Tham luận:
“CÔNG TÁC GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG”
I. Mục đích, yêu cầu:
Trường học là nơi đào tạo học sinh vừa hồng và vừa chuyên, chuyên về kiến thức và hồng về đạo đức. Vì vậy mà công tác chủ nhiệm có một vai trò quan trọng không kém gì công tác dạy học.
Giáo viên chủ nhiệm(GVCN) lớp là người chịu trách nhiệm thực hiện mọi quyết định quản lý của hiệu trưởng đối với lớp và các thành viên trong lớp. GVCN lớp là người vạch kế hoạch, tổ chức cho lớp mình thực hiện các chủ đề theo kế hoạch và theo dõi, đánh giá việc thực hiện của các học sinh(HS). GVCN lớp phải biết phối hợp với các GV bộ môn, chỉ huy quản lý học sinh trong lớp học tập, lao động, công tác. Chủ nhiệm cũng là người phối hợp với các tổ chức, đoàn thể trong trường trong đó quan hệ nhiều ở cấp THPT là đoàn trường, chi đoàn GV, hội CMHS, để làm tốt công tác dạy- học- giáo dục HS trong lớp phụ trách.
Muốn học sinh tiếp cận được mọi tri thức, người giáo viên chủ nhiệm phải có biện pháp giúp các em có ý thức học tập chủ động tiếp thu kiến thức, hăng say và thi đua trong học tập. Hoạt động của công tác chủ nhiệm đòi hỏi phải có mục tiêu, nội dung và hệ thống những biện pháp cho từng thời điểm của năm học. Để làm được những công tác này, GVCN cần phải xây dựng chức năng, nhiệm vụ của mình như thế nào?
Qua thực tế công việc của GVCN, tôi xin trình bày một số ý kiến về công tác chủ nhiệm lớp ở các trường phổ thông hiện nay.
II. Giải quyết vấn đề:
1. Vài nét về vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp trong trường THPT:
- Là thầy dạy văn hóa tại lớp chủ nhiệm.
- Chủ động kết hợp với giáo viên bộ môn, đoàn thể, gia đình để giáo dục đạo đức cho HS.
- Tổ chức quản lý, điều hành hoạt động của lớp.
- Nắm vững kế hoạch giảng dạy, giáo dục lao động, hướng nghiệp dạy nghề và những hoạt động khác của nhà trường đề ra để thực hiện cho lớp.
- Xây dựng tốt mối quan hệ giữa học sinh- học sinh, giữa thầy- trò.
- Cố vấn cho học sinh xây dựng tập thể tốt, phát huy khả năng tự giác, tự quản của học sinh trong lớp.
10 trang |
Chia sẻ: thanhthanh29 | Lượt xem: 1304 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tham luận: Công tác giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sở GD và ĐT tỉnh Hậu Giang
Trường THPT Ngã Sáu
Tổ Lý- Hóa- Sinh
Tham luận:
“CÔNG TÁC GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG”
I. Mục đích, yêu cầu:
Trường học là nơi đào tạo học sinh vừa hồng và vừa chuyên, chuyên về kiến thức và hồng về đạo đức. Vì vậy mà công tác chủ nhiệm có một vai trò quan trọng không kém gì công tác dạy học.
Giáo viên chủ nhiệm(GVCN) lớp là người chịu trách nhiệm thực hiện mọi quyết định quản lý của hiệu trưởng đối với lớp và các thành viên trong lớp. GVCN lớp là người vạch kế hoạch, tổ chức cho lớp mình thực hiện các chủ đề theo kế hoạch và theo dõi, đánh giá việc thực hiện của các học sinh(HS). GVCN lớp phải biết phối hợp với các GV bộ môn, chỉ huy quản lý học sinh trong lớp học tập, lao động, công tác. Chủ nhiệm cũng là người phối hợp với các tổ chức, đoàn thể trong trường trong đó quan hệ nhiều ở cấp THPT là đoàn trường, chi đoàn GV, hội CMHS, để làm tốt công tác dạy- học- giáo dục HS trong lớp phụ trách.
Muốn học sinh tiếp cận được mọi tri thức, người giáo viên chủ nhiệm phải có biện pháp giúp các em có ý thức học tập chủ động tiếp thu kiến thức, hăng say và thi đua trong học tập. Hoạt động của công tác chủ nhiệm đòi hỏi phải có mục tiêu, nội dung và hệ thống những biện pháp cho từng thời điểm của năm học. Để làm được những công tác này, GVCN cần phải xây dựng chức năng, nhiệm vụ của mình như thế nào?
Qua thực tế công việc của GVCN, tôi xin trình bày một số ý kiến về công tác chủ nhiệm lớp ở các trường phổ thông hiện nay.
II. Giải quyết vấn đề:
1. Vài nét về vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp trong trường THPT:
- Là thầy dạy văn hóa tại lớp chủ nhiệm.
- Chủ động kết hợp với giáo viên bộ môn, đoàn thể, gia đình để giáo dục đạo đức cho HS.
- Tổ chức quản lý, điều hành hoạt động của lớp.
- Nắm vững kế hoạch giảng dạy, giáo dục lao động, hướng nghiệp dạy nghề và những hoạt động khác của nhà trường đề ra để thực hiện cho lớp.
- Xây dựng tốt mối quan hệ giữa học sinh- học sinh, giữa thầy- trò.
- Cố vấn cho học sinh xây dựng tập thể tốt, phát huy khả năng tự giác, tự quản của học sinh trong lớp.
- Hiểu rõ từng đối tượng học sinh trong lớp và có phương pháp giáo dục thích hợp. Đặc biệt chú ý đến những học sinh cá biệt để nhận định, đánh giá chính xác từng học sinh.
- Dạy và tổ chức những hoạt động học tập trong và ngoài giờ của học sinh.
2. Những yếu tố của GVCN lớp:
a). Tố chất để làm nên một GVCN lớp tốt:
Vì GVCN là cán bộ quản lý lớp cho nên người dạy giỏi và người chủ nhiệm giỏi không nhất thiết là một. Có đồng thuận, có lệch pha trong thực tế là bình thường. Tố chất quan trọng của GVCN là tố chất của một con người hành động. Đối tượng quản lý trường học, lớp học là con người phải giáo hoá, do đó không thể có một chương trình cài đặt sẵn mà phải lao vào làm. Thấy đúng thì tổng kết và áp dụng tiếp, thấy sai phải điều chỉnh kế hoạch kịp thời hoặc huỷ bỏ theo quy trình: xây dựng kế hoạch - thực hiện kế hoạch - kiểm tra kế hoạch - tổng kết và vạch kế hoạch mới. Rất cần ở chủ nhiệm lớp các phẩm chất nhiệt tình, sâu sát, cần cù, trí nhớ tốt, quan sát tinh, tâm lí giỏi, có khả năng xây dựng đội ngũ cán bộ HS. GVCN phải vừa là thầy vừa là bạn của học trò.
b). GVCN lớp là tấm gương sáng cho HS noi theo:
Trong lớp học, GVCN là người để các em noi theo. Cách hành động, suy nghĩ, cư xử của GV sẽ ảnh hưởng rất nhiều về quan niệm của học sinh và phụ huynh về GV. Bản thân tôi vừa là GVCN đồng thời là GVBM Vật lý. Vì vậy, khi đến trường hoặc lên lớp, tôi đều có những tác phong làm gương cho học sinh.
Soạn bài trước khi đến lớp. Theo tôi, chỉ khi nào thầy cô cảm thấy hứng thú với bài dạy thì sự hứng thú đó mới lây truyền sang HS. Sự hứng thú này đi đôi với sự soạn bài trước và có một chương trình trước cho những gì phải làm trong giờ học thay vì một thái độ "tùy cơ ứng biến". GV cần chuẩn bị đầy đủ tài liệu, đồ dùng dạy học trước khi dạy. Người dạy càng tận tâm thì các em càng cố gắng học.
Khi lên lớp, theo tôi, GV cần có lời nói gọn, rõ ràng, dứt khoát. Khi nói nhìn thẳng vào học sinh, nói thẳng với các em chứ đừng nói như nói với chính mình hay nói khơi khơi giữa lớp. Dùng từ, câu dễ hiểu , hợp với trình độ học sinh. Biết lắng nghe học sinh nói. Mỗi khi các em phát biểu ý kiến hay nói một điều gì, thầy cô dù bận rộn cũng phải lắng nghe các em nói. Có như vậy khi thầy cô nói các em mới chú ý nghe trở lại.
Bên cạnh đó, GVCN biết thông cảm và chia sẻ những khó khăn của các em. Trả lời những câu hỏi của các em một cách thấu đáo (nếu chưa có câu trả lời, hứa sẽ tìm câu trả lời chính xác). Cho các em biết là các em có thể điện thoại cho thầy cô để nói chuyện hay hỏi bài vở (cách làm bài, giải thích chữ khó, cách trả lời ...). Hỏi các em về những khó khăn trong đời sống, những khó khăn ở trường... giúp các em giải quyết những khó khăn này. Trong lớp học hay ngoài lớp học, thầy cô còn phải đóng vai người anh, người chị mà các em có thể tin tưởng, nhờ cậy được. Qua đó, các em sẽ biết sống nhẫn nại, kiên trì và giàu lòng nhân ái.
c). Biện pháp có thể thực hiện:
* Nhận lớp chủ nhiệm:
- Phân loại học sinh về hai mặt học lực và đạo đức, dựa vào hai mặt này để tổ chức lớp.
- Yêu cầu học sinh nộp sơ yếu lý lịch.
* Lựa chọn ban cán sự lớp.
- Cơ sở lựa chọn:
+ Căn cứ vào hồ sơ học bạ của HS.
+ Căn cứ sự tín nhiệm của tập thể lớp qua việc bình bầu dân chủ đầu mỗi năm học.
- Phân công nhiệm vụ cho ban cán sự lớp:
Ban cán sự lớp đại diện cho lớp, chịu trách nhiệm trước Nhà trường về toàn bộ hoạt động học tập, rèn luyện, đời sống của lớp trong thời gian học. Ban cán sự lớp do tập thể lớp bầu ra, được GVCN quyết định công nhận. Nhiệm kỳ của Ban cán sự lớp là một năm.
Cơ cấu của Ban cán sự lớp có thể là:
+ Lớp trưởng.
+ Lớp phó học tập và trật tự.
+ Lớp phó văn thể.
+ Lớp phó lao động.
+ Thủ quỹ lớp.
+ Thư ký lớp.
* Lập sơ đồ tổ chức lớp học.
- Căn cứ vào học lực của HS: HS yếu kém, chậm tiến ngồi trước; HS khá giỏi ngồi sau.
- Căn cứ vào tình trạng sức khỏe của HS: HS thấp trước, cao sau; HS mắt yếu ngồi gần bảng.
- Căn cứ vào nhiệm vụ của ban cán sự lớp: ngồi giữa và sau.
* GVCN phổ biến nội quy và biện pháp xử lý:
Học sinh vi phạm của trường và của lớp. Tổ chức cho học sinh thảo luận và thống nhất một số quy định của lớp.
* GVCN đề ra phong trào thi đua và chỉ tiêu phấn đấu của lớp.
3. Vai trò của GVCN trong việc kết hợp nhà trường - gia đình - xã hội:
a). Cơ sở lí luận:
- Vai trò nhà trường, gia đình và xã hội trong giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh.
- Các phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của con người nói chung, HS nói riêng được hình thành và phát triển trong các môi trường: gia đình, nhà trường và xã hội. Lúc sơ sinh vai trò của gia đình là chủ đạo, tuổi học mầm non gia đình và nhà trường góp phần quyết định, tuổi học phổ thông (từ tiểu học tới trung học) càng lớn vai trò của nhà trường, gia đình và xã hội càng cân đối. Để làm tốt việc giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho HS THPT phải kết hợp chặt chẽ với gia đình.
- Nhà trường, gia đình và xã hội có vai trò giáo dục khác nhau đối với sự hình thành và phát triển phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của HS. Trong mối quan hệ đó thì nhà trường được xem là trung tâm, chủ động, định hướng trong việc phối hợp với gia đình và xã hội. Nhà trường là môi trường giáo dục toàn diện nhất, là cơ quan nhà nước thực hiện chức năng giáo dục chuyên nghiệp nhất nên nhà trường là lực lượng giáo dục có hiệu quả nhất, hội tụ đủ những yếu tố cần thiết để có thể huy động sức mạnh giáo dục từ phía gia đình và xã hội.
- Có một thực trạng tồn tại là các tệ nạn xã hội như đề đóm, cờ bạc, nghiện hút v.v cũng xuất hiện, làm đảo lộn vẩn đục môi trường giáo dục đạo đức, không ngừng ảnh hưởng đến đạo đức, nhân cách và lối sống của HS. Nhà trường dù là một pháo đài vững chắc nhưng vẫn có thể bị "tập kích" từ phía ngoài. Nhà trường không phải là một ốc đảo tách khỏi xã hội, tách xa thực tiễn. Thực tiễn cuộc sống, nhất là cuộc sống xã hội đang có các nhân tố của kinh tế thị trường tác động đến nhà trường, có lúc nhẹ nhàng, có khi sôi động dồn dập. Xã hội ô nhiễm, luồng văn hoá ngoại lai, đồi truỵ, bạo lực... len lỏi vào mọi tầng lớp nhân dân đã rất dễ gây ấn tượng và phản ảnh sâu đậm đối với trẻ.
- GVCN biết kết hợp và phát huy nhằm giáo dục về tình hình và nhiệm vụ của đất nước, tình hình thời sự, chính trị trong nước và thế giới (có định hướng chính trị rõ ràng); giáo dục về tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội - chính trị trong hệ thống chính trị ở Việt Nam, về quyền tự do, dân chủ và trách nhiệm công dân; bồi dưỡng một số kỹ năng sinh hoạt chính trị - xã hội cần thiết.
b) Biện pháp thực hiện nhằm giáo dục HS cá biệt và tránh tình trạng HS bỏ học:
* Thực trạng:
- Hầu như trường nào, lớp học nào cũng có học sinh cá biệt, mà những học sinh này đa số gây không ít khó khăn cho GVCN, đôi khi họ rất mệt mỏi vì nói hoài mà các em không nghe, càng phạt thì càng lỳ hơn hoặc các em sẽ co lại và phá phách hoặc chống đối ngầm. Điều này không những khó khăn cho GV mà còn có thể ảnh hưởng đến chuyện thi đua của cả lớp nữa.
- GVCN thường là người đứng ra giải quyết mọi chuyện do HS gây ra, nhưng chỉ ở mức độ là khuyên bảo, dạy kèm ngoài giờ cho HS quá yếu kém, còn đối với HS cá biệt về đạo đức thì răn đe, xử phạt, thậm chí còn hù dọa, nhưng hầu hết đều chỉ có hiệu quả tức thời thôi rồi đâu lại vào đó, HS vẫn trở lại như cũ vì do GV không hiểu được nguyên nhân sâu phát xuất từ tâm lý của trẻ.
- Cũng có GVCN mời phụ huynh đến để thông báo về tình trạng của trẻ với mong muốn gia đình kết hợp cùng nhà trường để giáo dục cho các em tốt hơn, có phụ huynh thì tiếp thu và cũng có phụ huynh lại bực tức con mình và đánh con trước mặt giáo viên rồi dẫn con về cho nghỉ học luôn vì cảm thấy xấu hổ. Điều này đã cho thấy chính phụ huynh cũng bất lực trước con mình...
- HS không có tội, nếu sống trong một gia đình lành mạnh thì HS sẽ có một nhân cách tốt và ngược lại, vì thế HS chỉ là nạn nhân mà thôi.
* Tìm hiểu nguyên nhân:
- Lâu nay, chỉ thường nghe cụm từ “học sinh cá biệt” - ám chỉ những đứa trẻ có vẻ khác thường, khó dạy, thậm chí hư hỏng. Trong trường, HS dạng cá biệt về đạo đức thường quậy phá, đánh lộn, trộm cắp, nổi bật vai trò thủ lĩnh, lập băng nhóm... nhẹ hơn một chút là một dạng nữa về học tập: HS không học bài, làm bài, HS chậm hiểu và rất mau quên... Và HS bị gọi "cá biệt" là HS có khiếm khuyết về tâm lý, do HS bị ảnh hưởng từ trong gia đình của HS, đa số chúng ta khi thấy hành động khác thường, không ngoan của HS thì cho là cá biệt và xử lý trên hành động do HS gây ra mà quên là cần phải tìm cho ra nguyên nhân. Đôi khi sự cá biệt của những HS ấy lại do từ cha mẹ chúng...cuộc sống vợ chồng không hoà thuận, ít quan tâm con cái, từ đó có ảnh hưởng đến đặc điểm tâm sinh lý của HS.
- Không phải tự nhiên mà trẻ trở thành "cá biệt", đó là hậu quả của các vết thương tâm lý mà vô tình người lớn chúng ta đã gieo vào đầu óc non nớt của trẻ lúc sống trong môi trường gia đình cũng như ở trường học.
- Gia đình khó khăn; một số học sinh bị bệnh và điều đáng lưu tâm là một số học sinh ham chơi, học kém, chán học, bỏ học...
* Giải pháp:
- Trước hết, chúng ta hãy thương yêu HS, cố gắng để giúp HS vượt qua những biến cố, những vấn đề đã xảy trong quá trình sống và nó đã trở thành vết thương tâm lý khó phai mờ trong tâm hồn HS.
- HS cá biệt thì cần được sự giúp đỡ trong học hành, lối sống.
- GVCN cần có nề nếp kỷ cương để HS tự nhận thức, tự khép mình trong những nội quy, quy chế chặt chẽ nhưng luôn được dân chủ bàn bạc, trao đổi, thỏa sức đóng góp. Tuân theo tập thể và cống hiến cho tập thể; luôn gắn lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, chính là một trong những chuẩn mực, điều kiện để giáo dục HS. Trong trường cần có dân chủ đối với mọi vấn đề, thầy và trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa thông suốt thì hỏi, bàn cho thông suốt. Dân chủ nhưng trò phải kính thầy, thầy phải quý trò. Chúng ta phải hiểu dân chủ trong trường học trước hết là do nhu cầu sống chính của nhà giáo, của HS và CMHS.
- Tổ chức vận động các gia đình, các đoàn thể XH cùng phối hợp, thống nhất nội dung, mục đích, biện pháp giáo dục HS trong trường và cụm dân cư.
- Giáo dục trong tập thể và bằng tập thể lớp, trường, địa phương.
- Thuyết phục bằng lời lẽ có lý, có tình, bằng tình cảm và phép tắc tác động lên nhận thức và tình cảm của HS như: trò chuyện, nêu gương tốt, thưởng việc tốt.
- Đưa các em vào hoạt động tập thể thực tiễn như hoạt động tập thể trong và ngoài nhà trường, vui chơi, tham quan du lịch qua đó hiểu thêm HS, gắn bó học sinh với tập thể, xoá đi những thiếu sót.
- Khuyến khích khen chê đúng mục đích, đúng việc, đúng lúc, tế nhị mà hiệu quả.
- Xây dựng nếp sống văn minh, văn hoá thanh lịch, xây dựng tình thương yêu đoàn kết.
- Nhà trường, các đoàn thể, các ngành, các gia đình cùng tổ chức giáo dục đạo đức cho HS.
- Đầu tư cho con em học tập, vui chơi thoả đáng.
- Không nên chỉ mời CMHS khi thấy cần thiết hay xảy ra sự cố trong trường học, lớp học mà nên xem việc gặp gỡ, trao đổi với CMHS là chuyện bình thường.
4. Giáo dục đạo đức HS thông qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm:
Theo qui định, tiết chủ nhiệm chỉ dành khoảng 15 phút để GV tổng kết tình hình học tập, vệ sinh, chuyên cần... của lớp; 30 phút còn lại tổ chức cho HS sinh hoạt ...Mỗi tiết sinh hoạt chủ nhiệm đều phải có biên bản được ghi vào sổ nghị quyết của lớp.
Giờ sinh hoạt bắt đầu bằng những tóm tắt kết quả học tập và rèn luyện của cả lớp trong tuần của ban cán sự lớp. Thông qua sổ đầu bài, sổ cờ đỏ của Đoàn trường, các GVBM, tôi nhận xét, đánh giá từng HS. Tôi luôn luôn nhắc nhở và động viên tinh thần các em, tạo động lực giúp cả lớp cố gắng hơn.
Tôi luôn dạy các em cách học làm người, cách sống, cách ứng xử với mọi người. Có những hôm tôi không nói gì cả mà chỉ kể cho các em nghe một mẩu chuyện trong sách, báo, internet mà tôi sưu tầm được để các em tự rút ra bài học cho mình.
5. Giáo dục học sinh với phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”:
“Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” là phong trào thi đua rộng lớn đã được Bộ Giáo dục-Đào tạo triển khai trong toàn ngành và hoạt động trong giai đoạn 5 năm (từ 2008 đến 2013). Theo đó, các cơ sở giáo dục phổ thông phải xây dựng môi trường giáo dục an toàn, thân thiện, hiệu quả, phù hợp với điều kiện của địa phương và đáp ứng nhu cầu xã hội; và học sinh phải phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo trong học tập và trong các hoạt động xã hội, góp phần vào sự phát triển của đất nước.
a). Thế nào là trường học thân thiện?
- Trường học thân thiện, trước hết là nơi tiếp nhận và tạo điều kiện để cho tất cả thanh, thiếu niên đến trường thực hiện bình đẳng về quyền học tập .
- Trường học thân thiện là trường học có chất lượng giáo dục toàn diện và hiệu quả giáo dục không ngừng được nâng cao. Các thầy, cô giáo phải thân thiện trong dạy học, thân thiện trong đánh giá kết quả rèn luyện, học tập của học sinh, đánh giá công bằng, khách quan với lương tâm và trách nhiệm của nhà giáo. Các thầy, cô giáo trong quá trình dạy học phải thân thiện với mọi năng lực thực tế của mọi đối tượng học sinh, để các em tự tin bước vào đời.
- Trường học thân thiện là trường học có môi trường sống lành mạnh, an toàn, tránh được những bất trắc, nguy hiểm đe dọa học sinh.
- Trường học thân thiện là trường tạo lập sự bình đẳng giới, xây dựng thái độ và giáo dục hành vi ứng xử tôn trọng bình đẳng nam nữ. Trường học thân thiện phải chú trọng giáo dục kỹ năng sống, giáo dục cho học sinh biết rèn luyện thân thể, biết tự bảo vệ sức khỏe, biết sống khỏe mạnh, an toàn.
- Trường học thân thiện là nơi huy động có hiệu quả sự tham gia nhiệt tình của học sinh, thầy cô giáo, cha mẹ học sinh, của chính quyền, các tổ chức đoàn thể, các đơn vị kinh tế và nhân dân địa phương nơi trường đóng cùng đồng lòng, đồng sức xây dựng nhà trường.
b). Mục đích, ý nghĩa của phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”
- Quan trọng nhất là tạo nên một môi trường giáo dục (cả về vật chất lẫn tinh thần) an toàn, bình đẳng, tạo hứng thú cho học sinh trong học tập, góp phần đảm bảo quyền được đi học và học hết cấp của học sinh, nâng cao chất lượng giáo dục trên cơ sở tập trung mọi nỗ lực của nhà trường vì người học, với các mối quan tâm thể hiện thái độ thân thiện và tinh thần dân chủ.
- Trong môi trường trường học thân thiện, trẻ em sẽ cảm nhận được sự thoải mái khi việc học của mình vừa gắn với kiến thức trong sách vở, vừa thông qua sự thâm nhập, trải nghiệm của chính bản thân trong các hoạt động ngoại khóa, trong các trò chơi dân gian, các hoạt động tập thể vui mà học. Như thế, mỗi ngày trẻ em đến trường là một ngày vui. Trường học thân thiện gắn bó chặt chẽ với việc phát huy tính tích cực của học sinh. Trong môi trường phát triển toàn diện đó, học sinh học tập hứng thú, chủ động tìm hiểu kiến thức dưới sự dìu dắt của thầy cô giáo, gắn chặt giữa học và hành, biết thư giãn khoa học, rèn luyện kỹ năng và phương pháp học tập, trong đó những yếu tố hết sức quan trọng là khả năng tự tìm hiểu, khám phá, sáng tạo.
- Trong cuộc vận động “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, vai trò các thầy cô giáo có ý nghĩa hết sức quan trọng. Thực hiện kế hoạch này, chúng ta từng bước xây dựng đội ngũ giáo viên có phẩm chất đạo đức, năng lực quản lý, đáp ứng yêu cầu của giáo dục trong thời kỳ phát triển mới. Theo đó, các thế hệ học sinh năng động, tích cực dưới sự dạy dỗ của các thầy cô giáo được học tập trong môi trường trường học thân thiện, sẽ là nhân tố quyết định sự phát triển bền vững của đất nước.
-Thực tiễn đã chứng minh, muốn trở thành một giáo viên giỏi, thân thiện với học sinh, được học sinh yêu mến, phải làm cho học sinh chờ đón tiết học của mình, nâng cao chất lượng giảng dạy. Để một tiết học sinh động, giáo viên phải biết kết hợp kiến thức với bao sự việc xảy ra thường ngày, với môi trường tự nhiên, xã hội, kết hợp sử dụng giáo cụ trực quan với tính tích cực sáng tạo của học sinh, kết hợp việc giảng dạy kiến thức với đạo lí làm người, Những giờ học như vậy sẽ phong phú, đa dạng cả về nội dung và hình thức, học sinh phát huy được tối đa sở trường cá nhân, giáo viên và học sinh gắn bó, xích lại gần nhau hơn, thân thiện hơn.
c). Nội dung phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”
Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” xác định 5 nội dung gồm:
- Xây dựng trường, lớp xanh, sạch, đẹp, an toàn;
- Dạy và học có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của học sinh ở mỗi địa phương, giúp các em tự tin trong học tập;
- Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh;
- Tổ chức các hoạt động tập thể, vui tươi, lành mạnh;
- Học sinh tham gia tìm hiểu, chăm sóc và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng ở địa phương.
d). Thực hiện:
Để phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong trường phổ thông giai đoạn 2008 – 2013 đạt kết quả tốt đẹp, theo quan điểm của tôi cần thực hiện các việc sau:
- Cần huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong và ngoài nhà trường, xây dựng môi trường giáo dục an toàn, thân thiện, hiệu quả, phù hợp điều kiện của địa phương, đáp ứng nhu cầu xã hội.
- Khắc phục tính thụ động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập và các hoạt động xã hội một cách phù hợp, hiệu quả.
- Xây dựng, chỉnh trang trường, lớp xanh hơn, sạch hơn, đẹp hơn. Bảo đảm trường sạch sẽ, có cây xanh, thoáng mát, lớp học đủ ánh sáng, thoáng đãng, bàn ghế hợp lứa tuổi học sinh.
- Trường tổ chức cho học sinh trồng cây (dịp đầu xuân) và chăm sóc cây thường xuyên. Có đủ nhà vệ sinh và giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, không ảnh hưởng xấu đến lớp học và cảnh quan môi trường. Học sinh tích cực tham gia giữ vệ sinh các công trình công cộng, nhà trường, lớp học và cá nhân.
- Giáo viên dạy học có hiệu quả, giúp các em tự tin trong học tập, có phương pháp dạy, giáo dục và hướng dẫn học sinh học tập nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên, góp phần hình thành khả năng tự học của học sinh...
- Bên cạnh đó, trường tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh; tổ chức các trò chơi dân gian, rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh, kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, sinh hoạt, ứng xử văn hóa, loại bỏ bạo lực và tệ nạn xã hội trong học đường. Hình thành thói quen làm việc theo nhóm...
– Có kế hoạch phối hợp với ngành khác trong địa bàn trường, nhằm mục đích huy động nhân lực và hệ thống cơ sở vật chất của các ngành và tổ chức liên quan để phối hợp thực hiện và huy động sự tham gia, đóng góp của toàn xã hội triển khai phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong nhà trường.
- Ngành văn hóa, thể thao và du lịch tham gia phong trào với vai trò chủ đạo, giới thiệu với trường các di tích lịch sử văn hoá tại địa phương phù hợp với nội dung “Học sinh tham gia tìm hiểu chăm sóc và phát huy giá trị của các di tích lịch sử, văn hoá ở địa phương”. Mỗi trường đều nhận chăm sóc một di tích lịch sử văn hoá hoặc di tích cách mạng ở địa phương, góp phần làm cho di tích ngày một sạch đẹp hơn, hấp dẫn hơn, tuyên truyền giới thiệu các di tích của địa phương với bạn bè, cộng đồng dân cư và khách du lịch”.
- Ngành cũng tổ chức biên tập, giới thiệu các trò chơi dân gian, các loại hình văn hoá nghệ thuật dân gian và lựa chọn, phối hợp hướng dẫn việc tổ chức đưa những trò chơi, các loại hình văn hoá nghệ thuật dân gian vào trong nhà trường phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương và lứa tuổi học sinh phổ thông... Đồng thời giới thiệu các giá trị văn hoá vật thể, phi vật thể, các lễ hội, di tích, di sản thiên nhiên để ngành giáo dục và đào tạo lựa chọn, hướng dẫn giáo viên lồng ghép và chương trình bài giảng, đặc biệt là các môn học KHXH-NV như Văn học, Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân; phối hợp với ngành giáo dục và đào tạo xây dựng các băng hình tiết dạy minh hoạ lồng ghép...
e). Một số phong trào đã thực hiện :
- Phong trào thi đua dạy tốt-học tốt.
- Phong trào Hoa điểm mười.
- Hưởng ứng các ngày như: phòng chống cháy nổ, an toàn giao thông, an toàn vệ sinh thực phẩm, ô nhiễm môi trường.
- Tổ chức các công trình thanh niên như: làm vệ sinh khu vực thị trấn, chăm sóc khu di tích.
- Tổ chức thu gom sách vở cũ để giúp đỡ các bạn nghèo.
- Tổ chức cắm trại ngày 26/03.
- Thực hiện cam kết mùa thi nghiêm túc.
III. Kết quả:
Sau khi thực hiện những biện pháp trên, lớp tôi chủ nhiệm đã đạt được nhiều kết quả khả quan.
- Đại đa số học sinh của lớp chủ nhiệm có ý thức , kỉ luật cao . Biết phê bình, tự phê bình , thi đua học tập .
- Sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm và gia đình, thông tin chính xác kịp thời vì vậy lớp tôi chủ nhiệm đã nhiều năm qua không có học sinh cúp tiết, bỏ giờ .
- Các em tự rèn cho mình một ý thức giữ gìn lớp sạch đẹp . Trong suốt buổi học lớp không có hiện tượng xả rác bừa bãi, để dép ngoài hành lang, lớp học thoáng mát.
- Từng tổ có ý thức về trách nhiệm được giao và bảo quản cây xanh đạt hiệu quả cao.
- Ý thức chấp hành nội quy của các em rất cao . Đồng phục trước khi đến lớp và sau khi ra khỏi trường Xếp hàng trước khi vào lớp, khi ra khỏi trường .
- Việc phân công nhiệm vụ rõ ràng cho từng HS trong Ban cán sự lớp đã đem lại hiệu quả trong việc quản lí nề nếp và chất lượng học tập. Các em thực hiện nhiệm vụ đầy đủ với tinh thần trách nhiệm cao. Có những trường hợp GVCN không cần có mặt nhưng các em vẫn quản lí lớp tốt. Cùng với việc duy trì nề nếp sinh hoạt 15 phút đầu giờ đã giúp HS chủ động trong học tập.
- Lập sơ đồ lớp hợp lý đã đưa lại hiệu quả rõ rệt trong học tập của học sinh. Những em trong Ban cán sự lớp ngồi sau có thể quản lí, theo dõi, nhắc nhở các bạn trong các giờ học. Những em học sinh yếu kém ngồi đầu được GVBM quan tâm theo dõi và giúp đỡ nên đã có nhiều tiến bộ. Vì vậy, đã giúp HS từ bỏ thói quen thụ động, trông chờ, ỷ lại trong học tập, góp phần vào công cuộc đổi mới chống tiêu cực trong thi cử mà ngành giáo dục đang thực hiện.
IV. Kết luận:
Qua trải nghiệm thực tế, tôi nhận thấy rằng giáo dục đạo đức HS thành công hay thất bại còn phụ thuộc vào yếu tố khác nữa. Chúng ta không nên áp dụng rập khuôn máy móc bất kỳ một phương pháp giáo dục tiên tiến nào bởi lẽ sản phẩm đây chính là “con người”.
Để đạt được mục đích giáo dục, ta cần phải biết chọn điểm xuất phát thích hợp với đặc điểm riêng của từng trường, từng lớp, từng HS,
Muốn duy trì tốt thành quả giáo dục cần có sự phối hợp chặt chẽ với các phong trào khác, những hoạt động khác, và đặc biệt cần phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường với Chi Hội CMHS, được sự quan tâm lãnh đạo của cấp uỷ, chính quyền, các đoàn thể và nhân dân địa phương để tạo sức mạnh đồng bộ, toàn xã hội cùng giáo dục thế hệ trẻ đồng thời giữ vững được hướng đi đúng .
Sự thành công trong công tác chủ nhiệm lớp, một nhân tố quan trọng mà chúng ta nên thận trọng cân nhắc khi quyết đị
File đính kèm:
- Tham luan chu nhiem.doc