hạn chế nhất
định. Một trong những hạn chế đó là việc chạy lần lượt của các slide. Chính vì
thế mà sau mỗi phần kiến thức cần có nội dung chốt lại không đọng lại được
trên màn hình. Và việc kết hợp với phương pháp truyền thống, kết hợp phấn
trắng bảng đen để ghi lại những nội dung cần lưu ý là rất cần thiết để giúp học
sinh khắc sâu kiến thức. Điều đó đặc biệt cần thiết với những môn học như Lịch
sử vì trong sách giáo khoa không phân rõ đề mục như môn Địa lí. Bài giảng điện
tử chỉ là phương tiện hỗ trợ cho tiết học, chứ không thể thay thế hoàn toàn vai
trò chủ đạo của người giáo viên.
Sự kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp truyền thống và hiện đại tất
nhiên sẽ đem lại chất lượng và hiệu quả cao trong quá trình giảng dạy.
Ví dụ: Bài Khởi nghĩa Hai Bà Trưng, nội dung giáo viên cần khắc sâu và
ghi lên bảng cho học sinh:
Trường Tiểu học Lý Thường Kiệt Lê Thúy Hằng
Sáng kiến kinh nghiệm
10
Nguyên nhân:
Vì lòng căm thù giặc, uất ức trước cảnh nước mất nhà tan.
Vì có mối thù nhà với Tô Định.
Diễn biến:
Khởi nghĩa diễn ra từ Hát Môn => Mê Linh => Cổ Loa => Luy
Lâu
Kết quả, ý nghĩa:
Kết quả: Chưa đầy một tháng, khởi nghĩa đã thắng lợi.
Ý nghĩa: Sau hơn 2 thế kỉ, lần đầu tiên nhân dân ta giành được
độc lập.
IV. QUY TRÌNH THIẾT KẾ MỘT BÀI GIẢNG ĐIỆN TỬ
Bước 1: Xác định mục tiêu của bài học
Việc đầu tiên mà giáo viên cần làm khi soạn bất kì bài giáo án nào (trên
văn bản Word hay bài giảng điện tử) là xác định chính xác mục tiêu của bài học
đó. Mục tiêu của bài học có thể dựa vào phần Mục tiêu trong Sách giáo viên
hoặc Chuẩn kiến thức kĩ năng của từng khối lớp. Vì xác định đúng mục tiêu bài
học, giáo viên mới có thể tìm đúng tư liệu phục vụ bài học và xây dựng bài
giảng đúng yêu cầu.
Bước 2: Lập dàn ý trình bày
Giáo viên cần định hình trong đầu ý tưởng và biên soạn rõ ràng ra nháp
nội dung cần trình bày trong bài giảng. Nội dung cần thể hiện trong bài giảng
điện tử cần xác định rõ:
- Phần kiến thức trọng tâm của bài.
- Các câu hỏi, bài tập, nội dung thảo luận của học sinh hay những hoạt
động mà học sinh cần thực hiện.
- Hình ảnh, thông tin, đoạn phim,sẽ được sử dụng minh họa cho phần
kiến thức của bài học như thế nào.
Toàn bộ ý tưởng của giáo viên sẽ được trình bày dưới dạng các slide trong
bài giảng điện tử.
Bước 3: Tìm tư liệu, hình ảnh, âm thanh và các phần mềm để biên soạn
Tư liệu phục vụ cho bài giảng có thể được tìm ở nhiều nguồn khác nhau:
+ Trong sách báo, tạp chí,
+ Qua đĩa CD, VCD, DVD,
+ Thông dụng nhất là qua mạng Internet, tìm kiếm trên trang web:
Google.com,
Trường Tiểu học Lý Thường Kiệt Lê Thúy Hằng
Sáng kiến kinh nghiệm
11
Những tư liệu này sẽ được nhập vào máy tính bằng cách sử dụng các phần
mềm Fash, Violet,
Bước 4: Thiết kế bài giảng điện tử
Đây là phần đòi hỏi giáo viên sử dụng các kĩ thuật với máy tính, đặc biệt
là trong phần mềm Power point. Đó là việc kết hợp các hiệu ứng với những tư
liệu đã lựa chọn để tạo các slide phù hợp với nội dung bài học.
Sau đây tôi xin đưa ra một số “mẹo” để chỉnh sửa hình ảnh, âm
thanh,sao cho đúng ý đồ của giáo viên khi soạn bài.
- Khi chèn hình ảnh vào slide nhưng hình ảnh không rõ nét, màu nhạt,ta
có thể nháy đúp chuột vào hình ảnh đó. Sau đó trên màn hình hiển thị cửa sổ
Fomat Picture, chọn phần Picture, chọn Brightness (chỉnh độ sáng của ảnh) hoặc
Contrast (độ nét của ảnh)
- Khi giáo viên chọn được tư liệu là đoạn phim hoặc đoạn âm thanh phù
hợp với nội dung bài học nhưng nội dung lại quá dài mà thời gian của một tiết
học không cho phép, vì vậy cần cắt bớt đoạn không cần thiết. Ta có thể sử dụng
Windows Movie Maker (có sẵn trong Windows XP) để cắt đoạn phim hoặc âm
thanh. Hoặc khi không chọn lựa được đoạn phim nào phù hợp với nội dung bài
mà chỉ có những tranh ảnh cụ thể, thay vì việc trình chiếu từng bức tranh hoặc
chèn tranh kết hợp hiệu ứng cho tranh xuất hiện rồi mất đi, công việc tiến hành
sẽ mất nhiều thời gian. Ta cũng có thể sử dụng phần mềm Windows Movie
Maker (tạo đoạn phim) để kết nối các tranh đó thành môt đoạn clip theo ý tưởng
của mình.
Start / Program / Windows Movie Maker
Trường Tiểu học Lý Thường Kiệt Lê Thúy Hằng
Sáng kiến kinh nghiệm
12
Import Video (chèn đoạn phim để
cắt đoạn phim)
Import Picture (chèn tranh ảnh để
tạo thành đoạn clip)
- Soạn một slide đầu tiên có nội dung hoàn chỉnh về Font chữ, cỡ chữ, màu nền,
hiệu ứng của hình ảnh, Sau đó, copy slide đã chỉnh sửa xong này cho các
Trường Tiểu học Lý Thường Kiệt Lê Thúy Hằng
Sáng kiến kinh nghiệm
13
trang sau, chỉ cần thay đổi phần nội dung, còn các phần tùy chọn giữ nguyên,
không mất thời gian chọn lại.
V. ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG VIỆC THIẾT KẾ
BÀI GIẢNG ĐIỆN TỬ MÔN LỊCH SỬ VÀ ĐỊA LÍ 4
1. Môn Lịch sử 4
Các bài học trong chương trình đề cập đến những nội dung:
- Tình hình kinh tế - chính trị, văn hóa – xã hội.
- Một số nhân vật lịch sử điển hình.
- Các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, chiến thắng, chiến dịch, tiến công.
- Các thành tựu về văn hóa, nghệ thuật, khoa học, giáo dục.
Đặc trưng nổi bật của nhận thức lịch sử là con người không thể “nhìn
thấy” trực tiếp những gì thuộc về quá khứ. Mặt khác, lịch sử là những sự việc đã
diễn ra, là hiện thực trong quá khứ, là tồn tại khách quan, không thể “phán
đoán”, “suy luận” để biết lịch sử. Vì vậy, nhiệm vụ tất yếu của bộ môn Lịch sử
là tái tạo lịch sử, tức là cho học sinh tiếp nhận những thông tin từ sử liệu, tiếp
xúc với chứng cứ vật chất, những dấu vết của quá khứ, tạo ở các em những hình
ảnh cụ thể, sinh động, chín
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_ung_dung_cong_nghe_thong_tin_trong_thi.pdf
- bia.pdf