Vua Lê Thái Tổ chú trọng đến việc đào tạo nhân tài cho đất nước ngay sau khi lên ngôi.
Ông ra lệnh cho các trấn trong nước đều phải xây trường học, mở mang nền giáo dục
trong nước.
Tại kinh đô có Quốc tử giám và nhà Thái học. Học trò ở đây là con em quan lại và
những người có học lực hạng ưu tú tuyển chọn trong dân. Thày dạy trong Quốc tử giám
gọi chung là Giáo quan, bao gồm các quan văn trong triều hoặc những người có học vấn
uyên bác trong xã hội.
Thời Lê Thánh Tông, Quốc Tử giám được mở rộng, sau Văn Miếu là nhà Thái học,
có Minh luận đườnglà nơi giảng dạy. Ngoài ra, triều đình còn xây thêm Bí thư khố là
kho trữ sách và khu nhà tập thể cho các giám sinh lưu trú từ nơi xa đến[1].
Học chế thời Lê mở rộng hơn các thời trước, không cấm con em nhà thường dân đi học
như thời nhà Lý,nhà Trần. Tại các lộ đều có trường học, học trò ở đây gọi là Lộ hiệu
sinh. Chỉ trừ con nhà hát xướng và người đang bị tội tù đày, con em các nhà lương thiện
đều có thể vào học tại đây[2]. Sang thời Lê Thánh Tông, trường lộ đổi thành trường phủ.
Giáo quan giảng dạy tại đây được tuyển từ các nhà Nho địa phương. Muốn lên học tại
Quốc Tử giám, học trò ở trường lộ phải qua sát hạch, lấy những Lộ hiệu sinh học xuất
sắc nhất, nhì.
Ngoài các trường do triều đình mở còn có các trường lớp tư nhân trên khắp toàn quốc do
các nhà Nho không đỗ đạt hoặc đã đỗ đạt nhưng thôi làm quan về dạy học
5 trang |
Chia sẻ: trangtt2 | Ngày: 18/07/2022 | Lượt xem: 306 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tài liệu Giáo dục khoa cử Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giáo dục khoa cử
Việt Nam
Giáo dục khoa cử thời Lê sơ
Giáo dục khoa cử thời Lê Sơ trong lịch sử Việt Nam phản ánh hệ thống trường học và
chế độ khoa cử nước Đại Việt từ năm 1427 đến năm 1527.
Hệ thống trường học
Vua Lê Thái Tổ chú trọng đến việc đào tạo nhân tài cho đất nước ngay sau khi lên ngôi.
Ông ra lệnh cho các trấn trong nước đều phải xây trường học, mở mang nền giáo dục
trong nước.
Tại kinh đô có Quốc tử giám và nhà Thái học. Học trò ở đây là con em quan lại và
những người có học lực hạng ưu tú tuyển chọn trong dân. Thày dạy trong Quốc tử giám
gọi chung là Giáo quan, bao gồm các quan văn trong triều hoặc những người có học vấn
uyên bác trong xã hội.
Thời Lê Thánh Tông, Quốc Tử giám được mở rộng, sau Văn Miếu là nhà Thái học,
có Minh luận đườnglà nơi giảng dạy. Ngoài ra, triều đình còn xây thêm Bí thư khố là
kho trữ sách và khu nhà tập thể cho các giám sinh lưu trú từ nơi xa đến[1].
Học chế thời Lê mở rộng hơn các thời trước, không cấm con em nhà thường dân đi học
như thời nhà Lý,nhà Trần. Tại các lộ đều có trường học, học trò ở đây gọi là Lộ hiệu
sinh. Chỉ trừ con nhà hát xướng và người đang bị tội tù đày, con em các nhà lương thiện
đều có thể vào học tại đây[2]. Sang thời Lê Thánh Tông, trường lộ đổi thành trường phủ.
Giáo quan giảng dạy tại đây được tuyển từ các nhà Nho địa phương. Muốn lên học tại
Quốc Tử giám, học trò ở trường lộ phải qua sát hạch, lấy những Lộ hiệu sinh học xuất
sắc nhất, nhì.
Ngoài các trường do triều đình mở còn có các trường lớp tư nhân trên khắp toàn quốc do
các nhà Nho không đỗ đạt hoặc đã đỗ đạt nhưng thôi làm quan về dạy học.
Tài liệu học tập
Tài liệu học tập, giảng dạy và thi cử chính thức gồm có:
Tứ Thư
Ngũ Kinh
Ngọc đường văn phạm
Văn hiến thông khảo
Văn tuyển
Cương mục
Bắc sử (Sử Trung Quốc)
Phương pháp giáo dục chỉ có 2 nguyên tắc chủ chốt là học thuộc lòng và trừng
phạt bằng roi vọt. Ngoài ra, còn nguyên tắc lặp lại tư tưởng cổ nhân và biểu diễn bằng
những câu sáo rỗng[3].
Dưới thời Lê sơ nói chung và trong thời trị vì của Lê Thánh Tông nói riêng, Nho
giáo chiếm vị trí độc tôn;Phật giáo và Đạo giáo bị hạn chế. Phật giáo bị đẩy lui xuống
sinh hoạt ở các làng xã, trong khi đó Nho giáolại được coi trọng và lên ngôi, đặc biệt là
khu vực triều đình và giới nho học.
Theo ý kiến của nhà nghiên cứu Đào Duy Anh, hệ thống Nho giáo này do phong kiến
nhà Lê bắt chước theo nhà Minh của Trung Quốc. Người học không được phát huy ý
kiến riêng của mình. Kiểu người điển hình do phương pháp giáo dục này đào tạo là
người hủ nho hoàn toàn trung thành với chế độ quân chủ nhà Lê[4].
Chế độ khoa cử
Việc tuyển dụng quan lại vào bộ máy chính quyền có 3 đường:
1. Đỗ đạt qua thi cử
2. Nhờ quan lại đề cử có bảo đảm (bảo cử)
3. Lấy con cháu công thần hưởng tập tước
Trong 3 con đường trên, con đường khoa cử là quan trọng nhất, được triều đình đề
cao, chú trọng[1].
Ngay từ năm 1426, khi khởi nghĩa Lam Sơn chưa kết thúc, Lê Lợi tiến ra Bồ Đề đã mở
kỳ thi đặc biệt, lấy đỗ 30 người. Từ khi nhà Lê chính thức thành lập, việc tổ chức các
khoa thi diễn ra đều đặn định kỳ.
Có 3 kỳ thi chính và quan trọng nhất là thi Hương, thi Hội và thi Đình.
Thi Hương
Từ thời Lê Thánh Tông, thi Hương có quy định chặt chẽ, rõ ràng, với yêu cầu: người thi
Hương phải là người dân có đạo đức, cấm người bất hiếu, loạn luân, gian ngoa; cấm con
nhà phản nghịch, con phường chèo, hát xướng.
Người thi Hương phải qua 4 kỳ:
1. Kỳ 1 thi kinh nghĩa về Tứ thư
2. Kỳ 2 thi Ngũ kinh
3. Kỳ 3 thi chiếu, chế, biểu mỗi môn 1 bài
4. Kỳ 4 thi một bài văn trường thiên 1000 chữ.
Qua 4 kỳ thi, ai trúng được 3 kỳ gọi là Sinh đồ, khoa sau lại vào thi; ai trúng 4 kỳ
thì gọi là Hương cống. Đỗ Hương cống rồi năm sau mới được thi Hội. Các tên gọi Sinh
đồ, Hương cống bắt đầu từ năm 1462 niên hiệu Quang Thuận[5]. Định kỳ 3 năm tổ chức
1 lần.
Thi Hội
Thi Hội thuộc hàng đại khoa để các Hương cống cả nước đua tài. Thời gian đầu, người
đang làm quan dù chưa đỗ Hương cống vẫn được thi Hội, nhưng từ năm 1486 người làm
quan cũng phải đỗ thi Hương mới được thi Hội.
Định kỳ 3 năm tổ chức 1 lần thi Hội, sau năm thi Hương. Từ thời Lê Nhân Tông, thi Hội
gồm có 4 kỳ:
1. Kỳ 1 thi Tứ thư, Luận ngữ; 4 đề về Mạnh Tử (thí sinh được chọn 4 trong 8
đề). Về Ngũ kinh, mỗi kinh 3 đề cho thí sinh chọn làm 1 đề; riêng kinh Xuân Thu có 2
đề nhưng phải gộp vào làm thành 1 bài văn[6].
2. Kỳ 2 thi chế, chiếu, biểu, mỗi thể loại có 3 đề
3. Kỳ 3 thi thơ phú, mỗi thể 2 đề. Thơ dùng thể Đường luật, phú dùng thể Lý
Bạch thường viết
4. Kỳ 4 ra bài văn sách, hỏi những điểm khác nhau giữa Ngũ Kinh và Tứ Thư
cùng chính sự xấu, tốt của các đời trước.
Người đỗ thi Hội gọi là trúng cách, người đạt điểm cao nhất gọi là Hội nguyên.
Suốt thời Lê sơ, từ thời Lê Thái Tông tổ chức thi Hội; tổng cộng đến năm 1526 thời Lê
Cung Hoàng, nhà Lê tổ chức 26 khoa thi[6].
Thi Đình
Là cuộc thi dành cho những người đỗ thi Hội, tổ chức tại sân điện, do nhà vua đích thân
ra đề. Trong số những người đỗ, chọn ra 3 người cao nhất (gọi là Tam khôi) là Đệ nhất
giáp đệ nhất danh (Trạng nguyên), Đệ nhất giáp đệ nhị danh (Bảng nhãn), Đệ nhất giáp
đệ tam danh (Thám hoa).
Người đỗ hạng nhì, tức là Đệ nhị giáp, gọi là Hoàng giáp hay Tiến sĩ xuất thân. Người
đỗ Đệ tam giáp gọi chung là Tiến sĩ, hay Tiến sĩ xuất thân.
Những người đỗ thi Đình rất được trọng vọng, được vua ban thưởng áo mũ, thết tiệc, các
quan hồng lô làm lễ xướng danh ở nhà Thái học, Bộ Lễ ghi tên vào bảng vàng treo trước
cửa Đông hoa, làm lễ vinh quy bái tổ. Đặc biệt, vua Lê Thánh Tông còn cho tạc bia tiến
sĩ dựng trong nhà Thái học. Họ được triều đình bổ dụng làm quan. Thời Lê sơ tổ chức
được 26 khoa thi tiến sĩ lấy đỗ 989 tiến sĩ 20 trạng nguyên. Riêng thời vua Lê Thánh
Tông (1460-1497) tổ chức được 12 khoa thi tiến sĩ lấy đỗ 501 tiến sĩ 9 trạng nguyên.
Lê Thánh Tông khởi xướng và cho lập bia tiến sĩ lần đầu tiên ở Văn Miếu - Quốc Tử
Giám vào năm 1484, các đời vua sau này tiếp tục bổ sung thêm các tấm bia vinh danh
mới.
File đính kèm:
- tai_lieu_giao_duc_khoa_cu_viet_nam.pdf