Sử dụng tư liệu vào giờ học “chương trình địa phương”, giúp giờ học đạt hiệu quả

Trong chương trình thay sách, môn Ngữ Văn của các khối lớp 6, 7, 8, 9 luôn có tiết “chương trình địa phương” trong chương trình học chính khoá. Cụ thể :

 - Khối lớp 6 : gồm 5 tiết chương trình địa phương (4 tiết phần Văn và Tập làm

 văn, 1 tiết Tiếng Việt)

 - Khối lớp 7 : gồm 6 tiết chương trình địa phương (3 tiết phần Văn và Tập làm

 văn, 3 tiết Tiếng Việt)

 - Khối lớp 8 : gồm 5 tiết chương trình địa phương (2 tiết Văn, 1 tiết Tập làm

 văn, 2 tiết Tiếng Việt)

 - Khối lớp 9 : gồm 5 tiết chương trình địa phương (1 tiết Văn, 2 tiết Tập làm

 văn, 2 tiết Tiếng Việt)

 Những tiết học “chương trình địa phương” này rất cần tư liệu từ thực tế của địa phương mình. Với tiết “chương trình địa phương” (tuần 23, tiết 92 - nội dung : thuyết minh về danh lam thắng cảnh ở địa phương) của lớp 8, tiết học cần phải đạt được các yêu cầu sau :

 + Giúp học sinh vận dụng kĩ năng làm văn thuyết minh.

 + Tự giác tìm hiểu những di tích, thắng cảnh ở quê hương mình.

 + Nâng cao lòng yêu quý quê hương.

 

doc23 trang | Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 1665 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Sử dụng tư liệu vào giờ học “chương trình địa phương”, giúp giờ học đạt hiệu quả, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
(Phần Tập Làm Văn, Tiết 92 – Tuần 23, Ngữ Văn 8) Người viết : LÊ THỊ HỒNG. Tổ : Văn – Sử. Đơn vị : Trường THCS Ninh Gia. Năm học : 2005 – 2006. I. ĐẶT VẤN ĐỀ : Trong chương trình thay sách, môn Ngữ Văn của các khối lớp 6, 7, 8, 9 luôn có tiết “chương trình địa phương” trong chương trình học chính khoá. Cụ thể : - Khối lớp 6 : gồm 5 tiết chương trình địa phương (4 tiết phần Văn và Tập làm văn, 1 tiết Tiếng Việt) - Khối lớp 7 : gồm 6 tiết chương trình địa phương (3 tiết phần Văn và Tập làm văn, 3 tiết Tiếng Việt) - Khối lớp 8 : gồm 5 tiết chương trình địa phương (2 tiết Văn, 1 tiết Tập làm văn, 2 tiết Tiếng Việt) - Khối lớp 9 : gồm 5 tiết chương trình địa phương (1 tiết Văn, 2 tiết Tập làm văn, 2 tiết Tiếng Việt) Những tiết học “chương trình địa phương” này rất cần tư liệu từ thực tế của địa phương mình. Với tiết “chương trình địa phương” (tuần 23, tiết 92 - nội dung : thuyết minh về danh lam thắng cảnh ở địa phương) của lớp 8, tiết học cần phải đạt được các yêu cầu sau : + Giúp học sinh vận dụng kĩ năng làm văn thuyết minh. + Tự giác tìm hiểu những di tích, thắng cảnh ở quê hương mình. + Nâng cao lòng yêu quý quê hương. Trong khi đó giáo viên và học sinh rất khó khăn trong việc tìm tư liệu phục vụ cho giờ học. Hơn nữa, tiết học này gần như là để học sinh tự tìm hiểu và vận dụng, thực hành nên giáo viên giảng dạy có phần sao nhãng. Do đó nội dung giờ học còn tẻ nhạt, chưa phong phú và chưa gây hứng thú cho học sinh. Hơn nữa, danh lam thắng cảnh của Ninh Gia và Đức Trọng thì không nhiều. Do đó giáo viên thường cho học sinh tìm hiểu thêm những danh lam thắng cảnh ở Đà Lạt. Vì Đà Lạt là một nơi được thiên nhiên ban tặng nhiều danh lam thắng cảnh đẹp và nổi tiếng. Nhưng thông tin vẫn chưa đáp ứng đủ, giáo viên lẫn học sinh đều gặp khó khăn khi tìm thông tin, tư liệu. Xuất phát từ yêu cầu, mục đích và tình hình thực tế trong giảng dạy, tôi đã có nhiều trăn trở, suy nghĩ khi dạy bài “Chương trình địa phương”. Tôi đã tự chọn cho mình một số giải pháp, nhưng cách sử dụng tư liệu vào giờ học “chương trình địa phương” là giải pháp có hiệu quả nhất, phù hợp với thực tế giảng dạy tại trường Trung học cơ sở Ninh Gia - Đức Trọng. Chính vì vậy, tôi đã cố gắng tìm tư liệu (Phần lớn là danh lam thắng cảnh Đà Lạt và một số di tích văn hoá nghệ thuật) để giới thiệu đến học sinh Ninh Gia - giúp học sinh tham khảo nhằm phục vụ cho giờ học “Chương trình địa phương” – Phần Tập làm văn, tiết 92 (Tuần 23) của lớp 8 được tốt hơn. Ngoài ra cũng góp phần mở rộng tầm hiểu biết của học sinh, bồi dưỡng lòng yêu mến và lòng tự hào về cảnh đẹp của thành phố Đà Lạt nói riêng, của tỉnh Lâm Đồng nói chung - nơi bản thân học sinh đang sinh sống và học tập. II. THỰC TRẠNG : 1. Về phía Giáo viên : Giáo viên cần rèn cho học sinh năng lực tự học. Với tiết học “Chương trình địa phương” – Phần Tập làm văn, tiết 92 (Tuần 23) của lớp 8, để làm được điều đó, giáo viên phải hướng dẫn, giới thiệu đến học sinh nguồn tư liệu cần thiết, phù hợp để học sinh có thể tự làm việc có hiệu quả. Thế nhưng, trong năm học vừa qua, trường chúng tôi còn tồn tại một số hạn chế : - Giáo viên chưa giới thiệu được cho học sinh tư liệu cần tham khảo. - Thư viện nhà trường còn ít sách báo. Một số đầu sách mà giáo viên cần để giới thiệu đến học sinh thì thiếu, như : + Đà Lạt điểm hẹn năm 2000 – NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh. + Địa chí Lâm Đồng – NXB Văn hoá dân tộc – 2001. + Địa chí du lịch – Nhiều tác giả – NXB thành phố Hồ Chí Minh, 1996. + Lâm Đồng hướng tới thế kỉ XXI – nhiều tác giả, UBND tỉnh Lâm Đồng, 2000. ( … ) - Phương tiện vật chất : băng hình, máy chiếu … thiếu thốn. - Hình thức tổ chức còn tẻ nhạt, đơn điệu, chưa phong phú. Vì vậy, giờ học trầm, ít sôi nổi; không lôi cuốn được học sinh, không phát huy được sự sáng tạo và không làm trỗi dậy tình cảm văn chương trong lòng mỗi em; không khuyến khích được các em tự viết, tự sáng tác. Và để hướng dẫn học sinh tìm tư liệu phù hợp, giáo viên phải có một vốn nhất định về tư liệu để có thể giới thiệu cho học sinh. 2. Về phía học sinh : - Qua quan sát và tìm hiểu thực tế, học sinh tại trường THCS Ninh Gia rất ít đọc sách báo. Học sinh chỉ thích đọc truyện tranh, truyện cổ tích … mà tư liệu phục vụ cho giờ học này chủ yếu là ở sách báo. Đến khi được thầy cô giáo yêu cầu, học sinh cũng sẽ đến thư viện tìm sách báo để đọc. Thế nhưng, đa số không kiên nhẫn tìm tòi. Khi tìm được bài báo nào viết về danh lam thắng cảnh, học sinh chép lại và coi như hoàn tất việc tìm hiểu. Rất nhiều em chép trùng bài của nhau. Do đó, nội dung các danh lam thắng cảnh không phong phú, góp phần tạo sự đơn điệu, nhàm chán trong giờ học. - Ngoài sách báo, tư liệu phục vụ cho giờ học còn có thể kể đến đó là tư liệu thu thập trên In-tơ-nét. Đây là một thế mạnh của công nghệ thông tin. Thế nhưng, học sinh đến đấy phần lớn là để chơi trò chơi điện tử chứ chưa có ý thức tự học, tự truy cập thông tin. - Thực tế việc tham quan các danh lam thắng cảnh của học sinh tại trường THCS Ninh Gia cũng không được thuận lợi. Phần lớn học sinh ở đây là con nông dân, cho nên việc được đi đây đi đó để tham quan là điều rất khó. Vì vậy, học sinh Ninh Gia thiếu thông tin và tầm hiểu biết về các danh lam thắng cảnh của địa phương bị hạn chế. Nếu không có thông tin hoặc không có số liệu cụ thể về đề tài được chọn, học sinh sẽ viết một cách chung chung, thiếu tính thuyết phục. III. NỘI DUNG GIẢI PHÁP : SỬ DỤNG TƯ LIỆU VÀO GIỜ HỌC “CHƯƠNG TRÌNH ĐỊA PHƯƠNG”, GIÚP GIỜ HỌC ĐẠT HIỆU QUẢ. Đây là tiết Tập làm văn : Thuyết minh về danh lam thắng cảnh ở địa phương nên việc học sinh tìm hiểu, chuẩn bị nội dung và việc giáo viên cung cấp thêm tư liệu tham khảo cho học sinh là hết sức quan trọng và không thể thiếu khi dạy tiết học này. 1. Tư liệu của học sinh : - Qua sách báo : Yêu cầu học sinh tự tìm hiểu về thông tin của danh lam thắng cảnh tại địa phương qua sách báo. Hướng dẫn học sinh cách lấy tư liệu sao cho khoa học và phù hợp. Cần ghi chép lại những thông tin cần thiết, có thể cắt những tranh ảnh trong báo liên quan đến nội dung mà mình đang tìm hiểu. Khuyến khích học sinh năng đọc sách báo, tránh cách đọc sách báo theo thời vụ, đọc khi có yêu cầu. Học sinh cần rèn cho mình thói quen ghi chép lại một cách khoa học, rõ ràng những thông tin mà mình có được. - Qua tham quan thực tế : Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh đến nơi cần viết mà tìm hiểu chứ không nhất thiết là thông qua tư liệu. Lưu ý học sinh : phải biết cách tìm hiểu, biết cách lấy thông tin và những gì cần thì nên ghi nhớ lại. Có thể ghi nhớ lại bằng ghi chép, có thể ghi nhớ lại bằng hình ảnh. Thế nhưng, học sinh lớp 8, lứa tuổi thích nghịch, thích chạy nhảy, vui đùa, thích khám phá … nếu để học sinh đi theo nhóm mà không có mặt giáo viên thì sẽ không ai quản lí được học sinh. Vì danh lam thắng cảnh ở Ninh Gia và Đức Trọng, phần lớn là thác nước hoặc chùa chiền gần sông suối. Còn ở Đà Lạt thì không thuận lợi vì xa. Nếu để học sinh tự đi thì sẽ không đảm bảo an toàn. Do đó, để học sinh vừa tập trung làm bài tập Tập Làm Văn, vừa tập trung học tốt các môn học khác , tránh trường hợp học sinh lấy lí do đi thực tế để làm bài tập Văn rồi có thể xảy ra những điều không hay,… giáo viên có thể sử dụng một số tư liệu mà mình sưu tầm được cho học sinh tham khảo, sau đó hướng dẫn học sinh quan sát thêm bằng cách chăm xem ti vi, hoặc quan sát qua tranh ảnh và kết hợp với những chuyến đi tham quan thực tế (nếu đã có) ở một số em. 2. Tư liệu của giáo viên : Giáo viên chuẩn bị tư liệu về danh lam thắng cảnh ở địa phương để giúp học sinh tham khảo. Điều này hoàn toàn không làm thui chột khả năng tư duy và tính tích cực của học sinh. Vì tư liệu mà giáo viên hướng dẫn học sinh chỉ là cái sườn, là bộ khung với những thông tin cơ bản và số liệu cụ thể. Từ những thông tin và số liệu ấy, kèm theo quan sát tranh ảnh để kết hợp miêu tả, từng cá nhân hoặc nhóm hình thành bài thuyết minh của mình theo đề tài (từng danh lam thắng cảnh) mà nhóm mình chọn. Thông qua tư liệu, học sinh cũng có thể hiểu được đối tượng mà mình thuyết minh. Và cơ bản, học sinh nắm được một số thông tin cần thiết về danh lam thắng cảnh đó để có thể tự thuyết minh cho những người xung quanh mình cùng biết. Nguồn tư liệu của giáo viên có được từ tham quan thực tế và chủ yếu là từ những thông tin trên sách, báo. Giáo viên tham khảo, tổng hợp, lựa chọn những danh lam thắng cảnh tiêu biểu nhất để giới thiệu đến học sinh. Cách sắp xếp tư liệu của giáo viên : - Danh lam thắng cảnh ở Đức Trọng (Tranh ảnh, thông tin). - Danh lam thắng cảnh ở Đà Lạt (Tranh ảnh, thông tin). + Danh lam thắng cảnh. + Di tích văn hoá nghệ thuật. Một số thông tin minh họa 1. ĐỨC TRỌNG : THÁC PONGOUR Hoang dã và mơ màng nhất Nam Tây Nguyên, tuy thuộc huyện Đức Trọng và cách Đà Lạt 50 km trên đường quốc lộ 20 Đà Lạt về Sài Gòn, nhưng tên tuổi của Pongour vẫn gắn liền với thành phố Hoa. Du khách thường gọi là Pongour, nhưng dân địa phương lại đặt tên cho con thác hai cái tên nữa là : Thiên Thai hay Bẩy Tầng cũng chính vì vẻ thơ mộng, quyến rũ và cũng rất hùng vĩ của nó. Chuyện kể rằng : Ngày xưa, vùng đất Phú Hội, Tân Hội – Tân Hà ngày nay do nàng KaNai làm chủ. KaNai là một tù trưởng xinh đẹp, trẻ trung và có sức mạnh hơn cả những chàng dũng sĩ K’ho, Churu. Nàng lạïi có tài chinh phục thú rừng, nhất là loại tây u (Tê giác). Do vậy, trong bộ tộc của nàng có đến bốn con tê giác to lớn khác thường. KaNai thường dùng bốn con tê giác ấy để khai phá núi rừng, đồi suối và đánh giặc bảo vệ buôn làng. Thuở ấy, giặc Prenn (người Chăm) ở Randuranga (Ninh Thuận ngày nay) thường lên đấy quấy phá, bắt bớ dân địa phương về vương quốc Chăm để làm phu, làm xâu (một hình thức nô lệ), hoặc đi lính chống lại người Yuan (Kinh). Một lần, dân của bộ tộc KaNai bị lính Prenn bắt đi khá nhiều. Căm giận trước cảnh bạo tàn ấy, KaNai kêu gọi các bộ tộc Srê, Chil, … chống lại người Prenn. Nàng đã tự mình cưỡi tê giác cùng đoàn quân rầm rập tiến xuống đánh phá Raduranga để báo thù. KaNai chiếm được bốn thành của người Chăm, cứu được hàng trăm dân K’ho bị người Prenn bắt làm nô lệ. Nhưng rồi, qua chiến thắng này, nàng mới thấm thía nỗi đau nhân tình thế thái : Một số người K’ho, Mạ theo giặc Prenn chịu làm xâu, chịu làm tôi tớ chứ không chịu trở về quê hương cũ, mặc dù nhiều người đã có gia đình, vợ con ở quê nhà. Đau buồn, tức giận trước nghịch cảnh ấy, KaNai quyết trừng trị những ai bội nghĩa, quên tình và quyết định phải xây dựng cuộc sống tốt đẹp cho buôn làng. Nàng đã cùng bốn con tê giác ngày đêm ủi núi, san đồi, tạo dựng vương quốc cho dân tộc K’ho của nàng. Pongour là dấu vết còn lưu lại của bốn con tê giác cắm xuống rừng núi Lâm Đồng để mở ra một kỷ nguyên văn hoá cho các dân tộc ít người ở đây. Hằng năm, cứ vào dịp trăng tròn đầu tiên (Rằm tháng giêng âm lịch), mọi người từ các nơi lại nô nức kéo về trẩy hội Ponguor. Trong dịp này, các lứa đôi không phân biệt Bắc - Nam, Kinh – Thượng, Hoa – Việt, Thái – Tày … lại hồ hởi vượt qua bảy tầng của tác Ponguor để tâm tình, tìm hiểu và kết bạn với nhau. Tục truyền rằng nàng KaNai trước kia chọn lần trăng tròn đầu tiên của mùa ấm áp, núi rừng khởi sắc để làm ngày kỉ niệm cho bộ tộc của nàng. Những ai không thành thật, không thuỷ chung, những kẻ thất tín, bội thề đã đến thác Ponguor thì ít được trở về, vì nàng KaNai nổi giận, nàng đã sai Yàng Ponguor giữ lại tại lòng thác để nàng dạy cho bài học làm người. Từ những năm 1960, nhiều người Hoa ở Tùng Nghĩa, nhân tết Nguyên Tiêu (Rằm tháng giêng), thường tổ chức các cuộc viếng chùa và các thắng cảnh kết hợp với phong tục của dân bản địa (K’ho, Churu) và các dân tộc Thái, Tày, Nùng (di cư từ năm 1954) cùng đặt ra lễ cúng thác Ponguor. Vào những ngày như vậy, từng đoàn người từ Liên Nghĩa, Cao Bắc Lạng, Lục Ngạn (Đức Trọng), Brơtel, Phù Mỹ, Lạng Sơn, Băng Tiên Ngọc Sơn (Đinh Văn – Lâm Hà) và Đà Lạt lại nườm nượp kéo về thác Ponguor. Theo kế hoạch của thành phố, từ nay đến năm 2010, Đà Lạt sẽ phối hợp với các ngành chức năng của Tỉnh và Uỷ ban nhân dân huyện Đức Trọng để tập trung đầu tư, nâng cấp và khai thác các tiềm năng, thế mạnh của thác, nhằm xây dựng nơi đây thành một trong những điểm du lịch hấp dẫn của cả nước. 2. ĐÀ LẠT : a. Danh lam thắng cảnh Đà Lạt: Lâm Đồng là nơi có các danh lam thắng cảnh hết sức ngoạn mục. Đó là một trung tâm du lịch với rất nhiều danh lam thắng cảnh. Hiện nay, có 8 di tích – thắng cảnh được Nhà Nước xếp hạng quốc gia, trong đó có1 di tích khảo cổ (di tích Cát Tiên) và 7 danh lam thắng cảnh, phần nhiều tập trung ở Đà Lạt : - Hồ Xuân Hương. - Hồ Than Thở. - Hồ Tuyền Lâm. - Thung lũng Tình yêu. - Thác Prenn. - Thác Đatanla. - Thác Cam Ly. ẢNH HỒ XUÂN HƯƠNG Nằm ở vị trí trung tâm thành phố Đà Lạt, trên độ cao 1.477m so với mặt nước biển, với diện tích 38 ha, đường vòng quanh hồ trên 5 Km. Hồ Xuân Hương vốn là dòng suối có các dân tộc người Lat, Chil cư trú. Năm 1919, trong chương trình hồi sinh thành phố của Toàn quyền P. Doumer, kĩ sư công chánh Labbé cho xây đập từ Thuỷ Tạ đến quán Hướng Đạo cũ. Năm 1923 xây thêm đập phía dưới tạo thành hai hồ. Năm 1934, kĩ sư Trần Đăng Khoa xây một đập lớn bằng đá, gọi là cầu Ông Đạo, tạo thành hồ. Người Pháp đặt tên là Grand Lac (Hồ Lớn). Năm 1953, Nguyễn Vỹ – Chủ Tịch Hội đồng Thị chính Đà Lạt đổi tên là hồ Xuân Hương, lấy tên một nhà thơ nôm nổi tiếng của Việt Nam thế kỉ 19. Hồ Xuân Hương đã tăng thêm vẻ duyên dáng yêu kiều cho Đà Lạt. Hồ Xuân Hương đã được Bộ Văn hoá – Thông tin và Thể Thao công nhận là một trong 464 thắng cảnh cấp Quốc gia tại quyết định số 1288, ngày 16/11/1988. Từ năm 1998 – 2000, chính quyền tỉnh Lâm Đồng cho sửa chữa, tôn tạo lại : lòng hồ, cống thoát nước, xây bờ, khôi phục lại các cầu chữ Y quanh bờ hồ, lát cỏ và cho xây dựng 4 hồ chống bồi lắng tại các dòng chảy chính trước khi vào hồ. Nhìn một cách bao quát, Hồ Xuân Hương có hình dáng mảnh trăng lưỡi liềm gác chếch theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Viền quanh hồ là con đường nhựa láng bóng nối tiếp với hàng loạt con đường khác từ khắp các nẻo của thành phố đổ về. Bao quanh hồ có các hàng thông nối tiếp nhau. Trên khu vực của hồ có các hoạt động du lịch rất phong phú : bơi thuyền, uống cà phê ngắm cảnh, câu cá, xe ngựa du ngoạn xung quanh . ẢNH THÁC PRENN Cách trung tâm thành phố Đà Lạt hơn 10 Km, ở ngay chân đèo Prenn, nơi cửa ngõ của thành phố Đà Lạt. Xuống ô tô, đi khoảng 100m, du khách sẽ được tận hưởng sự êm dịu và duyên dáng của một bức màn nước đổ từ độ cao 10m xuống một thung lũng nhỏ, xung quanh đầy hoa lá và đồi thông. Thành thác là những tảng đá lớn, vững chắc. Ngay dưới vòm đá, một chiếc cầu nhỏ được bắc ngang qua hồ nước. Du khách có thể lên cầu đi sát bức màn nước, ngắm nhìn dòng nước từ trên cao đổ xuống như một bức màn kết bằng ngọc lóng lánh và nghe thác đổ trên đầu tưởng chừng như mình đang lạc vào một thuỷ động tuyệt dịu nào đó. Nơi đây còn có cáp treo. Ngồi trên cáp treo, du khách có thể chiêm ngưỡng toàn cảnh thác đổ, nhìn thấy những đồi thông, vườn hoa trái … ẢNH HỒ TUYỀN LÂM – CHÙA TRÚC LÂM Hồ Tuyền Lâm nằm cách trung tâm thành phố Đà Lạt 5 Km theo quốc lộ 20 từ Đà Lạt đi TP Hồ Chí Minh, dưới chân núi Pinhatt. Nơi đây trước kia là khu săn bắn của Vua Bảo Đại và của du khách. Nhằm bảo đảm nước tưới cho hàng chục hecta lúa ở huyện Đức Trọng, năm 1982, Bộ Thuỷ lợi cho xây dựng một đập nước. Năm 1987, công trình này đã hoàn thành và diện tích mặt hồ lên đến 3,2 Km2 được bao bọc bởi những ngọn núi hùng vĩ. Đến đây, du khách có thể dùng xuồng máy để đi vào những khu dã ngoại nằm xa xa bên kia những ngọn núi để tham quan và nghiên cứu. Có thể ghé thăm thác Bảo Đại, Đá Tiên, khu du lịch Phương Nam, Nam Qua, đi săn bắn và viếng cảnh chùa. Nằm cạnh hồ là Thiền Viện Trúc Lâm, một ngôi chùa có kiến trúc khá đẹp được thiết kế theo kiến trúc xưa và nay của Việt Nam. Được xây dựng vào khoảng năm 1992 và hoàn thành năm 1994. Chùa nằm trên một ngọn đồi thông khá cao và thoáng mát với diện tích 24 ha. Ở giữa là khu chính điện nguy nga nơi thờ Phật Thích Ca, xung quanh là khu vực trồng rất nhiều loại hoa và cây cảnh của Đà Lạt. ẢNH HỒ THAN THỞ Cách trung tâm thành phố Đà Lạt khoảng 6 Km về hướng Đông Bắc, trên đường đi Thái Phiên. Cảnh vật quanh hồ thật im vắng. Mặt hồ trầm ngâm phẳng lặng. Hồ Than Thở khởi thuỷ là một hồ nhỏ, về sau người Pháp cho làm đập chắn nước tạo thành hồ và đặt tên là Lac Des Soupris. Sau sắc lệnh số 143/NV ngày 22/10/1956, Lac Des Soupris trở lại tên cũ : hồ Than Thở. Khi hoà bình lập lại 1975, có một thời gian hồ Than Thở thành hồ Sương Mai. Nhưng trong nhân dân và du khách khi nhắc đến hồ này, mọi người vẫn dùng tên gọi hồ Than Thở. Từ năm 1990, chính quyền thành phố Đà Lạt cho sử dụng lại tên cũ là hồ Than Thở. Hồ nằm giữa rừng thông tĩnh mịch, không gian hoang vắng, tạo cho hồ một nét buồn man mác. Nơi đây có đồi thông hai mộ với một truyền thuyết về một mối tình tan vỡ đã làm cho địa danh này thu hút du khách. Năm 1998, Bộ Văn hoá – Thông tin đã ra quyết định công nhận hồ Than Thở là một trong 8 di tích - thắng cảnh Quốc gia ở Đà Lạt. ẢNH THUNG LŨNG TÌNH YÊU Thung lũng cách trung tâm thành phố Đà Lạt chừng 3 Km về phía Bắc, chìm sâu bên sườn đồi với những rừng thông quanh năm xanh biếc. Thung lũng Tình yêu là một khu vực rộng trên 200 ha, có hồ Đa Thiện, nhiều đồi thông, bãi cỏ đẹp. Trước đây, phía hạ lưu hồ Đa Thiện có một thung lũng với những bãi cỏ mượt mà, là nơi có nhiều huyền thoại về tình yêu. Dưới thời kì chính quyền Pháp cai trị ở Đà Lạt, nơi đây có tên gọi là Vallée D’Amour. Đến năm 1953, Nguyễn Vỹ – Chủ tịch Hội đồng Thị xã lúc bấy giờ có chủ trương đổi tên gọi một số hồ và con đường từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt để thể hiện bản sắc độc lập của dân tộc, thì Vallée D’Amour mới có tên gọi thứ hai là Thung lũng Tình yêu. Năm 1972, nhờ đắp một con đập lớn vắt ngang qua thung lũng đã tạo ra một hồ nước lớn có tên gọi là hồ Đa Thiện. Vì có hồ mà thung lũng này càng thêm thơ mộng, tăng thêm sự hấp dẫn đối với du khách và nhất là những đôi uyên ương ở khắp mọi miền dất nước. ẢNH SÂN GOLF Nằm ở trung tâm thành phố cạnh Hồ Xuân Hương và Đại học Đà Lạt. Năm 1923, dưới thời toàn quyền Doumer, theo dự án thiết kế đô thị của kiến trúc sư Hebrad nhưng dự án không thực hiện được. Mãi đến năm 1942, dưới thời toàn quyền Decoux, kiến trúc sư Lagisquet đã hoàn tất xây dựng đồ án thành phố thì Đồi Cù là khu đất bất khả xâm phạm. Một sân Golf chín lổ được xây dựng tại đây do một kiến trúc sư người Anh thiết kế. Sau năm 1975, sân Golf tạm thời ngưng hoạt động, trở thành nơi hóng mát, cắm trại, picnic của người dân thành phố. Ngày 8/8/1991, Uỷ ban Nhà nước về hợp tác đầu tư cấp giấy phép số 222/GP thành lập công ty liên doanh DRI nhằm nâng cấp các thắng cảnh trong đó có Đồi Cù. Theo giấy phép này thì xây dựng và nâng cấp sân Golf 18 lổ, đạt tiêu chuẩn quốc tế. Ngày 1/2/1992 khởi công xây dựng sân Golf và được đưa vào sử dụng năm 1994. ẢNH ĐANKIA VÀ SUỐI VÀNG Cách Đà Lạt trên 12 Km về phía Bắc là hồ Đankia – Suối Vàng, một thắng cảnh nổi tiếng của Lâm Đồng. Hồ Suối Vàng bao gồm Đankia và Ankroet ở dưới. Hồ được thành lập bởi hai con đập ngăn dòng chảy của con sông Đa Đung từ núi Langbian. Năm 1942, Toàn quyền Docoux xây dựng nhà máy thuỷ điện đầu tiên ở Ankroet. Ngày nay hồ Suối Vàng là nơi cung cấp nước cho toàn thành phố. Sức chứa của nó là 21 triệu khối nước. Hồ còn được dùng để chạy máy phát điện cho nhà máy thuỷ điện Ankroet với công suất 4.500 KW/h. Ngoài ra, hồ Suối Vàng còn có nhà máy nước Suối Vàng rất hiện đại do Đan Mạch tài trợ. Dự án xây dựng khu du lịch Đankia – Suối Vàng liên doanh giữa tỉnh Lâm Đồng và Singapore đã được Chính phủ phê duyệt. Chắc chắn với dự án này, Đankia – Suối Vàng sẽ trở thành một điểm du lịch lớn nổi tiếng của Việt Nam. DU LỊCH LANGBIAN (Nguyễn Nhân Thống) Đỉnh Lang Biang cao 2165m, đứng thứ ba sau Chư Yangsin và Bidup trên cao nguyên Lâm Viên. Từ Đồi Cù ngước nhìn lên khoảng trời mênh mông, hình ảnh Lang Biang in rõ trên nền trời xanh biếc, đôi lúc bị vây phủ bởi đám mây trắng xoá. Lang Biang là hình ảnh biểu trưng của xứ hoa Đà Lạt. Truyền thuyết kể rằng, ngày xưa, ở vùng La Ngư Thượng (nay là Lâm Đồng – Đà Lạt) có hai bộ tộc lớn là Lát và Srê sinh sống. Tộc trưởng của người Lát tên là Lang, tuổi trẻ, đẹp như thân cây rừng trên đỉnh núi, dũng cảm trước phong ba. Còn tộc trưởng Srê tên là Jrênh có cô con gái tên là Biang vừa xinh đẹp như bông hoa rừng, vừa thông minh, tính tình lại dịu dàng, khiêm tốn. Lang và Biang gặp gỡ rồi hẹn hò với nhau trong những đêm trăng sáng trên khắp núi rừng xứ La Ngư Thượng. Khi tình yêu đã nồng nàn, Biang quyết định bắt Lang làm chồng. Tuy nhiên đám cưới của đôi trai tài gái sắc bất thành vì tù trưởng Jrênh không chấp thuận, bởi giữa hai tộc người Lat và Srê có mối thù truyền kiếp. Lang và Biang cuối cùng tìm lấy cái chết để được gần bên nhau. Nhiều bộ tộc xa gần đều đến chia buồn và đưa tiễn họ đến nơi an nghĩ cuối cùng. Nhờ cái chết của Lang và Biang mà thù hận giữa hai tộc người Lat và Srê được xoá bỏ. Người ta đưa thi thể chàng và nàng lên an táng trên ngọn núi Kbung. Nấm mồ ấy ngày càng cao dần, cao dần. Đó chính là ngọn núi Lang Biang ngày nay. Lang Biang gồm một dãy năm ngọn núi mà ngọn cao nhất đã được lấy tên đặt cho cao nguyên ở cực nam Tây Nguyên – Trường Sơn. Đứng từ đỉnh, du khách có thể nhìn toàn cảnh thành phố

File đính kèm:

  • docSKKNGPHI.doc
Giáo án liên quan