Vườn quốc gia là một khu vực đất hay biển được bảo tồn bằng các quy định pháp luật của chính quyền sở tại. Vườn quốc gia được bảo vệ nghiêm ngặt khỏi sự khai thác, can thiệp bởi con người. Vườn quốc gia thường được thành lập ở những khu vực có địa mạo độc đáo có giá trị khoa học hoặc những khu vực có hệ sinh thái phong phú, có nhiều loài động-thực vật có nguy cơ tuyệt chủng cao cần được bảo vệ nghiêm ngặt trước sự khai thác của con người. Các vườn quốc gia là một khu vực được bảo vệ theo quy định của IUCN loại II. Vườn quốc gia lớn nhất thế giới là Vườn quốc gia Đông Bắc đảo Greenland được thành lập năm 1974.
Định nghĩa: Theo định nghĩa của Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên (IUCN) thì vườn quốc gia là: Natural area of land and/or sea, designated to(a) protect the ecological integrity of one or more ecosystems for present and future generations,(b) exclude exploitation or occupation inimical to the purposes of designation of the area and(c) provide a foundation for spiritual, scientific, educational, recreational and visitor opportunities, all of which must be environmentally and culturally compatible.
Tạm dịch: Khu vực tự nhiên của vùng đất và hoặc vùng biển, được chọn để (a) bảo vệ tình trạng nguyên vẹn sinh thái của một hay nhiều hệ sinh thái cho các thế hệ hiện tại và tương lai, (b) loại bỏ việc khai thác hay chiếm giữ không thân thiện đối với các mục đích của việc chọn lựa khu vực và (c) chuẩn bị cơ sở cho các cơ hội tinh thần, khoa học, giáo dục, giải trí và thăm quan, tất cả các cơ hội đó phải có tính tương thích về văn hóa và môi trường.
59 trang |
Chia sẻ: trangtt2 | Ngày: 25/06/2022 | Lượt xem: 504 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tài liệu Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giới thiệu chung
Vườn quốc gia Banff, Alberta, Canada.
Vườn quốc gia là một khu vực đất hay biển được bảo tồn bằng các quy định pháp luật của chính quyền sở tại. Vườn quốc gia được bảo vệ nghiêm ngặt khỏi sự khai thác, can thiệp bởi con người. Vườn quốc gia thường được thành lập ở những khu vực có địa mạo độc đáo có giá trị khoa học hoặc những khu vực có hệ sinh thái phong phú, có nhiều loài động-thực vật có nguy cơ tuyệt chủng cao cần được bảo vệ nghiêm ngặt trước sự khai thác của con người. Các vườn quốc gia là một khu vực được bảo vệ theo quy định của IUCN loại II. Vườn quốc gia lớn nhất thế giới là Vườn quốc gia Đông Bắc đảo Greenland được thành lập năm 1974.
Định nghĩa: Theo định nghĩa của Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên (IUCN) thì vườn quốc gia là: Natural area of land and/or sea, designated to(a) protect the ecological integrity of one or more ecosystems for present and future generations,(b) exclude exploitation or occupation inimical to the purposes of designation of the area and(c) provide a foundation for spiritual, scientific, educational, recreational and visitor opportunities, all of which must be environmentally and culturally compatible.
Tạm dịch: Khu vực tự nhiên của vùng đất và hoặc vùng biển, được chọn để (a) bảo vệ tình trạng nguyên vẹn sinh thái của một hay nhiều hệ sinh thái cho các thế hệ hiện tại và tương lai, (b) loại bỏ việc khai thác hay chiếm giữ không thân thiện đối với các mục đích của việc chọn lựa khu vực và (c) chuẩn bị cơ sở cho các cơ hội tinh thần, khoa học, giáo dục, giải trí và thăm quan, tất cả các cơ hội đó phải có tính tương thích về văn hóa và môi trường.
VƯỜN QUỐC GIA: khu bảo tồn thiên nhiên do nhà nước quyết định thành lập, nghiêm cấm mọi hoạt động khai thác và phá huỷ giới tự nhiên trong đó nhằm bảo vệ nguyên vẹn các hệ sinh thái, bảo tồn nguyên vị loài động vật, thực vật, bảo tồn nguồn gen tự nhiên có giá trị khoa học, kinh tế, giải trí, giáo dục và thẩm mĩ. Hệ thống sinh thái trong khu VQG phải được giữ nguyên trạng, không có sự can thiệp của con người vào môi trường vật lí và các hệ động vật, thực vật. Các mối quan hệ qua lại giữa hệ sinh vật và môi trường, giữa các hệ sinh vật và bên trong mỗi hệ sinh vật vận hành theo quy luật cân bằng tự nhiên. Các chức năng sản xuất, điều hoà và bảo vệ trong hệ thống triển khai một cách bình thường. VQG là đối tượng quản lí theo một quy chế nghiêm ngặt do nhà nước ban hành. VQG được phân thành 3 phân khu: phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái, phân khu hành chính - dịch vụ. Các khu dịch vụ dành cho hoạt động tham quan, giải trí và trụ sở cơ quan quản lí; có thể thiết kế đường sá, vườn cây, hồ nước và công trình phục vụ khách tham quan. Để bảo đảm an toàn việc bảo tồn các hệ động vật, hệ thực vật, hệ sinh thái có vùng đệm. Vùng đệm là vùng đất đai được phép khai thác hạn chế vì mục đích dân sinh nằm liền kề với VQG hay khu bảo tồn thiên nhiên, là hành lang an toàn bảo vệ, kiểm soát, ngăn chặn sự xâm nhập từ bên ngoài vào VQG. VQG thường được xây dựng tại các danh lam thắng cảnh, nơi có nhiều tài nguyên quý giá, nhất là tài nguyên sinh vật, dùng làm nơi nghiên cứu tự nhiên nguyên sinh hoặc làm nơi du lịch, nghỉ ngơi. VQG đầu tiên trên thế giới là VQG Yelâuxtân (Yellowstone) ở Hoa Kì, xây dựng vào năm 1872. Ở Việt Nam, đến cuối năm 2003, đã có 27 VQG. VQG Cúc Phương, VQGCát Bà, VQG Cát Tiên, vv.
Lịch sử: Ý tưởng về việc thiết lập cảnh quan thiên nhiên đáng được bảo vệ cụ thể nào đó dưới sự bảo vệ có nguồn gốc từ đầu thế kỷ 19. Nhà thơ người Anh William Wordsworth năm 1810 đã viết về hồ District như là "một loại tài sản quốc gia trong đó mọi người có quyền và lợi ích, những người có mắt để nhận biết và trái tim để thưởng thức". Họa sĩ Mỹ George Catlin năm 1832, trong những chuyến đi về miền tây nước Mỹ, đã viết rằng thổ dân Bắc Mỹ tại Hoa Kỳ cần được bảo toàn: bằng một số chính sách bảo vệ lớn của chính quyền ... trong khu vườn tráng lệ ... Một vườn quốc gia, chứa người và động vật, tất cả trong sự hoang dã và trong sạch của vẻ đẹp tự nhiên của họ!. Nam tước Thụy Điển gốc Phần Lan Adolf Erik Nordenskiöld cũng đưa ra ý kiến tương tự vào năm 1880. Nhà tự nhiên học người Mỹ gốc Scotland John Muir cũng đã đưa ra các cảm hứng trong việc thiết lập các vườn quốc gia, đề cập tới nhiều ý tưởng của các phong trào bảo tồn, môi trường và quyền động vật sau này. Ý tưởng chung của họ là giữ lại những điều kỳ diệu của thiên nhiên sao cho các thế hệ tương lai có thể thưởng thức chúng và tìm lại được chúng tại nơi đó.
Ra đời: Cố gắng đầu tiên để thiết lập những vùng đất được bảo vệ là tại Hoa Kỳ, vào ngày 20 tháng 4 năm 1832, khi tổng thống Andrew Jackson ký một sắc luật để dự trữ 4 vùng đất xung quanh khu vực ngày nay là Hot Springs, Arkansas nhằm bảo vệ các suối nước nóng tự nhiên và các khu vực núi cận kề để chính quyền Hoa Kỳ sử dụng trong tương lai. Nó được biết đến như là Khu bảo tồn Hot Springs. Tuy nhiên đã không có cơ quan quyền lực nhà nước nào được thành lập và việc kiểm soát của liên bang đối với khu vực đã không được thiết lập một cách rõ ràng cho tới tận năm 1877. Cố gắng tiếp theo nhằm thiết lập những vùng đất được bảo vệ cũng là tại Hoa Kỳ, khi tổng thống Abraham Lincoln ký sắc luật của Quốc hội Hoa Kỳ ngày 30 tháng 6 năm 1864, nhượng lại thung lũng Yosemite và rừng Mariposa với các cây cự sam (hay cù tùng khổng lồ) (sau này là Vườn quốc gia Yosemite) cho bang California, trong đó ghi rõ: Bang đã đề cập [California] tới sẽ chấp nhận sự chuyển nhượng này với các điều kiện rõ ràng rằng các tài sản sẽ được duy trì để sử dụng công cộng, làm trung tâm nghỉ ngơi và tiêu khiển; sẽ không được chuyển nhượng vào bất kỳ thời gian nào.
Vườn quốc gia Yellowstone, Hoa Kỳ.
Năm 1872, Vườn quốc gia Yellowstone đã được thành lập như là vườn quốc gia thật sự đầu tiên trên thế giới. Khi tin tức về các kỳ quan thiên nhiên của khu vực Yellowstone lần đầu tiên được công bố thì vùng đất này, khác với Yosemite, đang là một phần của lãnh thổ mà chưa một bang nào chiếm quyền quản lý, vì thế chính quyền liên bang đã chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý, một quá trình chính thức được hoàn thành vào ngày 1 tháng 10 năm 1890. Nó là cố gắng và lợi ích tổ hợp của các nhà bảo tồn, các chính khách và đặc biệt là các doanh nhân (cụ thể là công ty quản lý tuyến đường sắt Bắc Thái Bình Dương, mà hành trình đi qua Montana đã thu được lợi ích lớn nhờ sự tạo ra điểm hấp dẫn du khách này), để đảm bảo rằng Quốc hội Hoa Kỳ sẽ thông qua sắc luật nhằm thành lập Vườn quốc gia Yellowstone.Wallace Stegner đã viết rằng vườn quốc gia là ý tưởng tốt nhất của người Mỹ – xuất phát từ việc bảo tồn mang tính hoàng tộc mà các chính thể Cựu thế giới phục vụ cho chính bản thân họ - để tạo ra sự bảo tồn dân chủ, mở cho tất cả mọi người, "nó phản ánh chúng ta ở khía cạnh tốt nhất, chứ không phải ở khía cạnh tệ nhất." . Tuy vậy, chỉ 44 năm sau khi thành lập các vườn quốc gia Yellowstone, Yosemite và gần 37 vườn quốc gia, khu bảo tồn khác thì cơ quan nhà nước quản lý toàn diện các khu vực này mới được thành lập tại Hoa Kỳ - đó là Cục Vườn Quốc gia Hoa Kỳ (NPS). Một điều thú vị là một doanh nhân, ông Stephen Mather, đã là người thúc đẩy mạnh mẽ nhất cho viẹc thành lập NPS, ông dã viết cho Franklin Knight Lane, khi đó là Bộ trưởng Nội vụ về nhu cầu đó. Lane đã mời Mather đến Washington, DC để làm việc cùng ông trong soạn thảo và chờ sự thông qua của dự luật về tổ chức NPS, được Quốc hội Hoa Kỳ phê chuẩn và ký ngày 25 tháng 8 năm 1916.Số lượng các khu vực hiện tại do NPS quản lý tại Hoa Kỳ là 391, trong đó chỉ có 58 là các vườn quốc gia.
Tại các quốc gia khác, ý tưởng về thành lập vườn quốc gia như Yellowstone cũng đã dần dần được chấp nhận. Tại Australia, Vườn quốc gia Hoàng gia đã được thành lập ở phía nam Sydney năm 1879. Tại Canada, Vườn quốc gia Banff (khi đó gọi là Vườn quốc gia núi Rocky) là vườn quốc gia đầu tiên của nước này vào năm 1885. New Zealand có vườn quốc gia đầu tiên vào năm 1887. Tại châu Âu các vườn quốc gia đầu tiên là tập hợp gồm 9 vườn tại Thụy Điển vào năm 1909. Hiện tại, châu Âu có 370 vườn quốc gia.
Sau Đại chiến thế giới lần thứ hai, các vườn quốc gia đã được thành lập trên khắp thế giới. Vườn quốc gia Vanoise trong khu vực dãy núi Alps là vườn quốc gia đầu tiên của Pháp, thành lập năm 1963 sau khi diễn ra các cuộc biểu tình ngăn chặn một dự án du lịch tại đây. Tại Việt Nam, Vườn quốc gia Cúc Phương thành lập năm 1966 là vườn quốc gia đầu tiên của nước này.
Các đặc trưng của vườn quốc gia:
Vườn quốc gia hẻm núi Bryce tại miền nam Utah, Hoa Kỳ được thành lập năm 1928. Trước đây nó là khu bảo tồn quốc gia.Các vườn quốc gia thông thường nằm tại các khu vực chủ yếu là chưa phát triển, thường là những khu vực với động - thực vật bản địa quý hiếm và các hệ sinh thái đặc biệt (chẳng hạn cụ thể là các loài đang nguy cấp), sự đa dạng sinh học, hay các đặc trưng địa chất đặc biệt. Đôi khi, các vườn quốc gia cũng được thành lập tại các khu vực đã phát triển với mục tiêu làm cho khu vực đó trở lại gần giống như tình trạng ban đầu của nó, càng gần càng tốt.
Tại một số quốc gia, chẳng hạn như tại Vương quốc Anh và Wales, các khu vực được dùng làm vườn quốc gia không phải là vùng hoang vu, cũng không do nhà nước sở hữu, và có thể bao gồm các khu dân cư và việc sử dụng đất là đáng kể, thông thường chúng là một bộ phận hợp thành của cảnh quan khu vực. Vườn quốc gia đầu tiên của Scotland, vườn quốc gia Loch Lomond và Trossachs, được thành lập tháng 7 năm 2002 và vườn quốc gia Cairngorms được thành lập tháng 3 năm 2003.
1.Quản lý, sử dụng: Phần lớn các vườn quốc gia có vai trò kép, một mặt đây là khu vực cung cấp nơi cư trú cho sự sống hoang dã, mặt khác nó lại phục vụ như là nơi du lịch phổ biến cho quần chúng. Việc quản lý các mâu thuẫn tiềm ẩn giữa hai mục đích này có thể là một vấn đề, cụ thể là du khách sẽ đem lại thu nhập cho vườn quốc gia và vườn quốc gia sử dụng nguồn thu nhập này để duy trì và phát triển các dự án bảo tồn. Các vườn quốc gia cũng là nguồn cung cấp các tài nguyên thiên nhiên có giá trị, chẳng hạn như gỗ, khoáng sản và các loại tài nguyên có giá trị khác. Sự cân bằng giữa nhu cầu khai thác các tài nguyên này với tổn thất do việc khai thác gây ra, thường là thách thức rất quan trọng đối với hệ thống quản lý vườn quốc gia. Các vườn quốc gia cũng hay bị đốn hạ bất hợp pháp và các dạng khai thác lậu khác, đôi khi là do tham nhũng. Điều này đe dọa tính nguyên vẹn của nhiều môi trường sống có giá trị.
2. Các dạng bảo tồn khác: Một vài quốc gia cũng chọn các khu vực với tầm quan trọng lịch sử, khoa học hay văn hóa đặc biệt làm vườn quốc gia hoặc là các thực thể đặc biệt trong hệ thống vườn quốc gia của mình. Các quốc gia khác lại sử dụng kiểu khác cho việc bảo tồn các khu vực lịch sử. Một số các khu vực này, nếu đạt được các tiêu chuẩn đã đề ra, có thể được UNESCO công nhận là Di sản thế giới.
Tại nhiều quốc gia, các cơ quan chính quyền địa phương có thể là tổ chức chịu trách nhiệm duy trì hệ thống vườn. Một số trong số các hệ thống vườn này cũng được gọi là vườn quốc gia.
Một số vườn quốc gia theo quốc gia:
Áo: Hiện tại, Áo có 6 vườn quốc gia với tổng diện tích 2.356 km², chiếm khoảng 2,8% diện tích nước này.
Đức: Tại Đức hiện tại có 14 khu vực thiên nhiên có giá trị được gọi là vườn quốc gia. Với 9.134,31 km², các vườn quốc gia của Đức chiếm khoảng 2,6% diện tích nước này.
Hoa Kỳ: Hiện tại Hoa Kỳ có 58 vườn quốc gia chính thức, nhiều trong số đó đã trên 100 năm tuổi. Vườn quốc gia Yellowstone tại các bang Wyoming, Montana và Idaho được thành lập năm 1872 là vườn quốc gia đầu tiên trên thế giới.
Việt Nam: Việt Nam hiện tại (năm 2007) có 30 vườn quốc gia, với vườn quốc gia Cúc Phương thành lập năm 1966 là vườn quốc gia đầu tiên tại Việt Nam. Tổng diện tích các vườn quốc gia khoảng 10.350,74 km² (trong đó có 620,10 km² là mặt biển), chiếm khoảng 2,93% diện tích đất liền của nước này.
Hình ảnh từ vệ tinh Landsat 7 của vườn quốc gia Kavir, Iran.
Vườn quốc gia tại Việt Nam là một danh hiệu được Chính phủ Việt Nam công nhận chính thức thông qua nghị định, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý.
30 vườn quốc gia sau đây tại Việt Nam đã được công nhận:
Vùng
Tên vườn
Năm thành lập
Diện tích(ha)
Địa điểm
Trung du và miền núi phía Bắc
Hoàng Liên
Lào Cai
Ba Bể
1992
7.610
Bắc Kạn
Bái Tử Long
2001
15.783
Quảng Ninh
Xuân Sơn
2002
15.048
Phú Thọ
Tam Đảo
36.883
Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Tuyên Quang
Đồng bằng Bắc Bộ
Ba Vì
1991
6.986
Hà Tây
Cát Bà
1986
15.200
Hải Phòng
Cúc Phương
1994
20.000
Ninh Bình, Thanh Hóa, Hòa Bình
Xuân Thủy
2003
7.100
Nam Định
Bắc Trung Bộ
Bến En
1992
16.634
Thanh Hóa
Pù Mát
2001
91.113
Nghệ An
Vũ Quang
2002
55.029
Hà Tĩnh
Phong Nha-Kẻ Bàng
200.000
Quảng Bình
Bạch Mã
1991
22.030
Thừa Thiên-Huế
Tây Nguyên
Chư Mom Ray
2002
56.621
Kon Tum
Kon Ka Kinh
2002
41.780
Gia Lai
Yok Đôn
1991
115.545
Đăk Lăk
Chư Yang Sin
2002
58.947
Đăk Lăk
Bidoup Núi Bà
64.800
Lâm Đồng
Đông Nam Bộ
Cát Tiên
1992
73.878
Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Phước
Bù Gia Mập
2002
26.032
Bình Phước
Côn Đảo
1993
15.043
Bà Rịa-Vũng Tàu
Lò Gò Xa Mát
2002
18.765
Tây Ninh
Tây Nam Bộ
Tràm Chim
1994
7.588
Đồng Tháp
U Minh Thượng
2002
8.053
Kiên Giang
Mũi Cà Mau
2003
41.862
Cà Mau
U Minh Hạ
2006
8.286
Cà Mau
Phước Bình
2006
19.814
Ninh Thuận
Núi Chúa
2003
29.865
Ninh Thuận
Phú Quốc
2001
31.422
Kiên Giang
1.VƯỜN QUỐC GIA HOÀNG LIÊN
Nằm ở độ cao từ 1.000 đến 3.000 m so với mặt biển, 60.000 ha Vườn quốc gia Hoàng Liên nằm ở phía Tây Nam huyện Sa Pa là một thảm thực vật đa dạng, lá phổi xanh tạo cho môi trường cảnh quan thiên nhiên Sa Pa nói riêng và các địa phương lân cận nói chung một khí hậu ôn hoà với đa dạng sinh học vô cùng phong phú và quý hiếm.
Tại đây, từ rất sớm các nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước qua nhiều năm nghiên cứu và tìm hiểu về hệ sinh thái Sa Pa đều thừa nhận là một vùng đa dạng sinh học gồm nhiều chi, họ của hơn 2.000 loài thực vật bậc cao, hàng ngàn loại động vật có xương sống, côn trùng và bò sát... chiếm gần 50% trong tổng loài của hệ động - thực vật Việt Nam, trong đó có nhiều loài động, thực vật quý hiếm có tên trong sách đỏ như: bách xanh, thiết sam, thông tre, thông đỏ, đinh tùng, dẻ tùng... Các loại chim quý như đại bàng đốm to, trĩ mào đỏ, chim hét mỏ vàng, vượn đen, gấu trắng, đại bàng... nhiều nơi vắng bóng nhưng nơi đây vẫn còn. Đó là chưa kể hàng trăm loài thảo dược quý hiếm như quy, thục, đỗ trọng, hoàng liên chân chim, đỗ quyên, kim giao, thảo quả chưa được khai thác.
Từ năm 2003 trở lại đây, sau khi có quyết định thành lập vườn quốc gia, một nhóm các nhà khoa học trong và ngoài nước, các trường đại học được giao nhiệm vụ kết hợp cùng địa phương nghiên cứu sự đa dạng sinh học của khu bảo tồn thiên nhiên đã tích cực khảo sát, thống kê một cách hệ thống nhằm xây dựng một bản đồ hiện trạng vườn quốc gia. Qua khảo sát theo dọc tuyến Hoàng Liên đã phát hiện thêm nhiều loài quý hiếm như ở độ cao 2.000 mét của khu vực các xã Séo Mý Tỷ đến Dền Thàng có khu rừng pơ mu mọc liên tiếp với diện tích trên 100 ha, mỗi cây có đường kính trên 1m, là vùng đất hầu như còn nguyên sơ chưa ai đặt chân đến. Còn ở huyện Phan Xi Păng đi San Sả Hồ ở độ cao gần 3.000m, lại phát hiện rừng đỗ quyên với khoảng 20 loài trong tổng số 27 loài có mặt tại Việt Nam, trong đó đẹp và nhiều nhất là loài quyên ly, quyên huyền diệu, quyên silie... Ngay cả loài kim giao được coi là hiếm cũng tìm thấy ở đây - trên độ cao 1.700m. Đó là chưa kể còn trên 2.500 loài lấy được mẫu tiêu bản nhưng chưa xác định được tên họ của cây. Gần đây, tại khu vực Vườn quốc gia, người ta còn tìm thấy loài nấm cổ linh chi, trong đó có cây to, nặng gần 6 kg. Về động vật, ngoài một số loài quen thuộc như sóc bay, mèo rừng, sơn dương, vượn đen, gà lôi đủ màu... mới đây còn phát hiện thêm loài ếch gai rất hiếm có ở Việt nam.
Do diện tích vườn rộng lớn, địa hình phức tạp, tiếp giáp với cả 6 xã trong huyện và một số huyện bạn, tỉnh bạn nên công tác bảo vệ tài nguyên thiên nhiên trong vườn được chính quyền địa phương (tỉnh Lào Cai) đặt lên hàng đầu và trực tiếp giao nhiệm vụ cho Ban giám đốc vườn quốc gia bằng những biện pháp hữu hiệu bảo vệ bằng được môi trường sinh thái ở đây. Trước mắt là đẩy mạnh tuyên truyền để nhân dân ở các vùng đệm không vào rừng khai thác, săn bắn bừa bãi động thực vật quý hiếm.
Từ năm 2003 trở lại đây, lãnh đạo Vườn đã có sáng kiến ký kết với các hộ dân trong vùng tham gia bảo vệ và phát triển Vườn. Đến giữa quý II/2004 đã có trên 300 hộ dân ở 6 xã vùng đệm và các trưởng thôn bản, các trường dòng họ ký cam kết tham gia bảo vệ rừng và thú rừng theo những nội dung cam kết không săn bắn, bẫy bắt chim chóc, thú rừng, không khai thác chặt phá rừng v.v... Phát triển du lịch cảnh quan sinh thái phải đảm bảo không xâm hại đến rừng, không vứt rác thải, hoá chất gây tác động xấu ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái của Vườn. Có kế hoạch hỗ trợ rút những hộ dân ra khỏi vùng lõi để tập trung công tác tu bổ, bảo vệ phát triển vốn rừng... Tuy nhiên đến nay mới có 1/6 diện tích (khoảng 10.000 ha trong tổng số 60.000 ha) Vườn được ký cam kết với dân, số diện tích còn lại vẫn đang tiếp tục được triển khai theo phương án tiếp tục ký kết với dân địa phương hoặc tăng cường biên chế cho lực lượng bảo vệ Vườn; tăng cường giáo dục nâng cao ý thức bảo vệ tài nguyên môi trờng đối với người dân đi đôi với áp dụng các biện pháp ngăn chặn sự săn bắn, khai thác bừa bãi tài nguyên rừng, hạn chế và tiến tới ngăn chạn có hiệu quả việc khai thác, săn bắn khiến sinh vật trong Vườn suy giảm.
Với lòng yêu nghề và quý rừng, hiện nay đội ngũ cán bộ Vườn quốc gia đang tập trung hoàn chỉnh bản đồ hiện trạng rừng Vườn quốc gia Hoàng Liên với thời gian sớm nhất để phục vụ nghiên cứu khoa học và bảo tồn sự đa dạng sinh học tại đây, góp phần giữ cho môi trường sinh thái Sa Pa mãi mãi trở thành điểm nghỉ mát hấp dẫn, điểm tham quan du lịch phía Tây Bắc của tổ quốc còn giữ mãi được vẻ đẹp tự nhiên và không khí trong lành vốn có của nó.
2.VƯỜN QUỐC GIA BA BỂ:
Địa điểm: miền Bắc Việt Nam
Gần thành phố Bắc Cạn
Tọa độ: 22o24’19’’N, 105o36’55’’E
Diện tích : 76,19 km2.
Thành lập: 1992
Khách tham quan: 63.000 ( năm 2004).
Cơ quan quản lý: UBND tỉnh Bắc Cạn
Hồ Ba Bể trong vườn quốc gia Ba Bể.
Vườn quốc gia Ba Bể: là một vườn quốc gia, rừng đặc dụng, khu du lịch sinh thái của Việt Nam, nằm trên địa phận tỉnh Bắc Kạn, với trung tâm là hồ Ba Bể. Vườn quốc gia Ba Bể được thành lập theo Quyết định số 83/TTg ngày 10 tháng 11 năm năm 1992 của Thủ tướng Chính phủ.
Vị trí: Vườn có tọa độ là 105°36′55″ kinh đông, 22°24′19″ vĩ bắc. Nó nằm trên địa bàn 5 xã Nam Mẫu, Khang Ninh, Cao Thương, Quảng Khê, Cao Trĩ thuộc huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Vườn quốc gia này cách thị xã Bắc Kạn 50 km và Hà Nội 250 km về phía bắc.
Thông tin chính: Vườn có diện tích 7.610 ha, trong đó:
- Khu bảo vệ nghiêm ngặt có diện tích 3.266,2 ha.
- Khu phục hồi tái sinh rộng 4.083,4 ha,
- Khu dịch vụ hành chính 301,4 ha.
Vườn có độ cao so với mực nước biển là từ 150 m đến 1.098 m. Ở phía tây nam của vườn có dãy núi Phia Boóc, có các điểm cao từ 1.505 m đến 1.527 m.
Đa dạng sinh học: Với trung tâm là hồ Ba Bể, khu vườn quốc gia này có:
- 600 loài cây thân gỗ (thuộc 300 chi, 114 họ khác nhau).
- 65 loài thú (22 loài có tên trong sách Đỏ Việt Nam).
- 214 loài chim thuộc 17 bộ,47 họ (7 loài có tên trong sách Đỏ Việt Nam).
- 46 loài bò sát và động vật lưỡng cư.
- 87 loài cá (11 loài có tên trong sách Đỏ Việt Nam).
Vườn có một số loài quý hiếm như voọc mũi hếch, gấu ngựa, báo lửa, báo hoa.
3.VƯỜN QUỐC GIA BÁI TỬ LONG
Địa điểm: miền Bắc Việt Nam
Gần thành phố : Hạ Long
Tọa độ: 21o05’07’’N, 107o38’15’’E
Diện tích : 157,84 km2.
Thành lập: 2001
Cơ quan quản lý: UBND tỉnh Quảng Ninh.
Vườn quốc gia Bái Tử Long là một khu bảo tồn sinh quyển cấp quốc gia tại khu vực vịnh Bái Tử Long huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh Việt Nam. Vườn được thành lập theo quyết định 85/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 1 tháng 6 năm 2001.
Vườn quốc gia Bái Tử Long nằm trong vùng có tọa độ địa lý là: 20°55'05" ÷ 21°15'10" vĩ độ Bắc và 107°30'10" ÷ 107°46'20" kinh độ Đông. Diện tích tự nhiên của vườn bao gồm diện tích đất đai của tất cả các đảo nằm trong khu vực tọa độ trên, kèm theo các vùng biển vùng quanh các đảo này với bề rộng 1 km tính từ đường bờ biển các đảo đó, tổng diện tích là 15.783 ha. Các đảo thuộc vườn quốc gia bao gồm: Ba Mùn, Trà Ngọ Lớn, Trà Ngọ Nhỏ, Sậu Nam, Sậu Động, Đông Ma, Hòn Chính, Lò Hố, Máng Hà Nam, Máng Hà Bắc, Di To, Chầy Cháy, Đá Ẩy, Soi Nhụ, ..., và các đảo nhỏ trong vùng tọa độ nêu trên.
4. VƯỜN QUỐC GIA XUÂN SƠN
Địa điểm:Phú Thọ, Việt Nam
Gần thành phố Việt Trì
Tọa độ: 21o07’30’’N, 104o56’00’’E
Diện tích : 150,48 km2.
Thành lập: 2002
Cơ quan quản lý: UBND tỉnh Phú Thọ.
Vị trí địa lý: Vườn quốc gia Xuân Sơn nằm ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ, cách thành phố Việt Trì 80 km, có phạm vi ranh giới được xác định như sau:
- Phía Đông: Giáp các xã Tân Phú, Minh Đài, Long Cốc, huyện Tân Sơn.
- Phía Tây: Giáp huyện Phù Yên (tỉnh Sơn La), huyện Đà Bắc (tỉnh Hoà Bình).
- Phía Nam: Giáp huyện Đà Bắc (tỉnh Hoà Bình).
- Phía Bắc: Giáp xã Thu Cúc, huyện Tân Sơn.
Tọa độ địa lý: Từ 21°03' đến 21°12' vĩ bắc và từ 104°51' đến 105°01' kinh đông.
Địa hình: Vườn quốc gia Xuân Sơn nằm trên hệ thống núi đá vôi có độ cao từ 700 đến 1.300 m. Trong khu vực có rất nhiều hang đá.
Diện tích: Vườn quốc gia Xuân Sơn có diện tích vùng đệm 18.369 ha, trong đó diện tích vùng lõi là 15.048ha khu vực bảo vệ nghiêm ngặt là 11.148 ha, phân khu phục hồi sinh thái kết hợp bảo tồn di tích lịch sử: 3.000 ha phân khu hành chính, dịch vụ: 900 ha. Điểm đặc trưng của Xuân Sơn là vườn quốc gia duy nhất có rừng nguyên sinh trên núi đá vôi (2.432 ha). Xuân Sơn được đánh giá là rừng có đa dạng sinh thái phong phú, đa dạng sinh học cao, đa dạng địa hình kiến tạo nên đa dạng cảnh quan.
Diện tích vùng đệm của Vườn quốc gia Xuân Sơn là 18.639 ha, bao gồm các xã: Kiệt Sơn, Lai Đồng, Minh Đài và một phần các xã: Đồng Sơn, Tân Sơn, Kim Thượng, Xuân Đài, đều cùng huyện.
Đa dạng sinh học:
Những dãy núi đá vôi tại Vườn quốc gia Xuân Sơn
Theo thống kê bước đầu, Vườn quốc gia Xuân Sơn có 726 loài thực vật có mạch thuộc 475 chi và 134 họ trong đó có 52 loài thuộc ngành Quyết và ngành Hạt trần. Có 282 loài động vật, với 23 loài lưỡng cư, 30 loài bò sát, 168 loài chim, 61 loài thú[1].
Nằm trong khu vực giao tiếp của hai luồng thực vật Mã Lai và Hoa Nam, hệ thực vật ở Xuân Sơn có các loài re, dẻ, sồi và mộc lan chiếm ưu thế. Ngoài ra, ở Xuân Sơn còn có các loài tiêu biểu cho khu vực Tây Bắc như táu muối, táu lá duối, sao mặt quỷ và chò chỉ, chò vảy, nghiến, dồi, vầu đắng, kim giao (rừng chò chỉ ở Xuân Sơn là một trong những rừng chò chỉ đẹp và giàu nhất miền Bắc). Xuân Sơn còn là kho giống bản địa, kho cây thuốc khổng lồ, đặc biệt là cây rau sắng mọc tự nhiên có mật độ cao nhất miền Bắc
5.VƯỜN QUỐC GIA TAM ĐẢO.
Vị trí: Vườn quốc gia Tam Đảo nằm trọn trong dãy núi Tam Điệp,tỉnh Vĩnh Phúc.Đặc điểm: vườn quốc gia Tam Đảo là khu vực có tính đa dạng sinh học cao, là kho dự trữ các nguồn gen động thực vật quý hiếm của nước ta.
Vườn Quốc gia Tam Đảo có diện tích 36.883 ha. Thảm thực vật ở đây đặc trưng cho 5 kiểu rừng. Hệ thực vật có 904 loài thuộc 478 chi, 213 họ thực vật bậc cao, trong đó có 64 loài thực vật quí hiếm được ghi vào Sách Đỏ Việt Nam. Động vật gồm có 307 loài, trong đó 56 loài động vật quí hiếm có tên trong Sách Đỏ Việt Nam (gồm 22 loài thú, 9 loài chim, 17 loài bò sát, 7 loài lưỡng cư và 1 loài côn trùng).
Vườn quốc gia Tam Đảo là tài sản quý của quốc gia, có nhiều lợi ích cho cộng đồng cư dân trong khu vực. Vườn còn đem lại giá trị to lớn trong việc bảo vệ môi trường, điều tiết và cung cấp nước, phục vụ nghiên cứu khoa học và phục vụ cho du lịch và nghỉ dưỡng, cung cấp lâm sản, dược liệu...
6. VƯỜN QUỐC GIA BA VÌ.
Vườn quốc gia Ba Vì là một vườn quốc gia của Việt Nam, được thành lập năm 1991 theo quyết định số 407-CT ngày 18 tháng 12 năm 1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam.
Vị trí địa lý: Toạ độ địa lý: Từ 21 độ 01' đến 21 độ 07' vĩ độ bắc và 105 độ 16' đến 105 độ 25' kinh độ đông.
Vườn quốc gia Ba Vì nằm trên khu vực thuộc huyện Ba Vì tỉnh Hà Tây và hai huyện Lương Sơn, Kỳ Sơn tỉnh Hòa Bình với diện tích 6.986 ha, cách Sơn Tây, Hà Tây 15 km và cách Hà Nội 50 km về phía tây.
Từ đầu thế kỉ 20, Ba Vì đã là địa danh nổi tiếng nhờ sự đa dạng của các hệ sinh thái và có phong cảnh đẹp, khí hậu mát mẻ. Vườn quốc gia này nằm trong dãy núi cao chạy dọc theo hướng đông bắc-tây nam với đỉnh Vua cao 1.296 m, đỉnh Tản Viên cao 1.226 m, đỉnh Ngọc Hoa cao 1.120 m.
Động-thực vật: Hiện tại, người ta đã biết trên 1.000 loài thực vật, trong số đó có khoảng 200 loài cây dược liệu, nhiều loài quý như bách xanh, thông, dẻ, lát hoa. Về động vật, có 45 loài thú, 115 loài chim, 61 loài bò sát và 27 loài ếch nhái, trong đó có nhiều loài quý hiếm có tên trong Sách đỏ Việt Nam và thế giới như gà lôi trắng, khỉ, báo, gấu, sóc bay, v.v
File đính kèm:
- tai_lieu_tim_hieu_vuon_quoc_gia_viet_nam.doc