Truyện kể các nhà bác học Sinh học

Alexandre Émile Jean Yersin (sinh 22 tháng 9, 1863 tại Lavaux, bang Vaud, Thụy Sĩ; mất 1 tháng 3, 1943 tại Nha Trang, Việt Nam) là một bác sĩ và nhà vi khuẩn học người Pháp gốc Thụy Sĩ.

Ông đã khám phá ra trực khuẩn gây ra bệnh dịch hạch, sau này được đặt tên theo ông (Yersinia pestis).

Từ năm 1883 đến 1884, ông Yersin theo học y khoa tại Lausanne, Thụy Sĩ; sau đó tại Marburg, Đức và Paris, Pháp (1884-1886). Năm 1886, ông gia nhập viện nghiên cứu của Louis Pasteur tại Trường Sư phạm (École Normal Supérieure) do lời mời của Émile Roux, và đã tham gia trong việc phát triển huyết thanh ngừa bệnh dại. Năm 1888 ông nhận bằng tiến sĩ với luận văn về Etude sur le Développement du Tubercule Expérimental và cộng tác với Robert Koch trong hai tháng tại Đức. Ông gia nhập Viện Pasteur mới được thành lập vào năm 1889 làm người cộng tác với Roux và hai người đã cùng khám phá ra độc tố bạch hầu (do trực khuẩn Corynebacterium diphtheriae tạo ra).

 

 

doc78 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1672 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Truyện kể các nhà bác học Sinh học, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Alexandre Émile Jean Yersin Alexandre Émile Jean Yersin (sinh 22 tháng 9, 1863 tại Lavaux, bang Vaud, Thụy Sĩ; mất 1 tháng 3, 1943 tại Nha Trang, Việt Nam) là một bác sĩ và nhà vi khuẩn học người Pháp gốc Thụy Sĩ. Ông đã khám phá ra trực khuẩn gây ra bệnh dịch hạch, sau này được đặt tên theo ông (Yersinia pestis). Từ năm 1883 đến 1884, ông Yersin theo học y khoa tại Lausanne, Thụy Sĩ; sau đó tại Marburg, Đức và Paris, Pháp (1884-1886). Năm 1886, ông gia nhập viện nghiên cứu của Louis Pasteur tại Trường Sư phạm (École Normal Supérieure) do lời mời của Émile Roux, và đã tham gia trong việc phát triển huyết thanh ngừa bệnh dại. Năm 1888 ông nhận bằng tiến sĩ với luận văn về Etude sur le Développement du Tubercule Expérimental và cộng tác với Robert Koch trong hai tháng tại Đức. Ông gia nhập Viện Pasteur mới được thành lập vào năm 1889 làm người cộng tác với Roux và hai người đã cùng khám phá ra độc tố bạch hầu (do trực khuẩn Corynebacterium diphtheriae tạo ra). Để hành nghề y tại Pháp, ông Yersin đã xin và nhận được quốc tịch Pháp vào năm 1888. Sau đó (1890), ông rời Pháp đến Đông Dương (lúc bấy giờ là thuộc địa của Pháp) để làm bác sĩ trong công ty Messageries Maritimes (Vận Tải Hàng Hải) trên tuyến đường Sài Gòn-Manilla và sau đó tuyến đường Sài Gòn-Hải Phòng. Năm 1894 Yersin được chính phủ Pháp và Viện Pasteur mời đến Hồng Kông để điều tra đợt bùng phát của bệnh dịch hạch. Tại đây ông đã khám phá ra nguyên nhân của bệnh này. Ông cũng chứng minh lần đầu tiên rằng trực khuẩn hiện diện ở chuột bệnh và người bệnh là một, vì thế đưa ra cách giải thích phương thức truyền bệnh. Cùng năm đó, khám phá này được cộng tác viên Émile Duclaux gửi đến Viện Hàn lâm Khoa học Pháp trong bài báo nhan đề La Peste Bubonique de Hong-Kong. Từ năm 1895 đến 1897, ông Yersin đã nghiên cứu thêm về bệnh dịch hạch. Năm 1895 ông trở về Viện Pasteur tại Paris và cùng với Émile Roux, Albert Calmette, và Armand Borrel đã điều chế ra huyết thanh chống bệnh dịch hạch đầu tiên. Cùng năm đó, ông trở về Đông Dương và lập một phòng thí nghiệm nhỏ tại Nha Trang để sản xuất huyết thanh (năm 1905 viện này trở thành một chi nhánh của Viện Pasteur). Yersin đã thử nghiệm huyết thanh nhận được từ Paris tại Quảng Châu và Áo Môn vào năm 1896 và tại Bombay (Mumbai), Ấn Độ vào năm 1897 nhưng không có kết quả. Ông quyết định sống tại Việt Nam, và đã hoạt động tích cực để thành lập Trường Đại học Y Hà Nội vào năm 1902 và là hiệu trưởng đầu tiên cho đến 1904. [1] ( Yersin cũng tham gia lĩnh vực nông nghiệp, là một người mở đầu trong việc nhập cây cao su từ Brasil vào trồng tại Việt Nam. Vì lý do này ông đã xin phép Toàn quyền thành lập một nông trại ở Suối Dầu. Ông cũng mở một trại ở Hòn Bà năm 1915, nơi ông đã gây dựng những đồn điền canh ki na đầu tiên ở Việt Nam (nhập từ Nam Mỹ) để sản xuất ký ninh chữa bệnh sốt rét. Năm 1934 ông được đề cử làm giám đốc danh dự của Viện Pasteur và là uỷ viên Ban quản trị. Ông qua đời trong thời gian diễn ra Đệ nhị thế chiến tại nhà ở Nha Trang năm 1943. Trong di chúc ông muốn được chôn tại Suối Dầu, đám tang giản dị, không điếu văn. Mặc dù vậy, rất đông người đã đưa tiễn ông về nơi an nghỉ cuối cùng. Ông để lại nhiều ký ức sâu đậm tại Việt Nam, nơi những người gần gũi ông gọi ông là Ông Năm. Ông là người đề nghị xây dựng một thành phố tại Tây Nguyên, nay là Đà Lạt. Sau hai lần đổi chế độ, các con đường được đặt tên theo ông vẫn còn giữ tên. Cạnh mộ ông tại Suối Dầu (cách Nha Trang 20 km) có một miếu thờ được nhiều người viếng. Nhà ông tại Nha Trang nay là một viện bảo tàng; ở Hà Nội và một số nơi khác có trường học mang tên ông. William Harvey (1578-1657) Các nhà giải phẩu học người Ý ở thế kỷ XVI, Jerom Fabri (1537- 1619) đã phát hiện ra van tĩnh mạch và giải thích sự hoạt động của các van này không ngăn trở máu chảy về tim và chảy ngược trở lại. Tuy nhiên, kết luận đó trái với ý kiến của của Galen về máu chuyển động theo hai chiều, vì vậy Fabri chỉ dám giả thiết là các van làm máu chảy chậm lại, chứ hoàn toàn không làm ngừng dòng máu chảy ngược. Kết luận đơn giản hơn, máu chảy trong tĩnh mạch chỉ theo một hướng về tim. Học trò của Fabri là William Harvey (1578 - 1657) một người Anh rất kiên quyết, sau khi về nước Anh, Harvey cũng như một số nhà giải phẩu học trước ông lao vào nghiên cứu về tim và chú ý đến sự có mặt của những van hoạt động một chiều ở trong tim . a)Sơ lược về tiểu sử của Harvey: Ngày 1 tháng 4 năm 1578, W. Harvey sinh ra trong một gia đình nông dân ở Folkestone, miền Nam nước Anh. Về sau, Harvey còn có 6 em ruột nữa. Lúc nhỏ, Harvey đã yêu thích các loài động vật, thường cả ngày đùa nghịch với chó, mèo, gà, thỏ mà không biết chán. Ở gần nhà có một xưởng mổ gia súc. Có dịp là Harvey tới xem các chú bác giết thịt rồi chặt thành từng tảng thịt bò, thịt dê, thịt heo... chuyển đi các cửa hàng bán lẻ. Nhìn thấy cảnh máu me chảy ròng ròng, bạn bè sợ hết hồn, chạy té đi, song Harvey lại chẳng sợ chút nào, lại còn hỏi xem bộ phận này, bộ phận khác trong nội tạng gia súc gọi tên là gì... Năm 1593, chưa đầy 16 tuổi Harvey đã thi đổ trường đại họ(Cambridge), học văn học. Năm 19 tuổi, Harvey đã tốt nghiệp, đoạt được học vị cử nhân văn học, rồi sau đó lại chuyển tới học y học ở trường đại học Padua, Italia, là một trung tâm nghiên cứu y học đương thời. Năm 1600, vào lúc Harvey 22 tuổi, đang học đại học Padua, thì có xảy ra một việc động trời: Ngày 17 tháng 2, nhà khoa học ngoan cường Brunô, người chủ trương và truyền bá Thuyết nhật tâm, bị giáo hội qui tội chết, đem thiêu trên giàn lửa! Harvey rất căm phẫn trước việc đó, trong lòng như muốn thét lên câu hỏi: thế này thì còn gì là chân lý nữa?! Năm 1602 Harvey tốt nghiệp đại học, đoạt danh vị bác sĩ y khoa, không lâu sau, Harvey trở về nước Anh, lại đoạt học vị bác sĩ giải phẩu học ở trường đại học Cambridge, trở thành một thầy thuốc có danh tiếng. Từ năm 29 tuổi, ông dạy học ở trường Y Hoàng Gia, kiêm bác sĩ phẩu thuật ở bệnh viện Saint Bactholomew. Năm 35 tuổi, ông là giáo sư trường đại học Y ở London. Năm 40 tuổi ông được mời làm ngự y của vua nước Anh là James I, rồi Charler. b)Công trình khoa học của Harvey: Ở London, mỗi năm Harvey đều tham gia mấy lần giải phẩu xác phạm nhân tử hình. Trong quá trình giải phẩu, ông chú ý thấy sự co bóp của động mạch, hiện tượng phập phồng ở thái dương, cổ tay, đỉnh đầu... những hiện tượng đó làm cho ông nghĩ đến giả thuyết cho là trong cơ thể có sự hoạt động của một thứ gì tựa như cái bơm trung tâm, từ đó mà khống chế sự lưu động của máu trong toàn thân thể. Harvey lúc đó còn là giảng viên giải phẩu. Khi giảng bài, ông thường giải phẩu ộng vật rồi cùng sinh viên quan sát, nghiên cứu. Mỗi cuộc giải phẩu, ông đều ghi chép tỉ mỉ các quan sát, rồi lại suy ngẫm tìm cách giải thích các vấn đề thu lượm được. Khi giải phẩu động vật và xác người, ông đặc biệt chú ý quan sát kỹ lưỡng về kết quả cấu quả tim, biết rằng tim là do các cơ thịt tổ chức thành và công năng chủ yếu của nó là vận động co bóp. Ông nhận ra giữa mỗi nữa quả tim đều có van tim ngăn cách, làm phân chia ra tâm nhĩ và tâm thất, chỉ cho máu chảy từ tâm nhĩ sang tâm thất, mà không thể chảy ngược lại. Harvey tính toán rằng chỉ trong một giờ, tim bơm đầy được một khối lượng máu gấp ba lần trọng lượng của cơ thể. Không thể tưởng tượng được rằng với tốc độ đó máu có thể tự tạo ra hoặc tự phân giải. Rõ ràng máu phải từ động mạch sang tĩnh mạch ở chỗ nào đó bên ngoài tim mà mắt thường ta không nhìn thấy được những mạch nhỏ nối tiếp. Sau khi giả thiết có những mạch nối tồn tại thì rất dễ hiểu là tim phải nhiều lần bơm một khối lượng máu qua các nấc: Tĩnh mạch--tim--động mạch--tĩnh mạch--tim--động mạch--tĩnh mạch--tim.... Năm 1628, một nhà xuất bản ở nước Ý chủ động viết thư cho Harvey trình bày nguyện vọng là chịu mọi phí tổn, xin xuất bản cuốn sách: Về sự hoạt động của máu và tim ở động vật mà Harvey đã phải bỏ ra tâm huyết hơn 20 năm để hoàn thành. Mặc dù cuốn sách không dày ( vẻn vẹn chỉ có 72 trang ) và vẻ bề ngoài khiêm tốn, nhưng cuốn sách đã mở ra một thời kỳ mưa bão - làm nên cuộc cách mạng hoàn toàn trong lịch sử sinh học. Nghiên cứu của Harvey là sự thể hiện ý đồ nghiêm chỉnh đầu tiên về quan điểm mới đối với sinh học. Harvey đã đánh đổ học thuyết của Galen, và đặt nền tảng cho sinh lý học hiện đại ( chúng ta lưu ý sự tính toán của Harvey về khối lượng máu đi qua tim là ý định nghiêm chỉnh đầu tiên nhằm ứng dụng toán học vào sinh học). Lẽ tất nhiên, các thầy thuốc là những người gắn bó với trường phái cũ đã công khai chống lại Harvey nhưng họ không thể chống lại những sự thật khách quan . Ðến thời gian khi Harvey trở về già thì tuần hoàn máu của ông mới được giới các nhà sinh học thừa nhận chúng mặc dù người ta chưa phát hiện được mao quản nối liền động mạch với tĩnh mạch. Như vậy, các nhà bác học châu Âu đã dứt khoát vượt qua giới hạn sinh học cổ điển và không bao giờ quay trở lại nữa. Không còn nghi ngờ gì nữa, phát minh của Harvey là dẫn chứng có ích cho chủ nghĩa duy vật máy móc. Thật ra có thể cho rằng tim là một loại máy bơm, còn sự vận chuyển của máu tuân theo những định lý học về chuyển động của chất lỏng. Nếu như vậy thì giới hạn của vấn đề là ở đâu? Phải chăng người ta có thể giả thiết là tất cả những phần còn lại trong cơ thể sống chỉ là một bộ tập hợp của các hệ thống cơ học phức tạp và có liên quan lẫn nhau hay không? Ðiểm yếu nhất trong lý thuyết tuần hoàn máu cuả Harvey là không thấy được mối liên quan giữa động mạch và tĩnh mạch. Ông chỉ giả thiết có sự nối tiếp tương tự, nhưng do kích thước của các mao quản nối với nhau rất nhỏ nên không thể nhìn thấy được. Vào cuối đời của Harvey vấn đề này vẫn chưa được giải qưyết, và có lẽ nó vẫn tiếp tục tồn tại nếu như loài người chỉ dùng mắt thường để quan sát sự vật. Andre Vesalius (1514 - 1564) Năm 1543 còn xuất hiện một cuốn sách nữa rất cách mạng đối với sinh học, được coi như là cuốn sách của Côpecnic đối với vật lý học. Cuốn sách với nhan đề Về cấu tạo nhân thể, tác giả của cuốn sách đó là Andre Vesalius (1514 - 1564) nhà giải phẩu học lớn nhất của thời phục hưng ( ông tổ của giải phẩu học hiện đại ). a. Sơ lược về tiểu sử của Vesalius: Ông sinh vào ngày 1 tháng 1 năm 1514 ở Bruselles (Bỉ). Cha của ông là dược sư của Hoàng Ðế Charles thứ V. Thuở nhỏ chịu ảnh hưởng của cha Vesalius rất thích nghiên cứu tự nhiên, nhất là nghiên cứu động vật nhỏ. Ông thường theo cha học cách phẩu thuật chó, thỏ, chim, chuột...nên đã học được nhiều tri thức và kỹ năng thuộc lãnh vực giải phẫu. Ông học ở Hàlan theo truyền thống nghiêm khắc của trường phái Galen. Ông luôn luôn giữ cho mình một tình cảm tôn kính sâu sắc với Galen. Sau khi tốt nghiệp 1533 ông tới Paris học Y. Khi đó Paris là trung tâm tư tưởng văn nghệ phục hưng của Châu Âu, không khí học thuật rất sôi động, tư tưởng của mọi người cũng rất tự do phóng khoáng, mới mẻ, thoải mái. Ðiều đó ảnh hưởng rất lớn đối với cuộc đời Vesalius. b. Công trình khoa học của Vesalius:: Vào thời đó tôn giáo thần học còn chiếm địa vị tuyệt đối. Giáo hội thời kỳ này cấm chỉ giải phẩu thi thể người, cho rằng giải phẩu thi thể người là mạo phạm thần linh, là đại nghịch, vô đạo, gây trở ngại nghiêm trọng tới sự phát triển của khoa học . Do đó, Vesalius chỉ có thể giấu giếm giải phẩu thi thể, tìm ngàn phương, trăm kế trốn tránh sự chú ý của giáo hội. Lòng mong mỏi cầu học mãnh liệt, cộng thêm nỗi hiếu kỳ, đã khiến ông quên nỗi nguy hiểm tới tính mạng nhiều lần nấp trốn cảnh vệ, trong những đêm trời tối đen như mực, mò tới các bãi hành hình, bãi tha ma, vượt qua hàng đàn chó đói, lấy trộm thi thể, mang về nhà mình tiến hành giải phẩu suốt đêm. Cứï như thế Vesalius đã lấy trộm không biết bao nhiêu thi thể và thức trắng bao nhiêu đêm để bí mật giải phẩu. Cuối cùng nắm vững đích xác rất nhiều tri thức giải phẩu cơ thể người không hề ghi trong sách vở. Ðến mức ông có thể nhắm mắt cũng có thể rất nhanh nhận ra là loại xương nào mà người ta đặt vào bàn tay ông. Cấu tạo của các bộ phận nội tạng, bắp thịt, thần kinh, huyết quản, ông cũng rất quen thuộc. Vesalius không nghĩ như các thầy giáo của ông là hoàn toàn tuân theo lý luận của Galen Thời đó, ở các viện y học, người ta dạy là dạy giải phẩu học về chó, về lợn, mà không phải là dạy giải phẩu học về người. Cần biết rằng đối tượng nghiên cứu y học là người; chỉ có thú y mới nghiên cứu chó, lợn... Nhưng, có một số người vẫn ngang nhiên cho rằng cấu tạo của con người và chó, lợn là không sai khác bao nhiêu, và ở viện y học rất hiếm khi được giải phẩu thi thể; khi giải phẩu các giáo sư thường không cho học sinh nhìn rõ. Hễ khi phát hiện chỗ nào không giống với lý luận mà Galen đã viết thì họ cố ý lập lờ, không dám nói rõ, sợ nói ngược với quan điểm của Thánh thư!. Ông không mê tín nhân vật uy quyền và sách vở, chỉ xem trọng thực tiễn. Năm 1543, giáo sư Vesalius 28 tuổi, đã cho xuất bản cuốn sách Bàn về cấu tạo cơ thể người. Trong sách ông chỉ ra những sai lầm trong sách của Galen. Khi đó, trên giảng đường đại học, ông thường vừa giảng, vừa giải phẩu thi thể người khi giảng về cấu tạo cơ thể người, làm sinh viên nhận ra đâu là thật đâu là giả trong trước tác của Galen. Các buổi lên lớp của ông thường có tới hơn 400 - 500 người tham dự, ngồi chật cả hội trường. Ðương nhiên, Vesalius đã bị công kích kịch liệt của thế lực giáo hội, và giáo hội không dung tha ông. Họ chưởi ông là kẻ bổ báng thần linh. Ngay thầy giáo xưa của Vesalius cũng phản đối ông. Ví dụ: Galen cho rằng xương chân lớn của người nói rằng nó là thẳng thì thầy giáo của ông tuy không thể phủ nhận sự thật đó, nhưng lại nói để phủ định: - Việc xương chân lớn của người hiện nay là thẳng quả rõ là không phù hợp với sách vở của Galen, nhưng đó là kết quả của con người hiện đại mặc quần ống hẹp mà thôi! Công việc của Vesalius luôn bị công kích rất mạnh bởi những người theo thuyết giáo của tôn giáo. Ví dụ, Thánh kinh nói Thượng Ðế sáng tạo ra trời, Ðất, Ngày và Ðêm. Mặt Trăng, Mặt Trời và các vì sao, lại sáng tạo ra động vật, thực vật. Cuối cùng Thượng Ðế dùng đất bùn tạo ra con người, đầu tiên tạo ra một người nam là Adam, và sau đó là từ chiếc xương sườn của người đàn ông tạo ra một người nữ là Eva để làm vợ Adam, từ đó con cháu họ... ra đời, thành loài người. Theo cách thuyết giáo như vậy thì suy ra bộ xương của nam giới phải kém nữ giới một xương. Còn theo thực tiễn giải phẩu của Vesalius, với số lượng rất lớn sự thực chứng minh, số xương của người nam và người nữ là như nhau đều là 26 chiếc. Sự thực hùng hồn đó đã giáng một đòn chí mạng vào Thánh kinh của tôn giáo. Sau này Lenin cũng đã rút ra cho chúng ta một bài học kinh nghiệm trở thành chân lý không thay thế được Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Sau khi xuất bản cuốn sách đó, cuộc đời của Vesalius lâm vào tình cảnh bất hạnh. Vesalius vốn trông đợi sự đồng tình ủng hộ của giới y học đương thời, nhưng sự thật đã ngược lại với mong muốn đó. Nhiều bác sĩ cũng đã phản đối kịch liệt, ủng hộ uy quyền của Galen đã dựng lên từ thời cổ đại. Thầy giáo của ông gọi ông là kẻ dị giáo, loạn thần kinh(!) và biểu thị thái độ đấu tranh với ông đến cùng. Sự công kích từ mọi phía gây khó khăn cho ông càng lúc càng nghiêm trọng, khiến ông tuyệt vọng, phẫn chí tới mức hủy hết những tư liệu nghiên cứu đã bỏ ra bao tâm huyết tích lũy nhiều năm, và rời bỏ chức vị giáo sư đại học. Từ đấy, ông trở nên trầm tư, khổ não, không quan tâm gì đến sự nghiệp nữa... Cho dù đã như thế, nhưng kẻ phản đối ông trong giới khoa học và giới tôn giáo quyền uy căm thù sự phát triển khoa học, vẫn không chịu buông tha ông. Chúng thu thập tài liệu, luận tội trạng, cuối cùng vào năm 1563 lôi ông ra tòa án tôn giáo kết án ông phải chịu tử hình! Về sau vị hoàng Ðế Bỉ nghĩ ngợi thế nào mà đã miễn tội chết cho ông, đổi thành án phải đi lưu đày đến Palextin. Ông mất năm 1564 ở đảo Zante, lúc mới 50 tuổi! Suốt đời Vesalius đi tìm chân lý, hiến thân tất cả cho giải phẩu học, y học. Ông đấu tranh bất khuất với mê tín, tôn giáo, thần học. Thành tựu khoa học của ông đã làm ông trở thành người đặt nền móng cho giải phẩu học hiện đại, dược nhiều người tôn vinh là ông tổ của giải phẩu học hiện đại. Giáo hội có thể bức hại Vesalius nhưng ngăn trở không nổi trào lưu thời đại về nhận thức cơ thể của con người. Chân lý khoa học vẫn phát triển về phía trước cho dù gặp gian nan, gập ghềnh, khúc khuỷu. Sau khi ông chết nhà khoa học người Anh William Harvey (1578 - 1675) đã tiếp tục thăm dò, khám phá và cuối cùng triệt để lật đổ thuyết của Galen. Chân lý khoa học đã giành được thắng lợi cuối cùng. Luis Pasteur (1822-1895) [/h2] Louis Pasteur sinh ngày 27/12/1882 ở Dole, một vùng của Jura, Pháp. Khám phá của ông cho rằng hầu hết các bệnh nhiễm trùng là do những mầm bệnh, mang tên "lý thuyết về mầm bệnh", là một trong những khám phá quan trọng nhất trong lịch sử y học. Sự nghiệp của ông trở thành nền móng cho ngành vi sinh, và là cột mốc đánh dấu bước ngoặt của y học hiện đại. Tóm tắt những đóng góp to lớn của Pasteur cho vi sinh và y học: Thứ nhất, ông đấu tranh đòi thay đổi thực hành trong bệnh viện để giảm thiểu lây lan bệnh do vi khuẩn. Thứ hai, ông phát hiện ra rằng có thể dùng dạng vi khuẩn đã làm yếu để chủng ngừa chống lại dạng vi khuẩn độc. Thứ ba, Pasteur thấy rằng bệnh dại lây nhiễm nhờ một tác nhân rất nhỏ không nhìn thấy dưới kính hiển vi, nhờ đó mở ra thế giới các virus. Kết quả là ông đã triển khai được kỹ thuật tiêm vaccin cho chó chống bệnh dại và điều trị người bị chó dại cắn. Và thứ tư, Pasteur đã phát triển phương pháp "tiệt trùng kiểu Pasteur", một quy trình dùng sức nóng để tiêu diệt vi khuẩn có hại trong các loại thực phẩm dễ thiu thối mà không làm hỏng thực phẩm. Sự nghiệp của Pasteur Mỗi khám phá trong sự nghiệp của Pasteur đều là những mắt xích của một chuỗi không tách rời bắt đầu bằng tính bất đối xứng phân tử và kết thúc bằng phòng bệnh dại, theo con đường nghiên cứu trên men, tằm, bệnh của rượu và bia, vô trùng và vaccin. Từ tinh thể học tới phân tử bất đối xứng Nǎm 1847 ở tuổi 26, Pasteur tiến hành công trình đầu tiên về tính bất đối xứng phân tử, nêu lên cùng một lúc các nguyên lý của tinh thể học, hóa học và quang học. Ông đã đề ra định luật cơ bản: tính bất đối xứng phân chia thế giới hữu cơ với thế giới vô cơ. Nói một cách khác, các phân tử bất đối xứng luôn là sản phẩm của sinh thể sống. Công trình của ông trở thành cơ sở cho một ngành khoa học mới - ngành hóa học lập thể. Nghiên cứu sự lên men và sự tự sinh Theo yêu cầu của một nhà sản xuất rượu tên là Bigo ở miền bắc nước Pháp, Pasteur bắt đầu nghiên cứu xem tại sao rượu lại bị nhiễm những chất ngoài ý muốn trong quá trình lên men. Ông đã sớm chứng minh được rằng mỗi giai đoạn của quá trình lên men đều liên quan với sự tồn tại của một loại vi sinh vật đặc thù hay con men - một sinh vật mà người ta có thể nghiên cứu bằng cách nuôi cấy trong một môi trường vô trùng thích hợp. Nhận định sáng suốt này là cơ sở của ngành vi sinh. Pasteur đã giáng một đòn quyết định vào thuyết tự sinh, học thuyết đã từng tồn tại trong 20 thế kỷ cho rằng cuộc sống có thể tự này sinh từ những chất liệu hữu cơ. Ông cũng phát triển lý thuyết mầm bệnh. Cùng thời gian này, ông khám phá ra sự tồn tại của sự sống trong điều kiện không có oxy: "Lên men là hậu quả của sự sống không có không khí". Khám phá về sự sống yếm khí đã mở ra con đường nghiên cứu những mầm bệnh gây nhiễm trùng huyết và bệnh hoại thư, cùng với nhiều bệnh nhiễm trùng khác. Nhờ Pasteur, người ta có thể phát minh ra những kỹ thuật tiêu diệt vi khuẩn và kiểm soát ô nhiễm. Kỹ thuật "tiệt trùng kiểu Pasteur" Hoàng đế Napoleon III đã đề nghị Pasteur nghiên cứu những bệnh ảnh hưởng đến rượu đang gây thiệt hại cho ngành sản xuất rượu. Nǎm 1864, Pasteur tới khu vườn nho ở Arbois để nghiên cứu vấn đề này. Ông đã chứng minh rằng bệnh của rượu là do vi sinh vật gây ra, những vi sinh vật này có thể bị tiêu diệt bằng cách đun nóng rượu đến nhiệt độ 55oC trong vài phút. áp dụng cho bia và sữa, cách xử lý này, được đặt tên là "tiệt trùng kiểu Pasteur" đã nhanh chóng thông dụng trên khắp thế giới. Nghiên cứu bệnh nhiễm trùng ở người và động vật Nǎm 1865, Pasteur bắt đầu nghiên cứu những bệnh của tằm đang làm lụn bại ngành tằm tơ ở Pháp. Ông đã tìm ra tác nhân gây bệnh và cách lan truyền những tác nhân này - theo qui luật lây và di truyền - và cách ngǎn ngừa bệnh. Bổ sung thêm nghiên cứu về sự lên men, giờ đây ông có thể khẳng định mỗi bệnh là do một vi khuẩn đặc trưng gây ra và những vi khuẩn này là những yếu tố ngoại lai. Với hiểu biết này, Pasteur có thể đặt ra những qui tắc cơ bản của tiệt trùng. Ngǎn ngừa được lây nhiễm, phương pháp tiệt trùng của ông đã cách mạng hóa ngành ngoại khoa và sản khoa. Từ nǎm 1877-1887, Pasteur vận dụng cơ sở vi sinh học vào cuộc chiến chống các bệnh nhiễm trùng. Ông tiếp tục tìm ra ba vi khuẩn gây bệnh cho người: tụ cầu, liên cầu và phế cầu. Điều trị và phòng ngừa bệnh dại Louis Pasteur đã tìm ra phương pháp làm yếu các vi sinh vật độc là cơ sở cho chủng ngừa. Ông đã phát triển các vaccin chống bệnh tả ở gà, bệnh than và bệnh lợn đóng dấu. Sau khi nắm vững phương pháp chủng ngừa, ông đã áp dụng khái niệm này vào bệnh dại. Ngày 6/7/1885, lần đầu tiên Pasteur đã thử phương pháp điều trị bệnh dại của mình cho người: bé Joseph Meister đã được cứu sống. Thành lập Viện Pasteur Ngày 1/3/1886, Pasteur trình bày kết quả phương pháp điều trị bệnh dại của ông trước Viện Hàn lâm Khoa học Pháp và kêu gọi thành lập một trung tâm vaccin dại. Đông đảo dân chúng và cộng đồng quốc tế đã vận động tài trợ cho việc xây dựng Viện Pasteur, một viện nghiên cứu tư đầu tiên được Tổng thống pháp Jules Gresvy công nhận nǎm 1887 và được người kế nhiệm ông là Sadi Carnot khánh thành nǎm 1888. Theo mong ước của Pasteur, Viện được xây dựng thành một cơ sở điều trị bệnh dại, một trung tâm nghiên cứu các bệnh nhiễm trùng và một trung tâm giảng dạy. Nhà khoa học 66 tuổi đã dành trọn 7 nǎm cuối cùng của cuộc đời cho Viện nghiên cứu vẫn mang tên ông. Trong thời gian này, Pasteur cũng được hưởng niềm vui của danh tiếng và được tôn vinh khắp thế giới bằng những huân huy chương có uy tín. Sự nghiệp của ông được tiếp tục và được mở rộng trên kháp thế giới nhờ lớp lớp học trò. Con người của tự do và nghiêm ngặt Sự nghiệp của Pasteur không phải đơn giản là phép cộng những khám phá của ông. Nó còn tiêu biểu cho cuộc cách mạng phương pháp luận khoa học. Pasteur đặt lên trên hết hai nguyên tắc không thể bàn cãi của nghiên cứu hiện đại: tự do sáng tạo nhất thiết phải đi với thử nghiệm nghiêm ngặt. Ông dạy các học trò của mình: "Đừng có đưa ra điều gì mà anh không thể chứng minh bằng thực nghiệm" Louis Pasteur là người theo chủ nghĩa nhân vǎn, luôn luôn làm việc theo hướng cải thiện địa vị của con người. Ông là một người tự do chưa bao giờ ngập nừng khi nhận những vấn đề mà trong thời đại của ông người ta vẫn thường cho rằng chúng sẽ thất bại. Ông đặc biệt coi trọng việc phổ biến kiến thức và ứng dụng nghiên cứu. Trong cuộc đời của một nhà khoa học, lý thuyết và phương pháp Pasteur đã được đưa vào thực tiễn vượt xa khỏi biên giời nưới Pháp. Nhận thức đầy đủ tầm quan trọng quốc tế của sự nghiệp ông, các học trò của Pasteur đã đi khắp thế giới tới bất cứ nơi nào cần đến sự giúp đỡ của họ. Nǎm 1881, Viện Pasteur ngoài nước Pháp đầu tiên được thành lập ở Sài gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam), mở đầu cho mạng lưới các Viện Pasteur quốc tế. Vì ông đã làm thay đổi vĩnh viễn thế giới, tổ quốc quê hương ông và cả thế giới luôn coi ông là một ân nhân của nhân loại. Sự tiến bộ của nhân loại "Tôi cầu khẩn các bạn dành sự quan tâm cho những lãnh địa thiêng liêng rất nhạy cảm có tên là các phòng thí nghiệm. Mong sao những lãnh địa này sẽ nhiều hơn và chúng sẽ được tô điểm để trở thành những ngôi đền của tương lai, của thịnh vượng và sức khỏe. Đây là nơi nhân loại sẽ lớn lên, vững mạnh và hoàn thiện. ở đây, loài người sẽ học cách đọc được sự phát triển và sự hài hòa cá nhân trong những công việc của tự nhiên, trong khi công việc của chính loài người lại thường man rợ, cuồng tín và phá hoại" - Louis Pasteur Alexander Fleming [/h2] - Nhà bác học phát minh ra Penicillin cứu sống hàng triệu sinh mạng Alexander Fleming sinh ngày 6/8/1881 trong một trang trại gần thành phố Darvel nước Anh. Cha ông mất khi ông mới lên 7 tuổi, người anh trưởng cùng cha khác mẹ đã chăm sóc và cho A.Fleming đi học. Năm 13 tuổi Alexander được một người anh khác là bác sỹ Tom đưa đến London học tập và ông đã gắn bó suốt đời ở thành phố này. Đến London, Alexander học ở trường Bách khoa là trường có học phí thấp. Năm 16 tuổi, Alexander đã đỗ tất cả các kỳ thi và đi làm ở hãng tàu thuỷ America Line. Công việc ông làm là thư ký, ông phải sao chép các tư liệu bằng tay, giữ các sổ sách kế toán, các chi tiết hồ sơ hàng hoá và hành khách. Ông làm công việc nhàm chán này suốt 4 năm, không hề biết rằng tương lai của ông sẽ trở thành một người nổi tiếng trong một lĩnh vực hoàn toàn khác. Năm 1901, một cơ hội bất ngờ đã đến với Alexander: một ông chú mới qua đời đã để lại di sản cho tất cả các anh em nhà Fleming. Bác sỹ Tom Fleming đã dùng số tiền của mình để mở một phòng khám và ông

File đính kèm:

  • docTruyen ke cac nha bac hoc Sinh hoc 2.doc