SKKN Phương pháp giảng dạy loại bài về động vật đại diện cho lớp (Phần động vật có xương sống) trong giảng dạy Sinh học 7

Sinh học là một môn học liên quan nhiều đến đời sống. Miêu tả hình ảnh tự nhiên, các sinh vật sống trên trái đất kể cả con người. Các em có thể tìm tòi, nghiên cứu và trả lời một vấn đề quen thuộc trong thực tế cuộc sống, kích thích tính tò mò, hứng thú, tích cực học tập của học sinh. ở trường tiểu học các em chưa được nghiên cứu một môn học riêng mà chỉ nghiên cứu chung trong môn học tự nhiên xã hội. Tuy vậy các em cũng được làm quen với một số khái niệm, đặc điểm, chức năng của một số cơ quan của cây, một số loài động vật nhưng chưa đi sâu vào bản chất. Lên THCS môn sinh học tách ra làm một môn học riêng biệt nghiên cứu cụ thể hơn, sâu hơn.

Chương trình sinh học 7 cũng như các môn học khác là chương trình hay sách. Mục đích của việc thay sách là phù hợp với sự phát triển của xã hội. Chương trình sinh học được trình bày theo cách tạo thuận lợi cho việc đổi mới phương pháp dạy học, tăng cường hoạt động tích cực của học sinh còn giáo viên là người tổ chức hướng dẫn học tập giúp học sinh đạt được mục tiêu của từng bài học cũng như của cả chương trình. Vậy làm thế nào để dạy một tiết sinh học 7 loại bài về động vật đại diện cho lớp đạt được mục tiêu trên?

 

doc42 trang | Chia sẻ: trangtt2 | Ngày: 16/07/2022 | Lượt xem: 207 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu SKKN Phương pháp giảng dạy loại bài về động vật đại diện cho lớp (Phần động vật có xương sống) trong giảng dạy Sinh học 7, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp giảng dạy loại bài về động vật đại diện cho lớp (phần ĐVCXS) trong giảng dạy sinh học 7. I/ Lý do chọn đề tài: Sinh học là một môn học liên quan nhiều đến đời sống. Miêu tả hình ảnh tự nhiên, các sinh vật sống trên trái đất kể cả con người. Các em có thể tìm tòi, nghiên cứu và trả lời một vấn đề quen thuộc trong thực tế cuộc sống, kích thích tính tò mò, hứng thú, tích cực học tập của học sinh. ở trường tiểu học các em chưa được nghiên cứu một môn học riêng mà chỉ nghiên cứu chung trong môn học tự nhiên xã hội. Tuy vậy các em cũng được làm quen với một số khái niệm, đặc điểm, chức năng của một số cơ quan của cây, một số loài động vật nhưng chưa đi sâu vào bản chất. Lên THCS môn sinh học tách ra làm một môn học riêng biệt nghiên cứu cụ thể hơn, sâu hơn. Chương trình sinh học 7 cũng như các môn học khác là chương trình hay sách. Mục đích của việc thay sách là phù hợp với sự phát triển của xã hội. Chương trình sinh học được trình bày theo cách tạo thuận lợi cho việc đổi mới phương pháp dạy học, tăng cường hoạt động tích cực của học sinh còn giáo viên là người tổ chức hướng dẫn học tập giúp học sinh đạt được mục tiêu của từng bài học cũng như của cả chương trình. Vậy làm thế nào để dạy một tiết sinh học 7 loại bài về động vật đại diện cho lớp đạt được mục tiêu trên? Sách lớp 7 triển khai năm học 2004 – 2005 tại Quảng Bình, cũng như các giáo viên khác tôi mới bắt đầu làm quen. Qua hơn một năm giảng dạy sinh học 7, nghiên cứu một số tài liệu, tôi mạnh dạn đưa ra một số ý kiến của bản thân về phương pháp giảng dạy loại bài về động vật đại diện cho lớp để một tiết sinh học đạt hiệu quả. Nếu đề tài này được ứng dụng thì nó giúp cho mỗi tiết dạy đạt được mục tiêu: "Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh" và " Giáo viên là người tổ chức hướng dẫn". Đó là lý do để bản thân tôi chọn sáng kiến này. II/ Phạm vi đề tài: Giới hạn đề tài: Đề tài này chỉ giới hạn ở dạng bài về động vật đại diện cho lớp, tìm ra phương pháp cách thức tiến hành, chuẩn bị để một tiết dạy sinh học 7 đạt kết quả cao và đạt mục tiêu của bài dạy. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài này nghiên cứu trong phạm vi bài "Cá chép" Đối tượng chính là học sinh lớp 7C, 7D trường THCS Thái Thuỷ III/ Khảo sát thực tế ban đầu: Việc dạy học sinh học trong các trường THCS hiện nay so với trước đã có những chuyển biến đáng kể. Đa số giáo viên dạy sinh học đã chú ý đến tính khoa học, chính xác, tính thực tiễn của kiến thức nhất là bảo đảm tính hệ thống và khối lượng kiến thức mà chương trình và sách giáo khoa đã quy định. Hiện nay trong xu thế đổi mới phương pháp dạy học, nhiều giáo viên đã cố gắng cải tiến phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, tư duy của học sinh. Giáo viên đã có nhiều phấn đấu để có nhiều tiết dạy tốt, tăng cường vận dụng các phương pháp dạy học. Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế trong việc dạy học như: - Đa số các tiết dạy sinh học còn rất ít sử dụng các thí nghiệm và đồ dùng dạy học. Tình trạng phổ biến hiện nay là nhiều giáo viên dạy sinh học vẫn dạy chung với những lời giảng triền miên, thậm chí còn có giáo viên chỉ làm nhiệm vụ trình bày lại sách giáo khoa hoặc đọc bài cho học sinh chép. Vốn bị coi là môn học phụ rất ít được quan tâđược nên ở nhiều nơi tình trạng trên đã kéo dài, dẫn đến kết quả tất yếu là học sinh chán học môn sinh học và giáo viên cũng chán dạy môn sinh học. - Trong một số tiết thao giảng hoặc đăng ký dạy giỏi, giáo viên đã hết sức cố gắng sử dụng hệ thống câu hỏi đàm thoại, gợi mở nên đã huy động được nhiều học sinh phát biểu ý kiến xây dựng bài. Tuy nhiên về mặt hình thức thì tiết học này có vẻ sinh động vì được học sinh tích cực hưởng ứng tham gia xây dựng bài. Nhưng đó chỉ là sự tích cực một cách thụ động vì sự tư duy của học sinh vẫn phụ thuộc vào sự dẫn dắt của giáo viên và phụ thuộc vào những kiến thức đã được sách giáo khoa cung cấp sẵn. Học sinh vẫn chưa tự lực, độc lập, chủ động tìm kiếm tri thức. Thực chất đó vẫn chỉ là sự truyền thụ đúng những kiến thức theo sự chuẩn bị của học sinh. Khi giảng dạy bài: "Cá chép" theo phương pháp trước đây, tôi nhận thấy số học sinh hoạt động tích cực còn ít, kết quả đạt được chưa cao. Qua điều tra hai lớp học tôi có số liệu sau: Lớp Tổng số học sinh Điểm giỏi Điểm khá Điểm TB Điểm dưới TB 7C 41 2 6 18 15 7D 40 1 5 17 17 IV/ Nội dung đề tài: 1. Quan niệm về phương pháp dạy: Trước hết cần phải hiểu về phương pháp dạy học là như thế nào? Trên lĩnh vực giáo dục, đổi mới phương pháp dạy học là một vấn đề đã được đề cập và bàn luận rất sôi nỗi từ nhiều thập kỷ qua. Các nhà nghiên cứu PPDH đã không ngừng nghiên cứu, tiếp thu những thành tựu mới của lý luận dạy học hiện đại để đưa nền giáo dục nước ta ngày càng hiện đại hơn, đáp ứng được nhu cầu học tập ngày càng cao của nhân dân. Trong bối cảnh toàn ngành giáo dục và đào tạo đang nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong hoạt động học tập, có nhiều định nghĩa về phương pháp dạy học nhưng theo các nhà nghiên cứu giáo dục, định nghĩa sau đây được xem là phù hợp. "Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động của giáo viên trong việc chỉ đạo tổ chức các hoạt động học tập nhằm tạo cho học sinh chủ động đạt được mục tiêu mà giáo viên đã dạy". Định nghĩa này quan niệm tổ chức các hoạt động học tập tự lực của học sinh là con đường hiệu quả nhất để đạt mục tiêu dạy học, chứuc năng cơ bản của giáo viên là chỉ đạo, tổ chức các hoạt động ấy để giúp học sinh chủ động chiếm lĩnh nội dung học tập. 2. Phương pháp giảng dạy loại bài về động vật đại diện. Phương phát chủ yếu cần vận dụng: phương pháp quan sát tìm tòi nghiên cứu qua các phương tiện trực quan như mẫu vật sống, tranh vẽ, mô hình... Vận dụng phương pháp quan sát tìm tòi, nghiên cứu đồng thời biết phối hợp với các phương pháp khác như phương pháp học tập hợp tác theo nhóm (nếu nhiệm vụ quan sát phức tạp, đòi hỏi có sự tham gia của nhiều người), phương pháp đàm thoại, gợi mở, giảng giải... cũng được sử dụng để gợi ý, hỗ trợ cho học sinh khi cần. Dưới đây là một ví dụ về cách thiết kế các hoạt động dạy và học khi vận dụng các phương pháp quan sát, tìm tòi – nghiên cứu: Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh + Nêu rõ yêu cầu quan sát + Giao nhiệm vụ quan sát cho học sinh + Hướng dẫn, theo dõi, gợi ý, hỗ trợ học sinh quan sát và thu thập thông tin + Gợi ý tìm các đầu mối, mắt xích liên hệ giữa các vấn đề. + Khuyến khích học sinh nêu nhận xét về kết quả của bạn và nêu thắc mắc. + Nhận xét điều chỉnh, hoàn thiện + Thực hiện quan sát để thu thập thông tin (cá nhân hoặc nhóm) + Xử lý thông tin bằng cách phân tích so sánh khái quát hoá để rút ra nhận xét và kết luận (cá nhân hoặc nhóm) + Thông báo kết luận đã phát hiện về đối tượng đã quan sát, học sinh khác nhận xét. + Tự sửa chữa, hoàn thiện Phương pháp giảng dạy chính của bài "Cá chép" là: phương pháp quan sát, tìm tòi, nghiên cứu qua phương tiện trực quan bằng mẫu vật thật, tranh vẽ; kết hợp với phương pháp học tập hợp tác theo nhóm. Ngoài ra còn sử dụng phương pháp đàm thoại gợi mở.... Vậy thế nào là phương pháp quan sát tìm tòi – nghiên cứu; phương pháp dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ a. Phương pháp quan sát tìm tòi – nghiên cứu Đây là phương pháp tổ chức cho học sinh tự quan sát, mô tả, phân tích đối tượng thu thập các thông tin... sau đó thực hiện các bài tapạ để xử lý các thông tin đã được thu thập (đối chiếu, so sánh, phân tích, nhận xét, khái quát hoá...) nhằm rút ra các đặc tính chung và riêng, các hiện tượng đã quan sát. Theo cách đó phương pháp quan sát tìm tòi – nghiên cứu đã thực sự kích thích tư duy tích cực, tự lực, chủ động giúp học sinh có thể tìm ra kiến thức. b. Phương pháp dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ Với những nhiệm vụ nhận thức mà sự nỗ lực tư duy của mỗi cá nhân học sinh chưa đủ, cần có sự tham gia của nhiều người thì cần phải tổ chức cho học sinh hoạt động hợp tác theo nhóm nhỏ. Những yêu cầu chính của phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm: Sự hợp tác trong nhóm phải dựa vào sự đóng góp của mỗi thành viên trong nhóm, không được ỷ lại vào người khác, mỗi người đều phải tư duy một cách tích cực. Do vậy phương pháp này bao gồm các bước sau: * Làm việc chung cả nhóm: + Giáo viên nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức + Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ. + Hướng dẫn cách làm việc của nhóm * Làm việc theo nhóm + Phân công trong nhóm, từng cá nhân làm việc rồi trao đổi trong nhóm. + Cử nhóm trưởng điều khiển hoạt động của nhóm, cử thư ký ghi chép + Cử thư ký đại diện cho nhóm trình bày kết quả làm việc của nhóm (cần có sự luân phiên nhóm trưởng, thư ký của nhóm để toạ cơ hội cho mỗi người được trình bày, bảo vệ ý kiến, giao tiếp trước đông người) * Thảo luận tổng kết trước lớp: + Đại diện các nhóm lần lượt báo cáo kết quả. + Thảo luận chung + Giáo viên tổng kết giúp học sinh hoàn thiện và đặt vấn đề tiếp theo. 3. Phương pháp giảng dạy triết học: Cá chép Tiết lên lớp là sự thực hiện kế hoạch đã vạch ra trong bài soạn có sự điều chỉnh cho phù hợp với đối tượng học sinh của mỗi lớp. Mỗi loại bài có những yêu cầu riêng song đối với bài này cần thực hiện theo trình tự sau: a. Kiểm tra việc chuẩn bị cho tiết học của học sinh: Đối với phương pháp tìm tòi – nghiên cứu, hợp tác theo nhóm việc chuẩn bị của học sinh rất quan trọng tuỳ theo từng địa phương để giáo viên yêu cầu học sinh chuẩn bị: + Mỗi nhóm chuẩn bị một con cá chép (hoặc cá diếc) thả trong bình thuỷ tinh + rong + Kẻ sẵn bảng 1 trang 103 SGK vào vở bài tập. b. Nêu vấn đề của bài học: Nêu vấn đề hấp dẫn sẽ kích thích được tính tò mò ham hiểu biết của học sinh tạo ra cho các em nhu cầu nhận thức: muốn tìm tòi, phát hiện kiến thức bài học. Từ đó có thể động viên được học sinh tham gia tích cực, tự giác vào các hoạt động học tập. c. Tổ chức hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động học tập để tìm tòi – nghiên cứu phát hiện tri thức: Hoạt động 1: Tìm hiểu về đời sống cá chép Mục tiêu: Hiểu được đặc điểm môi trường sống và đời sống của cá chép. Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh + Giáo viên yêu cầu học sinh đọc mục thông tin mục I SGK + Yêu cầu cả lớp nghiên cứu về môi trường sống, đời sống, sinh sản: ? Cá chép sống ở đâu? Thức ăn của chúng là gì? ? Em hiểu động vật biến nhiệt là gì? + Giáo viên cho học sinh tiếp tục thảo luận: ? Nêu đặc điểm sinh sản của cá chép? ? Tại sao gọi sự thụ tin ở cá chép là sự thụ tin ngoài? ? Cá chép đẻ trứng nhiều có ý nghĩa gì? + Giáo viên yêu cầu học sinh rút ra kết luận về đời sống cá chép. + Học sinh thu nhận thông tin SGK trang 102 Thảo luận tìm câu trả lời + 1 – 2 học sinh phát biểu -> lớp nhận xét bổ sung. + Học sinh tiếp tục thảo luận 1 – 2 học sinh phát biểu, lớp bổ sung Học sinh tự hoàn chỉnh kiến thức Hoạt động 2: Tìm hiểu về cấu tạo ngoài của cá chép thích nghi với nước Mục tiêu: Giải thích được các đặc điểm cấu tạo ngoài của cá chép thích nghi với đời sống ở nước. Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh * Cấu tạo ngoài + Giáo viên tổ chức học sinh thảo luận theo nhóm (4 học sinh) Vấn đề 1: Quan sát cấu tạo ngoài + Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát mẫu cá chép sống trong bể kính đối chiếu với hình 31 SGK -> nhận biết các bộ phận trên cơ thể của cá chép. + Giáo viên treo tranh cá chép không chú thích, gọi học sinh trình bày cấu tạo ngoài trên tranh. Vấn đề 2: Tìm hiểu đặc điểm cấu tạo ngoài thích nhi với đời sống. + Giáo viên yêu cầu học sinh đọc lệnh mụcqSGK trang 103 ->lựa chọn nội dung đúng. Sau khi học sinh đã điền xong, đại diện nhóm đọc kết quả điền. Để hoàn thành bản chính xác giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trò chơi ghép bảng như sau: Giáo viên chuẩn bị bảng như SGK của học sinh và mảnh bìa có ghi sẵn sự thích nghi của cá chép. Tổ chức cho địa diện 3 nhóm lên gài vào bảng theo cột dọc. + Giáo viên nêu đáp án đúng + Học sinh thảo luận theo nhóm (4 học sinh) như đã phân công + Học sinh bằng cách đối chiếu giữa mẫu vật và hình vẽ -> ghi nhớ các bộ phận cấu tạo ngoài. + Đại diện nhóm trình bày các bộ phận cấu tạo ngoài trên tranh, các nhóm khác theo dõi, nhận xét bổ sung. + Học sinh làm việc cá nhân với bảng 1 SGK. + Thảo luận nhóm -> thống nhất án + Đại diện các nhóm lên gài, còn lại dưới lớp thep dõi kết quả. + Các nhóm tự sửa chữa (nếu cần) Hoạt động 3: Tìm hiểu chức năng của vây cá Mục tiêu: Học sinh nêu được chức năng của vây cá Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh * Chức năng của vây cá: + Giáo viên yêu cầu học sinh đọc mục  2 ở SGK trả lời câu hỏi sau: q Vây cá chép có những chức năng gì? q Nêu vai trò của từng loại vây cá? - Học sinh đọc thông tin SGK trong 102 -> trả lời câu hỏi. - 1 – 2 học sinh trả, lớp nhận xét, bổ sung c/ Kết luận bài: Có thể kết luận bằng nhiều cách khác nhau nhưng theo tôi: Qua bài học này giúp các hiểu được điều gì? Gọi 2 học sinh đọc lại phần kết luận SGK. d. Kiểm tra đánh giá: Đánh giá có vai trò quan trọng trong phương pháp dạy học, trên cơ sở kết hợp sự đánh giá của thầy với sự tự đánh giá của trò mà người thầy chẳng những thấy được kết quả học tập của học sinh mà mình vừa dạy đạt được mức độ nào so với yêu cầu bài học, mà giáo viên còn rút ra được những kinh nghiệm nhằm điều chỉnh phương pháp dạy học của mình sao cho có hiệu quả và thích hợp với đối tượng mà mình đào tạo. Trong sách giáo khoa sinh học 7 có nhiều hình thức kiểm tra, đánh giá khác nhau nhưng theo tôi nên thực hiện hình thức kiểm tra, đánh giá như sau: + Trình bày tranh vẽ: Đặc điểm cấu tạo ngoài của cá chép thích nghi với đời sống ở nước? + Nêu chức năng của từng loại cây? e. Hướng dẫn học bài: + Học bài và trả lời câu hỏi 1, 2, 3 trong sách giáo khoa trang 104. + Làm bài tập 4 sách giáo khoa vào vở bài tập. + Chuẩn bị bài mới: nghiên cứu trước bài "Thực hành mổ cá" Nghiên cứu trước cách mổ Kẻ bảng sau vào vở. Bảng: Các nội dung của cá Tên cơ quan Nhận xét và nêu vai trò Mang Tim Thực quản, dạ dày, ruột, gan Bóng hơi Thận Tuyến sinh dục, ống sinh dục Bộ não Chuẩn bị theo nhóm (4 học sinh): 1 con cá chép to (hoặc cá diếc) Dụng cụ: Khay mổ, kéo, dao, kim nhọn, khăn khô. V/ Khảo sát đánh giá sau khi đề tài ứng dụng: Sau khi xác định được phương pháp cách thức tiến hành trên lớp dạy thể hiện tôi thu được kết quả sau: Lớp Tổng số HS Điểm giỏi Điểm khá Điểm TB Điểm dưới TB 7C 41 10 9 22 0 7D 40 8 17 15 0 Và kết quả có thể dễ dàng nhận thấy hầu hết các em đã thực hiện quan sát tốt, nắm chắc bài. VI/ Bài học rút ra. Sau khi thực hiện tiết dạy, tôi nhận thấy.: + Cần có sự chuẩn bị kỹ của giáo viên và học sinh như: nghiên cứu kỹ bài mới, có đủ mẫu vật, tranh vẽ, các thiết bị cần thiết. Học sinh phải tích cực, chủ động tìm ra kiến thức. Giáo viên phải hướng dẫn, nêu yêu cầu cụ thể. Giáo viên nhiệt tình, cố gắng nắm chắc kiếm thức và phương pháp đặc thù của bộ môn. Trong mỗi bài dạy phải làm nỗi rõ cái hay kích thích lòng say mê ham học của học sinh, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. + Sau mỗi bài học cần hướng dẫn kỹ việc chuẩn bị bài tiếp theo Thực hiện đúng quy trình các bước trên chắc chắn không chỉ một tiết dạy sinh học 7 mà tất cả các tiết dạy khác đều đạt được mục tiêu bài học. VII/ Kết luận chung: Việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là một việc làm tất yêu. Mặt khác, bản thân tôi là một giáo viên mới ra trường giảng dạy môn sinh học nên tôi rất băn khoăn về vấn đề này, thôi thúc tôi cần đi sâu khảo sát thực tế với mong muốn là đóng góp một phần nhỏ của mình để làm sáng tỏ vấn đề. Hy vọng các thầy cô dạy sinh học cùng góp phần nhỏ của mình để đưa hiệu quả học tập bộ môn sinh học lên ngang tầm với các môn học khác. Qua sáng kiến này, với sự giúp đỡ tạo điều kiện của các thầy cô và học sinh hai lớp 7C, 7D trường THCS Thái Thuỷ nơi tôi trực tiếp giảng dạy, cộng với sự nỗ lực của bản thân. Tuy sáng kiến còn có những hạn chế song đối chiếu với các yêu cầu đặt ra thì đề tài cũng đạt được những kết quả nhất định. Rất mong được sự chỉ bảo, góp ý của các bạn đồng nghiệp. Người thực hiện A/ Đặt vấn đề: I/ Lý do chọn đề tài: Trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển với tốc độ chóng mặt, công nghệ thông tin ngày càng siêu hiện đại. Máy móc, rô bốt dần thay thế sức lao động của con người. Sự phát triển đó phải chăng là do một lực lượng siêu nhiên nào đó? Không phải, đó là nhờ sự đóng góp lớn lao của ngành toán học mà từ khi con người xuất hiện và biết tính toán. Nhờ sự tiến hoá và phát triển của xã hội mà toán học ngày càng vươn tới vị trí cao nhất trong các lĩnh vực khoa học, nó chi phối mọi sự phát triển xã hội khác. Trong khi đó tình hình dạy học toán ở nước ta tuy đã được nâng cao, được áp dụng các phong cách dạy học tiên tiến của các nước khác trên thế giới nhưng do mặt khách quan của điều kiện xã hội, kinh tế, ảnh hưởng lâu dài của chiến tranh nên nó vẫn có phần chưa được thoả mãn. Mặc dù vậy nước ta nước ta vẫn có những cây toàn kiệt xuất có thể nói đứng hàng đầu thế giới trong các cuộc thi toán học, nhưng con số đó còn rất ít. Mặt bằng chung để nâng cao nhận thức của học sinh còn hạn chế là vấn đề nan giải cần phải giải quyết. Phải chăng là do phương pháp dạy học, do sự tiếp nhận của học sinh. Trước thực trạng như vậy, là một giáo viên tâm huyết với nghề nghiệp luôn trăn trở về chất lượng dạy học hiện nay, với địa bàn công tác, tôi mạnh dạn đề xuất sáng kiến kinh nghiệm: "Bồi dưỡng và phát nâng cao dạng toàn tìm BCNN trong thực tế đối với học sinh lớp 6" II/ Phạm vi và thời gian thực hiện: Phạm vi: Được phân công công tác ở địa bàn vùng khó khăn là trường THCS Thái Thuỷ, với điều kiện kinh tế xã hội, điều kiện dạy học còn thua kém miền xuôi nên tôi chỉ nghiên cứu ở phạm vi khối 6 của trường và có tham khảo một số phương pháp ở Tuyên Hoá (lớp 6) sau sáu năm công tác. Sáng kiến chỉ xoay quanh vấn đề "Bồi dưỡng và phát triển nâng cao dạng toán tìm BCNN trong thực tế của học sinh lớp 6" Thời gian: Năm học 2004 – 2005 III/ Mục đích: Nhằm phát triển tư duy lô gíc, phương pháp luận khoa học, giúp học sinh phát triển năng lựuc tư duy, óc thế giới quan duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, có khả năng suy luận, so sánh giữa lý thuyết với thực tiễn để tìm ra cách giải quyết phù hợp khoa học dù đối với một bài toán hay là một công việc, một công trình nghiên cứu.... Giúp học sinh biết phân tích vấn đề, tìm ra hướng giải quyết vấn đề nhưng đi theo con đường từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó. Ngoài ra phương pháp này còn làm cho học sinh có hứng thú học tập mạnh, kích thích sự tò mò, tìm tòi... Từ đó đưa ra lập luận vững chắc, linh hoạt, sáng tạo. IV/ Cơ sở lý luận: Vấn đề dạy học toán ở trường THCS là mối trăn trở của biết bao giáo viên tâm huyết với nghề nghiệp. Làm sao để con em mình, học sinh mình có thể giải ngay được hoặc tìm được hướng giải những bài toàn mà có liên quan đến thực tế hàng ngày và các dạng toán khác. Có thể do nóng vội cho nên một số phương pháp giáo viên đưa ra chưa phù hợp, chưa phát huy được vai trò của học sinh hoặc phương pháp bài cũ, câu hỏi hạn chế.... Do đó học sinh chưa biết suy luận phân tích. Cho nên theo tôi nghĩ cần áp dụng phương pháp dạy học mới hiện nay nhưng phải tạo cho bằng được tình huống có vấn đề cho học sinh. Đưa học sinh tới hoàn cảnh phải tìm hướng giải quyết. Muốn vậy, giáo viên phải có hệ thống câu hỏi thật lô gíc, chặt chẽ theo hướng phân tích đi lên để từ đó học sinh tự tìm ra lối thoát và có thể đi lại con đướng đó nhiều lần mà không bị lạc. Từ đó khi học sinh tìm ra hướng giải quyết chung cho nhiều tình huống khác với hướng suy nghĩ, giải quyết phù hợp để đạt được mục đích mong muốn. V/ Cơ sở thực tiễn: Những khó khăn khi thực hiện giảng dạy: ảnh hưởng của kinh tế xã hội: Đại bàn vùng đặc biệt khó khăn ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh, điều kiện cơ sở vật chất thiếu thốn, sự cập nhật thông tin đại chúng chậm hơn vùng giữa. - ảnh hưởng của đời sống gia đình: chưa thực tâm chú trọng việc học hành ở nhà của con em học sinh. Do đó học sinh học ở nhà còn mang tính chất đối phó, sao chép tài liệu cũ, sách giải bài tập... dẫn đến kiến thức lõng lẽo, tạo ra lỗ hỏng lớn nên lên lớp trên học sinh khó tiếp thu, tiếp cận tri thức mới. - Học sinh mới chuyển từ tiểu học là lớp 5 (đang học sách giáo khoa cũ) nên sang lớp 6 còn bỡ ngỡ về cả phương pháp học, cả kiến thức và hầu như học sinh chưa có phương pháp học tập phù hợp. - Đối với giáo viên: Vì phương pháp dạy học đổi mới, việc tìm ra cách dạy học phù hợp là vấn đề nan giải. Hơn nữa chúng tôi là giáo viên trẻ, tuổi nghề còn ít (7 năm) nên chưa có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy. Từ những ảnh hưởng trên dẫn đến học sinh chưa phát huy được khả năng của mình, chưa đạt kết quả mong muốn. Thậm chí còn có một số học sinh có hiện tượng sợ toán. 2. Tình hình giảng dạy: Đối với học sinh lớp 6 nâng cao nhưng chúng tôi đã hoàn toàn áp dụng những gì tiếp thu được, học được qua bồi dưỡng chuyên đề, đổi mới phương pháp dạy học cụm nhưng hiệu quả chưa cao. Lý do cũng có thể phụ thuộc vào nhận thức của học sinh và một số lý do khách quan khác. Trước khi chưa nghiên cứu tìm tòi ra sáng kiến mới để phù hợp với học sinh, qua khảo sát tôi thấy kết quả như sau: (đối với 1 lớp) Điểm 0 – 2 điểm 3 – 4 điểm 5 – 7 điểm 8 – 10 1 em 15 em 22 em 1 em 25% 38,5 % 56,5% 2,5% Với đề bài như sau: "Học sinh lớp 6C xếp hàng 2, hàng 3, hàng 4...., hàng 8 thì vừa đủ. Biết số học sinh trong lớp từ 35 – 60 em. Tính số học sinh lớp 6C". Thời gian làm bài: 15 phút (không kể chép đề) Sau khi chấm chữa tôi thấy được các nhược điểm chính của học sinh: + Không nhận dạng được bài toán + Không có lời giải rõ ràng, thích hợp. + Bài giải không chặt chẽ, thiếu lô gíc. Và thu được kết quả như trên. B/ Nội dung: 1. Nhiệm vụ: Qua nghiên cứu và khảo sát thực tế chúng tôi thấy vấn đề trước mắt là phải làm những việc như sau: Giáo viên phải tạo ra tình huống có vấn đề tức là hướng dẫn học sinh nhận dạng bài toán. Phân tích bài toán Thực hiện lời giải Trình tự thực hiện như sau: Bước 1: Tri giác vấn đề: Giáo viên tạo cho học sinh cơ hội tìm hiểu vấn đề Giáo viên giải thích, chính xác hoá một số ngôn ngữ liên quan đến bài toán Hướng giải quyết của bài toán và hình dạng dạng toán tổng quát. Bước 2: Giải quyết vấn đề: Phân tích làm quan hệ giữa cái đã biết và cái cần tìm Đề xuất và thực hiện hướng giải quyết Trình bày cách giải quyết vấn đề. Bước 3: Kiểm tra và nghiên cứu lời giải Kiểm tra sự đúng đắn phù hợp với thực tế lời giải. Kiểm tra tính hợp lý và tính tối ưu của lời giải. Tìm hiểu những khả năng ứng dụng của kết quả. Đối với học sinh: Bằng hoạt động tích cực tự giác huy động kiến thức và khả năng của mình để giải quyết vấn đề dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Nội dung chính: Đối với đề tài này ta phải sử dụng phương pháp phân tích, tìm tòi gây hứng thú học tập của học sinh, giúp học sinh phát triển năng lực tư duy từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. ở đây người thầy giáo chỉ thực hiện thao tác phân tích từng bước bài toán để tìm ra hướng đi, lời giải thích hợp. Ví dụ: Đối với bài toán 196 (sách bài tập toán 6 trang 25) NXB GD năm 2002. " Một khối học sinh xếp hàng 2; hàng 3; hàng 4; hàng 5; hàng 6 đều thiếu 1 người nhưng khi xếp hàng 7 thì vừa đủ. Biết số học sinh chưa đến 300. Tính số học sinh" Nếu như học sinh không giải được bài toán trên kia thì không giải được bài toán này. Vì vậy ta hãy quay lại bài toán trước. " Học sinh lớp 6C khi xếp hàng 2; hàng 3; hàng 4; hàng 8 thì vùa đủ hàng. Biết số học sinh trong lớp từ 35 – 60 em. Tính số học sinh lớp 6C" Giáo viên cần phải cho học sinh làm các thao tác sau: + Đọc bài toán nhiều lần + Phân tích bài toán Giáo viên đưa ra câu hỏi: Nếu như gọi số học sinh lớp 6C là a, thì a phải có điều kiện gì? Nếu như số học sinh xếp hàng 2, hàng 3, hàng 4, hàng 8 đều vừa đủ hàng. Vậy thì a phải có quan hệ như thế nào với các số 2; 3; 4; 8? Sau khi học sinh suy nghĩ trả lời được các câu hỏi trên giáo viên hỏi tiếp. Vậy thì muốn tìm a ta phải tìm gì? Từ đó bài toán quay về bài toán tìm BCNN như các bài toán khác. Giáo viên sau khi đã kiểm tra lời giải học sinh thì đưa ra lời giải như sau: Gọi số học sinh lớp 6C phải tìm là a, với 35 a 60 Vì khi xếp hàng 2; hàng 3; hàng 4; hàng 8 đều đủ hàng. Vậy a phải chia hết cho cả 2; 3; 4; 8 => a BC (2; 3; 4; 8) BCNN (2; 3; 4; 8) = 24 BC(2; 3; 4; 8) = B(24) = 0; 24; 48; 72...... => a 0; 24; 48; 72 ..... Vì 35 a 60 vậy a = 48 là thoả mãn Vậy lớp 6C có 48 học sinh. Đến đây ta có thể quay lại bài toán trên (BT 196 sách BT trang 25) cũng phương pháp như trên. Giáo viên yêu cầu học sinh: + Đọc bài toán nhiều lần, tóm tắt đề bài + Phân tích, nghiên cứu, tìm hướng giải Chú ý: Thiếu một người thì xếp hàng đủ. Vậy cộng thêm một người thì xếp hàng có đủ không? + Phát hiện điểm giống và khác với bài toán trên. Câu hỏi gợi ý: + Nếu ta gọi số học sinh là a, điều kiện của a? + Theo bài toán ra thì a thiếu 1 người thì xếp hàng vừa đủ vậy thì khi nào thì xếp hàng? (Nếu học sinh trả lời được là a + 1 xếp hàng đủ) Giáo viên hỏi thêm: Ta phải tìm a như thế nào? Có phải tìm BCNN của (2; 3; 4; 5; 6; 7) không? (Vì a : 7) Học sinh trả lời được là không. Giáo

File đính kèm:

  • docskkn_phuong_phap_giang_day_loai_bai_ve_dong_vat_dai_dien_cho.doc