I - ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÍ GDMN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH:
1- Những ưu điểm và tồn tại trong quản lí GDMN
1.1- Về ưu điểm:
+ Các trường mầm non (MN) hàng năm đã có nhiều cố gắng tổ chức thực hiện tốt điều lệ trường mầm non.
+ Nhiều trường MN trong tỉnh đảm bảo đầy đủ các thủ tục về mặt tổ chức, hành chính của 1 trường mầm non theo điều lệ quy định.
+ Thực tế nhiều nhà trường đã biết bám sát điều lệ để tổ chức thực hiện tốt các nội dung công tác về chăm sóc giáo dục trẻ.
+ Cơ bản, đội ngũ CBQL được bố trí đủ cho các nhà trường MN.
+ Trình độ đào tạo hiện nay đã được CBQL quan tâm tham gia học tập các lớp đào tạo đại học qua các loại hình: Tại chức, từ xa.đồng thời tạo điều kiện cho GV cùng tham gia. Vì vậy tỷ lệ CBQL và GV có trình độ trên chuẩn ngày càng cao (Đại học, cao đẳng, đang học đại học ), số liệu vào cuối năm học 2007-2008 có
+ Trình độ quản lí: Thực tế đã có nhiều CBQL có năng lực quản lí tốt cụ thể ở các trường trong điểm tỉnh và huyện, các trường MN đạt chuẩn Quốc gia đã có nhiều giải pháp hữu hiệu đưa nhà trường đi vào hoạt động có kỷ cương, nền nếp.
+ Đội ngũ CBQL luôn có ý thức tự học, tự bồi dưỡng để trau dồi nghề nghiệp: Các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ QLGD tại trường Bộ Hà Tĩnh đều tham gia đầy đủ, số lượng nhiều và kết quả học tập đều tốt.
+ Cán CBQL luôn sáng tạo, linh hoạt, biết tập hợp sức mạnh tổng hợp ngoài nhà trường cùng chăm lo cho sự nghiệp giáo dục mầm non, cũng có nhiều CBQL giỏi, toàn diện ( thông qua hội thi CBQL giỏi các cấp).
15 trang |
Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 17063 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng về công tác quản lí trường mầm non trên địa bàn Hà Tĩnh, giới thiệu một số văn bản quan trọng trong quản lí giáo dục mầm non, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nội dung Bồi dưỡng nghiệp vụ
cBQL trường mầm non -
thực trạng về công tác quản lí trường mầm non trên địa bàn Hà Tĩnh , giới thiệu một số văn bản quan trọng trong quản lí Giáo dục mầm non
I - Đánh giá thực trạng công tác quản lí GDMN trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh:
1- Những ưu điểm và tồn tại trong quản lí GDMN
1.1- Về ưu điểm:
+ Các trường mầm non (MN) hàng năm đã có nhiều cố gắng tổ chức thực hiện tốt điều lệ trường mầm non.
+ Nhiều trường MN trong tỉnh đảm bảo đầy đủ các thủ tục về mặt tổ chức, hành chính của 1 trường mầm non theo điều lệ quy định.
+ Thực tế nhiều nhà trường đã biết bám sát điều lệ để tổ chức thực hiện tốt các nội dung công tác về chăm sóc giáo dục trẻ.
+ Cơ bản, đội ngũ CBQL được bố trí đủ cho các nhà trường MN.
+ Trình độ đào tạo hiện nay đã được CBQL quan tâm tham gia học tập các lớp đào tạo đại học qua các loại hình: Tại chức, từ xa...đồng thời tạo điều kiện cho GV cùng tham gia. Vì vậy tỷ lệ CBQL và GV có trình độ trên chuẩn ngày càng cao (Đại học, cao đẳng, đang học đại học…), số liệu vào cuối năm học 2007-2008 có
+ Trình độ quản lí: Thực tế đã có nhiều CBQL có năng lực quản lí tốt cụ thể ở các trường trong điểm tỉnh và huyện, các trường MN đạt chuẩn Quốc gia đã có nhiều giải pháp hữu hiệu đưa nhà trường đi vào hoạt động có kỷ cương, nền nếp.
+ Đội ngũ CBQL luôn có ý thức tự học, tự bồi dưỡng để trau dồi nghề nghiệp: Các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ QLGD tại trường Bộ Hà Tĩnh đều tham gia đầy đủ, số lượng nhiều và kết quả học tập đều tốt.
+ Cán CBQL luôn sáng tạo, linh hoạt, biết tập hợp sức mạnh tổng hợp ngoài nhà trường cùng chăm lo cho sự nghiệp giáo dục mầm non, cũng có nhiều CBQL giỏi, toàn diện ( thông qua hội thi CBQL giỏi các cấp).
1.2- Về tồn tại:
+ Hiện nay vẫn còn nhiều nhà trường chưa đảm bảo về mặt tổ chức: chưa có quyết định thành lập trường, chưa có bìa đất, chưa có con dấu, văn phòng làm việc…
+ Còn một tỷ lệ CBQL chưa đạt trình độ chuẩn đào tạo quy định.
+ Nhiều CBQL chưa được bồi dưỡng nghiệp vụ quản lí nên hiệu quả quản lí chưa cao.
+ Nhiều đ/c là CBQL khả năng quản lí không tương xứng với trình độ đào tạo đã có.
+ Nhiều CBQL làm việc chưa nhiệt tình, chưa trăn trở, chưa hoàn thành được trách nhiệm được giao.
+ Đối với người CBQL việc xây dựng kế hoạch là điều vô cung quan trọng nhưng hiện nay nhiều hiệu trưởng chưa biết cách xây dựng kế hoạch hoặc xây dựng còn hời hợt có tính đối phó mà chưa thực sự xem kế hoạch như một bản thiết kế của một công trình, nếu thiết kế hoàn chỉnh thì việc thi công sẽ thuận lợi và đẹp ngược lại nếu kế hoạch không tốt công trình sẽ kém hiệu quả.
+ Một số hiệu trưởng còn né tránh trách nhiệm, biện pháp quản lí kém dẫn đến chất lượng các nhà trường kém khi được đánh giá góp ý thì đổ lỗi cho người khác.
+ Việc chỉ đạo thực hiện chuyên môn trong các nhà trường còn nhiều tồn tại như chỉ đạo thực hiện chương trình chăm sóc nuôi dạy trẻ.
+ Công tác tham mưu cho các cấp chính quyền hiệu quả chưa cao.
+ Nhiều nơi chưa làm tốt công tác Xã hội hoá, chưa huy động được nhiều nguồn lực để chăm lo phát triển GDMN.
+ Việc phối hợp tuyên truyền các bậc phụ huynh cũng còn nhiều hạn chế, nhà trường chưa phối hợp chặt chẽ với gia đình chưa gắn liền với xã hội, chưa vận động được nhiều đoàn thể tham gia phát triển GDMN.
+ Mặc dầu đã có nhiều đồng chí cán bộ quản lí trong trường mầm non có khả năng năng lực quản lí tốt, vẫn còn một số cán bộ quản lí năng lực còn hạn chế, chưa nắm bắt kịp với yêu cầu giáo dục trong giai đoạn công nghiệp hoá hịên đại hoá đất nước. Vì thế công tác quản lí chỉ đạo còn gặp nhiều khó khăn và đưa lại hiệu quả chưa cao.
1.3- Nguyên nhân:
- Một số cán bộ quản lí tuổi đã cao, trình độ quản lí và chuyên môn yếu, chưa được qua bồi dưỡng các lớp quản lí.
- Cán bộ quản lí thiếu năng động, sáng tạo trông chờ vào kế hoạch của cấp trên.
- Cán bộ quản lí bề dày kinh nghiệm còn hạn chế, thiếu tinh thần tự học, tự bồi dưỡng dẫn đến hiệu quả quản lí chỉ đạo còn ở mức độ thấp .
- Những năm qua công tác khảo sát, đánh giá, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ quản lí mầm non làm chưa kịp thời.
2- Những vấn đề cần khắc phục trong thời gian tới:
+ Việc kiện toàn lại tổ chức các nhà trường: Làm thủ tục cấp bìa đất, hợp lí hoá thủ tục thành lập trường, làm con dấu, Bổ nhiệm và bổ nhiệm lại hiệu trưởng , hiệu phó.
+ Cần đầu tư cho công tác xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch nhà trường.
+ Không ngừng học tập rèn luyện nâng cao trình độ về mọi mặt: Đạo đức, chuyên môn, nghiệp vụ quản lí cũng như về chính trị văn hoá.
+ Thường xuyên trao đổi học hỏi các đơn vị điển hình tiên tiến, các CBQL được đánh giá là có năng lực quản lí giỏi.
+ Phải tâm huyết với công việc được giao, luôn luôn biết lắng nghe và tiếp thu sự góp ý của mọi người .
+ Tăng cường khâu tích luỹ, đúc rút sáng kiến kinh nghiệm của bản thân cũng như học tập những kinh nghiệm của các nhà CBQL giỏi./.
II - một số văn bản quan trọng trong công tác quản lí trường mầm non.
1 - Điều lệ trường mầm non:
Công tác tổ chức quản lí trường Mầm non được quy định tại Điều lệ trường Mầm non ban hành kèm theo quyết định số 27/2000/QĐ-BGD-ĐT ngày 20/7/2000 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Điều lệ trường Mầm non gồm có 7 chương và 45 điều quy định cho các nội dung như sau:
Tại chương I - Quy định chung: gồm có 8 điều từ điều 1 đến điều 8 được thể hiện từ trang 5 đến trang 7.
Tại chương II - Quy định về công tác tổ chức quản lí nhà trường:Gồm 15 điều từ điều 9 đến điều 23 được thể hiện từ trang 8 đến trang 17.
Tại chương III - Quy định về các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em:Gồm 5 điều từ điều 24 đến điều 28 được thể hiện từ trang 18 đến trang 20.
Tại chương IV - Quy định về Giáo viên:Gồm 7 điều từ điều 29 đến điều 35 được thể hiện từ trang 21 đến trang 24.
Tại chương V - Quy định về Trẻ em :Gồm 4 điều từ điều 36 đến điều 39 được thể hiện từ trang 24 đến trang 25.
Tại chương VI - Quy định về Cơ sở vật chất và thiết bị :Gồm 2 điều, điều 40 và 41 được thể hiện từ trang 25 đến trang 27.
Tại chương VII - Quy định về Mối quan hệ giữa Nhà trường, Gia đình và Xã hội :Gồm 4 điều, từ điều 42 đến điều 45 được thể hiện từ trang 27 đến trang 29.
2 - Quy chế công nhận trường Mầm non đạt chuẩn Quốc gia giai đoạn từ 2002-2005
( Ban hành kèm theo Quyết định số 45/2001/QĐ-BGD-ĐT ngày 26/12/2001 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)
Quy chế gồm có 4 chương và18 điều.
Chương I: Từ điều 1 đến điều 4 là những quy định chung ( trang 140,141 cuốn Một số văn bản về GDMN trong thời kỳ đổi mới)
Chương II - Quy định tiêu chuẩn Trường Mầm non nông thôn đạt chuẩn Quốc gia. Chương này gồm có 5 điều quy định về 5 tiêu chuẩn của trường MN nông thôn đạt chuẩn Quốc gia.
- Điều 5 Quy định tiêu chuẩn 1 : Về Tổ chức và quản lí nhà trường.
- Điều 6 Quy định tiêu chuẩn 2 : Về Cán bộ quản lí, giáo viên và nhân viên.
- Điều 7 Quy định tiêu chuẩn 3 : Về Quy mô trường lớp, cơ sở vật chất và thiết bị.
- Điều 8 Quy định tiêu chuẩn 4 : Về Chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ.
- Điều 9 Quy định tiêu chuẩn 5 : Về Thực hiện xã hội hoá giáo dục.
Chương III - Quy định tiêu chuẩn Trường Mầm non thành thị đạt chuẩn Quốc gia. Chương này gồm có 5 điều quy định về 5 tiêu chuẩn của trường MN nông thôn đạt chuẩn Quốc gia.
- Điều 10 Quy định tiêu chuẩn 1 : Về Tổ chức và quản lí nhà trường.
- Điều 11 Quy định tiêu chuẩn 2 : Về Cán bộ quản lí, giáo viên, nhân viên.
- Điều 12 Quy định tiêu chuẩn 3 : Về Chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ.
- Điều 13 Quy định tiêu chuẩn 4 : Về Tổ chức trường, lớp; cơ sở vật chất và thiết bị.
- Điều 14 Quy định tiêu chuẩn 5 : Về Thực hiện xã hội hoá giáo dục.
Chương IV - Tổ chức xét và công nhận Trường Mầm non đạt chuẩn Quốc gia. Chương này gồm có 4 điều :
- Điều 15: Quy định về Hồ sơ xét đề nghị công nhận.
- Điều 16: Quy định về các cơ quan thường trực và nhiệm vụ của cơ quan thường trực.
- Điều 17: Quy định về thành phần và nhiệm vụ của Hội đồng xét đề nghị cấp huyện và cấp tỉnh.
- Điều 18: Quy định về các bước thực hiện quy trình thực hiện xét và đề nghị công nhận từ cấp huyện đến cấp Bộ.
3 - Quyết định 161/2002/QĐ-TTg ngày 15/11/2002 của Thủ tướng chính phủ Về một số chính sách phát triển giáo dục mầm non.
Quyết định gồm có 7 điều:
- Điều 1: Quy định về nhiệm vụ Phát triển GDMN đến năm 2010.
- Điều 2: Quy định về Định hướng phát triển các loại hình cơ sở GDMN đến năm 2010.
- Điều 3: Quy định về Xây dựng chương trình giáo dục mầm non.
- Điều 4: Quy định về Phát triển đội ngũ GDMN .
- Điều5 : Quy định về Chính sách đầu tư và quy hoạch Phát triển GDMN.
- Điều 6: Quy định về Trách nhiệm của các cơ quan quản lí nhà nước.
- Điều 7: Quy định về Hiệu lực của Quyết định.
4 - Thông tư số 05/2003/TTLT/BGD-ĐT-BNV-BTC ngày 24/2/2003 hướng dẫn một số chinh sách phát triển GDMN.
Thông tư số 05 là cụ thể hoá nội dung của Quyết định 161 và phân công trách nhiệm cụ thể cho các ngành, đoàn thể và kế hoạch thực hiện.
5 - Quyết định 2413 /2003 /QĐ-UB-TC ngày 20/10/2003 của Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh về triển khai thực hiện Quyết định 161 của Thủ tướng Chính phủ và thông tư 05 liên Bộ về Phát triển Giáo dục mầm non trên địa bàn tỉnh Hà Tỉnh.
Trên đây là một số văn bản quan trọng, các nhà CBQL cần nắm vững nội dung để tham mưu có hiệu quả trong viện quản lí chỉ đạo các nhà trường Mầm non. Ngoài ra người CBQL Mầm non cần nắm được các văn bản của nhà nước được hệ thống lại trong cuốn " Một số văn bản về Giáo dục mầm non thời kỳ đổi mới" của nhà xuất bản giáo dục phát hành tháng 7 năm 2003.
công tác quản lí
giáo dục trong trường Mầm non
I - Khái niệm về QLGD và QLGD Mầm non.
1 - Khái niệm về QLGD:
Quản lí giáo dục là một bộ phận của quản lý xã hội. Có thể nói rằng QLGD là những tác động có hệ thống , có mục đích , có kế hoạch, hợp qui luật của chủ thể quản lí ( nhóm những người sư phạm tiên phong) nhằm tổ chức điều khiển và quản lí hoạt động giáo dục của những người làm công tác giáo dục ( khách thể quản lí) thực hiện mục tiêu kế hoạch giáo dục đã đặt ra.
2 - Một số đặc điểm của QLGD Mầm non:
- Quản lí GDMN là một bộ phận của quản lí giáo dục, quản lí xã hội , cũng như QLGD nói chung quản lí con người là yếu tố trung tâm của công tác QLGDMN.Trong trường mầm non giáo viên vừa là đối tượng quản lí đồng thời là chủ thể QLGD,lực lượng giáo viên phải thực sự làm chủ trong công tác quản lí nhà trường.
- Công tác QLGDMN cần phải có tính thống nhất .
- Giáo dục mầm non là khâu đầu tiên của hệ thống Giáo dục Quốc dân nhưng vẫn mang tính tự nguyện không bắt buộc vì vậy để thu hút được nhiều trẻ em đến trường cần không ngừng nâng cao chất lượng CSGD trẻ trong nhà trường.
3 - Đối tượng, mục đích của QLGD Mầm non:
- Đối tượng của QLGDMN là toàn bộ quá trình giáo dục mầm non và hệ thống tổ chức để điều khiển chúng.
- Mục đích của quản lí GDMN là nhằm củng cố, ổn định và phát triển ngành GDMN với nhiều loại hình đa dạng, linh hoạt phù hợp với yêu cầu mới của sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của đát nước .
4 - Quản lí trường mầm non:
- Trường mầm non là một tổ chức xã hội được xây dựng trên cơ sở tự nguyện, với sự hỗ trợ của nhà nước và nhân dân về vật chất cũng như tinh thần . Đây là môi trường đặc biệt vừa mang tính chất của một trường học vừa mang tính chất cuả một gia đình , cô và trẻ vừa là quan hệ xã hội (thầy trò) vừa là quan hệ gia đình (mẹ - con). Mọi hoạt động của trẻ hoà quện vào nhau: "học mà chơi, chơi mà học".
Hoạt động của trường mầm non rất đa dạng và phức tạp. Người hiệu trưởng làm tốt công tác quản lí sẽ góp phần thực hiện tốt các mục tiêu cơ bản của nhà trường.
II - một số nguyên tắc quản lí trường mầm non
Nguyên tắc quản lí là những quy tắc, luận điểm chỉ đạo và là những tiêu chuẩn hành vi mà hệ thống quản lí phải tuân theo trong quá trình thực hiện các chức năng, nhiệm vụ quản lí. Để quản lí có hiệu quả mỗi người CBQL cần phải nắm vững các nguyên tắc quản lí. Dưới đây là những nguyên tắc chung nhất, phổ biến nhất trong công tác quản lí.
1 - Nguyên tắc đảm bảo tính mục đích và tính tư tưởng:
Là một trong những nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong công tác quản lí. Nguyên tắc này giúp cho công tác quản lí chỉ đạo tốt việc thực hiện mục tiêu giáo dục theo đúng đường lối, chủ trương chính sách giáo dục của Đảng và nhà nước.
- Mục đích và tư tưởng giáo dục của chúng ta được xây dựng dựa trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng giúp cho những người làm công tác giáo dục nói chung và những người CBQL giáo dục có thế giới quan và phương pháp luận khoa học để tiến hành quá trình giáo dục và quản lí quá trình này một cách có hiệu quả.
- Nguyên tắc này đòi hỏi mọi tác động, biện pháp và ảnh hưởng của người quản lí phải hướng vào việc chỉ đạo tập thể sư phạm thực hiện có hiệu quả, mục đích , mục tiêu giáo dục mà Đảng đã vạch ra. Trong mọi hoàn cảnh người CBQL phải giữ vững lập trường và tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lê Nin trong công tác điều hành công việc, đảm bảo việc thực hành tốt đường lối, chủ trương, chính sách giáo dục của Đảng và nhà nước.
- Tính mục đích và tính tư tưởng còn được thể hiện ở việc chỉ đạo quá trình giáo dục phát triển đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội và thời đại.
2 - Nguyên tắc tập trung dân chủ:
Đây là nguyên tắc rất quan trọng của quản lí, việc thực hiện nguyên tắc này bảo đảm sự thống nhất tổ chức và trình độ tổ chức cao, đồng thời phát huy cao độ khả năng, tiềm tàng trí tuệ của tập thể.
- Nguyên tắc này đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất, đồng bộ của toàn ngành học ở từng địa phương, nó phát huy được thế mạnh của của các tổ chức xã hội và nhân dân trong công tác giáo dục trẻ thơ.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ là thể hiện sự kết hợp lãnh đạo tập trung với việc phát huy tối đa sáng kiến của đông đảo quần chúng lao động nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ đặt ra.
- Tập trung được thể hiện ở chế độ một thủ trưởng (một người phụ trách) quyền lãnh đạo từng đơn vị được trao cho 1 cán bộ lãnh đạo. Người thủ trưởng có quyền điều khiển mọi công việc của tập thể và chịu trách nhiệm hoàn toàn về trách nhiệm của đơn vị mình.
- Chế độ tập trung không có nghĩa là độc đoán, gia trưởng, xa rời quần chúng, một mình quyết định một cách chủ quan mà là một người, một trung tâm quyết định cuối cùng sau khi lắng nghe ý kiến của quần chúng, cân nhắc các phương án hoạt động khác nhau. Chế độ này đòi hỏi người cán bộ quản lí phải dũng cảm chịu trách nhiệm những sai lầm của những quyết định, dũng cảm tự phê bình và sửa chữa. Tránh tình trạng thủ trưởng sợ trách nhiệm, đùn đẩy trách nhiệm cho tập thể, hoặc lừng khừng không dứt khoát trong lúc cần quyết định.
Dân chủ được thể hiện ở chỗ, người quản lí biết lắng nghe và phát huy tối đa sáng kiến của các thành viên trong tập thể, hướng dẫn những sáng kiến cá nhân vào việc thực hiện mục tiêu chung một cách có hiệu quả. Chế độ này giúp cho người thủ trưởng có các thông tin đa dạng, toàn diện, cân nhắc và có những quyết định đúng đắn. Chế độ dân chủ tạo nên sức mạnh của tổ chức, tăng cường kỷ luật của tổ chức.
VI.Lê Nin quan niệm rằng "quản lí dân chủ như là sự huy động và làm bộc lộ các nguồn lực xã hội còn ẩn giấu của quần chúng".
Chế độ dân chủ cần được hiểu ở hai mặt gắn bó mật thiết với nhau: một mặt là sự thảo luận cởi mở, thẳng thắn, với ý thức phát huy quyền làm chủ của quần chúng, phát huy tính chủ động sáng tạo của các cơ sở, các cá nhân. Một mặt là trách nhiệm của cá nhân, của cơ sở đối với các ý kiến đóng góp và nghĩa vụ thực hiện các công việc được giao, phục tùng các quyết định chung.
Dân chủ không có nghĩa là chạy theo những ý kiến quần chúng, mà cần phải có lập trường, quan điểm rõ ràng, thẳng thắn, lựa chọn những ý kiến mang tính xây dựng và có tính chất sáng tạo, hướng nó vào mục đích chung của tập thể. Tránh tình trạng "dân chủ giả hiệu", tạo điều kiện cho các cá nhân, cơ sở phát biểu một cách thoải mái quan điểm của họ, song vẫn đưa ra những quyết định chủ quan có tính chất độc đoán của riêng mình.
Chế độ tập trung không thể tồn tại được nếu thiếu dân chủ, thiếu thu hút quần chúng. Đó là hai mặt của một vấn đề. Để thực hiện tốt nguyên tắc này, cần xác định một cách hợp lí mối quan hệ giữa tập trung và dân chủ trong từng công việc.Xác định rõ nghĩa vụ, quyền hạn và trách nhiệm của bản thân người cán bộ quản lí và từng người thừa hành.
Tập trung dân chủ không có nghĩa là bất kỳ công việc gì cũng đưa ra bàn bạc, thảo luận mà cần có ý kiến của tập thể, những công việc gì có thể quyết định được. Điều quan trọng là những quyết định của mình đưa ra có hợp lí hay không, có được dư luận tập thể đồng tình, chấp nhận hay không?
3. Đảm bảo tính khoa học và tính thực tiễn
Hoạt động chăm sóc và giáo dục trẻ em là một hoạt động khoa học. Do vậy, công tác quản lí giáo dục mầm non nói chung và quản lí mầm non đòi hỏi tính khoa học và thực tiễn rất cao.
Muốn đảm bảo tính khoa học và thực tiễn trong quản lí,người quản lí phải nắm vững các quy luật khách quan của thời đại, nắm vững quy luật giáo dục và những tri thức khoa học quản lí.
Cần phải có sự am hiểu tâm lý người thừa hành và những người tham gia vào công tác giáo dục, quản lí trên cơ sở có tổ chức một cách khoa học (hợp lí) lao động của cán bộ, giáo viên.
Xã hội luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển, những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội đối với giáo dục ngày một cao, chúng ta không thể rập khuôn máy móc "giậm chân tại chỗ" được, mà cần phải có sự vận động trong công tác giáo dục và quản lí giáo dục để theo kịp những đòi hỏi của xã hội nói ngắn gọn là trong công tác quản lí chúng ta phải bám sát thục tiễn (đảm bảo tính thục tiễn)
Hơn thế nữa mỗi địa phương có những hoàn cảnh, điều kiện khác nhau, do vậy trong quá trình chỉ đạo triển khai công tác giáo dục mầm non đòi hỏi người cán bộ quản lí phải linh hoạt, sáng tạo sao cho vừa hoàn thành được nhiệm vụ trọng tâm của ngành vừa phù hợp với thực tiễn địa phương.
Việc áp dụng những lí luận và kinh nghiệm thực tiễn của các địa phương vào hoàn cảnh thực tiễn của một địa phương cụ thể cũng đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, cân nhắc. Tránh rập khuôn, máy móc những kinh nghiệm của địa phương khác vào điều kiện cụ thể của địa phương mình.
4. Kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể xã hội.
Thực chất của nguyên tắc này là hướng sự hoạt động tích cực của cá nhân vào lợi ích của tập thể - xã hội trên cơ sở đảm bảo lợi ích trước mắt lâu dài của mỗi cá nhân.
Việc người lao động quan tâm đến lao động của mình, nghĩa là đến lợi ích vật chất tinh thần mà lao động của họ đưa lại đều có tính chát khách quan, tất yếu, dựa trên mối liên hệ giữa sự cống hiến bằng lao động của họ vào sản xuất xã hội và thù lao mà xã hội trả cho họ. Mỗi cá nhân làm việc cho tập thể - xã hội cũng chính là làm việc cho bản thân mình. Lợi ích vật chất và tinh thần chính là công cơ bên trong thúc đẩy mọi hoạt động tích cực, hăng say của mỗi cá nhân. Để thúc đẩy tích cực của mỗi cá nhân, người cán bộ quản lí không thể quan tâm đến việc chung, những lợi ích của tập thể mà xem nhẹ quyền lợi vật chất và tinh thần của mỗi cá nhân. Sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể - xã hội một mặt giúp người quản lí hoàn thành được mục tiêu, nhiệm vụ chung mà xã hội giao cho tập thể của mình phụ trách, một mặt thúc đẩy mỗi cá nhân hoạt động tích cực, tự giác vì mục đích chung của tập thể.
Việc quá đề cao lợi ích tập thể, xem nhẹ lợi ích cá nhân sẽ triệt tiêu động lực hoạt động của cá nhân. Quản lí như vậy trở thành duy ý chí. Ngược lại, trong công tác quản lí chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân, chạy theo lợi cá nhân mà quên lợi ích tập thể thì đến một lúc nào đó tập thể sẽ không tồn tại, chủ nghĩa cá nhân hoành hành. Hai thái cực này đều bất lợi trong công tác quản lí.
Quan tâm đến quyền lợi vật chất của con người là sự quan tâm của xã hội đối với nghề nghiệp, thể hiện ở chế độ đãi ngộ của xã hội, đồng lương của cá nhân thuộc nghề nghiệp đó. Trong tập thể một trường học, sự quan tâm đến quyền lợi vật chất của người lao động thể hiện ở mức thu nhập hàng tháng, tiền thưởng về lao động sáng tạo, về thi đua, về chất lượng giáo dục...
Quan tâm đến lợi ích vật chất của mỗi cá nhân không có nghĩa là chỉ có thưởng, có khuyến khích mà thôi, mà cần phải có hình thức phạt tiền tước bỏ quyền lợi vật chất đối với những cá nhân không hoàn thành nhiệm vụ, thiếu trách nhiệm đối với tập thể.
Quan tâm đến với quyền lợi vật chất phải đi đôi với quyền lợi tinh thần của cá nhân. Hai yếu tố này quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, tạo nên động cơ thúc đẩy con người hoạt động tích cực. Trong xã hội văn minh, nhu cầu tinh thần trở thành yếu tố quan trọng thúc đẩy con người hoạt động.
Ngay việc quan tâm đến quyền lợi vật chất cảu cá nhân đã động viên mặt tinh thần của người lao động. Ngoài ra cần quan tâm đến nhu cầu văn hoá - tinh thần của người lao động: nhu cầu xem phim, kịch, ca nhạc, tham quan, nghỉ mát, tổ chức hội hè, văn hoá - văn nghệ... Những bằng khen, giấy khen, danh hiệu... là những yếu tố tinh thần rất cần thiết đối với con người khuyến khích vật chất tinh thần cho người lao động chỉ có hiệu quả khi đánh giá đúng con người về khả năng, về nhu cầu, về tâm lí hoàn cảnh riêng của họ và tôn trọng con người. Do vậy việc tìm hiểu đặc điểm tâm lí của từng người thừa hành, điều kiện, hoàn cảnh riêng của họ... là rất cần thiết giúp cho người quản lí hoàn thành công việc của mình.
5. Kết hợp quản lí theo ngành với quản lí theo địa phương và từng lãnh thổ.
Thực chất của nguyên tắc này là vừa đảm bảo sự quản lí thống nhất từ trên xuống dưới, từ Trung ương đến địa phương về ngành nghề nào đó, nó vừa phù hợp với hoàn cảnh của từng địa phương, từng vùng lãnh thổ, vừa phát huy được thế mạnh của các địa phương và vùng lãnh thổ.
Đào tạo thế hệ trẻ thành người lao động mới, thông minh và sáng tạo là mục đích của ngành giáo dục. Mục đích này được triển khai một cách thống nhất trong toàn quốc của toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân: từ giáo dục mầm non đến giáo dục đại học và trên đại học. Những chủ trương, đường lối giáo dục mang tính chất quốc gia cần phải có sự thống nhất, đồng bộ. Song trong hoàn cảnh thực tiễn tuỳ nhu cầu của từng địa phương và từng lãnh thổ, quá trình giáo dục cần phải có sự phù hợp.
Những vấn đề lớn, có ý nghĩa đối với toàn xã hội đòi hỏi có sự thống nhất trên phạm vi cả nước thì do ngành quản lí. Còn những vấn đề chính trị - xã hội, đời sống sinh hoạt... có ý nghĩa đối với địa phương nhiều hơn thì do địa phương quản lí.
Đối với công tác giáo dục mầm non, quản lí theo ngành đảm bảo thực hiện chương trình giáo dục mầm non thống nhất trong cả nước, đảm bảo tiêu chuẩn lựa chọn và đào tạo nghiệp vụ đối với giáo viên mầm non, các quy định cơ bản về chế độ chính sách đối với trường mầm non và giáo viên mầm non. Chương trình chăm sóc và giáo dục mầm non được quy định một cách thống nhất trong cả nước về mục tiêu, nội dung cần đạt được về phát triển thể chất, trí tuệ, tâm lí của trẻ em. Mọi cấp quản lí cần bám sát mục tiêu thống nhất này để chỉ đạo các lực lượng giáo dục mầm non ở địa phương mình thực hiện. Mục tiêu thống nhất này đồng thời đặt ra những tiêu chuẩn thống nhất về năng lực và phẩm chất của giáo viên mầm non và những yêu cầu cơ bản cho công tác đào tạo giáo viên mầm non; đặt ra những quy định cơ bản về chế độ chính sách đối với giáo viên mầm non và trường mầm non.
Quản lí theo địa phương và vùng lãnh thổ đảm bảo thực hiện được những nội dung và yêu cầu cơ bản của quản lí theo ngành nói trên dựa vào đặc điểm hoàn cảnh của từng địa phương, từng vùng lãnh thổ, phát huy được khả năng và thế mạnh của địa phương. Người cán bộ quản lí phải nghiên cứu chủ trương, đường lối giáo dục chung, những mục tiêu chung của ngành, một mặt phải nghiên cứu tình hình thực tiễn của địa phương về mọi mặt để chỉ đạo các lực lượng giáo dục thực hiện một cách linh hoạt, sáng tạo mục tiêu giáo dục mầm non phù hợp với địa phương. "Không phải trong chương trình có cây dừa là đâu cũng đưa cây dừa ra làm bài học, ngay cả những nơi có dừa... giáo viên phải biết nắm lấy thời cơ, sử dụng tất cả những yếu tố có trong môi trường xung quanh, những việc xẩy ra chứ không máy móc theo trình tự của một chương trình chi li. Điều quan trọng là qua bài dạy của mình, qua chương trình giáo dục của mình, tâm lí - nhân cách của trẻ được hình thành phát triển theo mục tiêu và giáo dục đã đề ra. Khai thác khả năng, thế mạnh của địa phương đòi hỏi người cán bộ phải chỉ đạo giáo viên của mình tận dụng có hiệu quả những yếu tố điều kiện sẵn có của địa phương về tự nhiên, xã hội và văn hoá địa phương trong quá trình giáo dục trẻ em. Đồng thời kết hợp và phát huy thế mạnh của giáo dục gia đình và các tổ chức đoàn thể xã hội trong công tác giáo dục trẻ em.
6. Nguyên tắc đảm bảo hiệu quả kinh tế.
Nguyên tắc này đòi hỏi những điều kiện nhất định về vật chất, về sức người và thời gian phải làm ra nhiều nhất và tốt nhất của cải vật chất và tinh thần nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội ngày một tăng. Hiệu quả kinh tế được đo bởi kết quả đạt được và chi phí bỏ ra, sao cho tiết kiệm được thời gian, sức người, sức của mà đạt được hiệu quả lao động cao.
Trong công tác giáo dục nói chung và giáo dục mầm non, hiệu quả kinh tế được đo bằng chất lượng giáo dục. Chất lượng giáo dục được thể hiện ở năng lực của th
File đính kèm:
- Boi duong CBQL he 200.doc