Hiện nay nước ta đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế để tiến tới hội nhập với nền kinh tế - xã hội thế giới, nhằm tạo ra một sự phát triển vượt bậc vì mục tiêu nâng cao toàn diện đời sống nhân dân và nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Để đạt được điều đó nhất thiết phải nâng cao năng lực về mọi mặt nguồn lực con người. Vì thế, nhiệm vụ đặt ra cho ngành Giáo Dục là phải đào tạo ra những con người lao động mới, có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thời kì đổi mới. Nghị quyết đại hội Đảng cũng đã đề ra “Phải xác định rõ mục tiêu, nội dung đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học” để “đào tạo được những con người lao động tự chủ, năng động và sáng tạo, có năng lực giải quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra, tự lo được việc làm, lập nghiệp, và thăng tiến trong cuộc sống, qua đó góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
34 trang |
Chia sẻ: lephuong6688 | Lượt xem: 766 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin trong giảng dạy Địa lí THCS, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A/ MỞ ĐẦU
1/ Bối cảnh của việc thực hiện đề tài
Hiện nay nước ta đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế để tiến tới hội nhập với nền kinh tế - xã hội thế giới, nhằm tạo ra một sự phát triển vượt bậc vì mục tiêu nâng cao toàn diện đời sống nhân dân và nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Để đạt được điều đó nhất thiết phải nâng cao năng lực về mọi mặt nguồn lực con người. Vì thế, nhiệm vụ đặt ra cho ngành Giáo Dục là phải đào tạo ra những con người lao động mới, có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thời kì đổi mới. Nghị quyết đại hội Đảng cũng đã đề ra “Phải xác định rõ mục tiêu, nội dung đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học” để “đào tạo được những con người lao động tự chủ, năng động và sáng tạo, có năng lực giải quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra, tự lo được việc làm, lập nghiệp, và thăng tiến trong cuộc sống, qua đó góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
2/ Lí do chọn đề tài
Căn cứ Quyết định số 698/QĐ-TTg ngày 01/6/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch tổng thể phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020; Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 của Chính phủ về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Chỉ thị số 55/2008/CT-BGDĐT ngày 30/9/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai đoạn 2008-2012.
Năm học 2012 là năm học toàn ngành đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong dạy học nhằm nâng năng lực học tập của học sinh. Phát huy tính sáng tạo trong học tập và giảng dạy.
Xu hướng mới hiện nay trong quá trình dạy học là “Lấy học sinh làm trung tâm”, tức là người dạy học phải phát huy tối đa tính tích cực chủ động của người học trong quá trình dạy học, phải đề cao vai trò chủ thể của người học trong quá trình nhận thức. Học sinh phải hoạt động nhiều hơn để tự nắm kiến thức, tự tìm ra chân lí thông qua việc đổi mới về phương pháp cũng như vận dụng các phương tiện thiết bị dạy học hiện đại.
Do đặc trưng đối tượng nghiên cứu của khoa học Địa Lí là các vấn đề về tự nhiên và kinh tế xã hội nên lượng kiến thức này càng tăng lên nhanh chóng hơn. Nếu không kịp thời nắm bắt các kiến thức đó thì sẽ nhanh chóng bị tụt hậu và trở nên lạc hậu. Bên cạnh đó trong giai đoạn bùng nổ thông tin, đất nước đã và đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, điều này cũng góp phần làm cho nguồn tri thức Địa Lí ngày càng trở nên phong phú, nó được giới hạn không chỉ ở trong những phương tiện truyền thống như các loại sách báo, các tài liệu thông thường mà nó được phổ biến rộng rãi trên nhiều các phương tiện thông tin đại chúng như: tivi, radio và nhất là trên mạng Internet.
Chính những lí do đó mà việc đưa tin học và ứng dụng tin học như một phương tiện vào trong giảng dạy và học tập là một nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục bậc phổ thông hiện nay, đồng thời đây cũng là một điều kiện thiết yếu để hiện đại hóa nền giáo dục nói chung, môn Địa Lí nói riêng trong nhà trường phổ thông, phù hợp với xu thế phát triển của khoa học kĩ thuật.
Với mong muốn góp tiếng nói chung vào công cuộc đổi mới phương
pháp dạy học và nâng cao chất lượng thiết kế bài giảng cũng như mở rộng thêm khả năng ứng dụng CNTT vào dạy học ở trường phổ thông, tôi lựa chọn đề tài: “Ứng dụng hiệu quả CNTT trong giảng dạy Địa lí THCS”.
3/ Phạm vi và đối tượng của đề tài:
Bước đầu nghiên cứu cách thức ứng dụng CNTT vào việc thiết kế bài giảng Địa Lí THCS cách hiệu quả.
4/ Mục đích đề tài:
Nghiên cứu sử dụng hiệu quả của một số phần mềm ứng dụng trong thiết kế bài giảng và cách thức tiến hành thiết kế một bài giảng để giáo viên có thể ứng dụng trong giảng dạy. Đồng thời nêu được nguyên tắc, cơ sở và quy trình thiết kế bài giảng Địa Lí có sử dụng CNTT.
5/Những điểm mới trong quá trình nghiên cứu
- Trong quá trình giảng dạy môn địa lí THCS trong thời gian vừa qua và rút kinh nghiệm từ quá trình dự giờ đóng góp ý kiến của đồng nghiệp tôi thấy quá trình tổ chức khai thác kiến thức qua bài giảng điện tử đã mang lại nhiều hiệu quả thiết thực. Có thể áp dụng nhiều khối lớp khác nhau.
- Trong quá trình khai thác kiến thức giáo viên dẫn dắt học sinh giải quyết các vần đề, biết khơi dậy tính tò mò khám phá kiến thức của các em qua hình ảnh, các đoạn video, lược đồ, bản đồ, âm thanh. . .giáo viên đóng vai trò là người định hướng khám phá cho các em. Tạo điều kiện cho các em tìm ra kiến thức thông qua nhiều hình thức khác nhau như: các em có thể tranh luận với nhau về một vần đề, giải thích cho nhau những gì các em hiểu được hoặc có thể tham gia tranh luận với các thầy cô về nội dung học tập mà thầy cô gợi ý. Từ đó học sinh đã phát huy được tính sáng tạo của bản thân các em hăng say học tập và kết quả học tập ngày càng tăng lên khi các em hiểu được vấn đề.
- Trên thực tế, sự phát triển của khoa học công nghệ đã và đang mở ra những khả năng và điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng phương tiện CNTT vào quá trình dạy học. Việc sử dụng có tính sư phạm những thành quả khoa học công nghệ sẽ làm thay đổi lớn đến hiệu quả của quá trình dạy học, hiệu quả của việc sử dụng các phương tiện dạy học.
B/ NỘI DUNG :
I/ Cơ sở lí luận của đề tài.
a/ Đặc điểm học tập học sinh.
Do nội dung học tập của chương trình THCS có nhiều thay đổi so với Tiểu học vì thế đặc điểm học tập của các em cũng khác nhiều. Từ mức độ nhận thức, tư duy và tâm lí tuy chưa thật vững vàng song đây là thời điểm thích hợp để giáo viên có thể giúp các em có được định hướng đúng đắn trong việc học tập, hướng nghiệp và trong cuộc sống.
Đối với bộ môn Địa lí THCS, nội dung hết sức phong phú về các lĩnh vực từ tự nhiên đến đời sống kinh tế - xã hội cũng tạo ra sự hấp dẫn trong các giờ học. qua đó những tác động ít nhiều tới động cơ học tập của học sinh vì đây là những kiến thức gần gũi với cuộc sống. Đồng thời nâng cao sự ham mê tìm tòi và nghiên cứu về những gì các em được học.
Nếu việc thiết kế bài giảng Địa lí THCS được sử dụng CNTT, nhất là đối với phần Địa lí tự nhiên vốn có rất nhiều các hiện tượng cần được quan sát, được thể hiện, mô phỏng lại thì rõ ràng sẽ thu hút nhiều hơn sự quan tâm của các em đối với môn Địa lí, từ đó nâng cao hiệu quả của việc dạy và học.
b/ Đặc điểm trí tuệ của học sinh THCS
Vì các em đang ở độ tuổi thiếu niên tính tích cực, năng động, sáng tạo được thể hiện rõ nét trong hoạt động của bản thân. Ở lứa tuổi này, hoạt động học tập chưa thể hiện rõ do các em chưa nhận thức rõ ràng vai trò, nhiệm vụ của việc học tập. Ham vui nhiều hơn học. Đặc điểm nổi bật về sự phát triển trí tuệ của học sinh là tính chủ động, tích cực, tính tự giác chưa được thể hiện rõ nét trong quá trình nhận thức. Việc ghi nhớ kiến thức trong các em chưa cao còn chưa phân biệt được tài liệu nào nên ghi nhớ từng câu chữ, tài liệu nào chỉ cần đọc hiểu mà không cần nghi nhớ. Đa số các em học tập cách máy móc từng câu chữ, một số em ghi nhớ đại khái, mang tính chất chung chung, còn đánh giá thấp việc ôn tập tài liệu dẫn đến hiệu quả ghi nhớ chưa cao.
Qua khảo sát thực tế ở trường và vài trường phụ cận cho thấy khả năng nhận thức của học sinh ở từng trường, từng khu vực khác nhau có trình độ nhận thức khác nhau. Học sinh ở các trường thành phố, thị xã nhìn chung có trình độ nhận thức cao hơn học sinh ở những trường vùng nông thôn. Điều này cũng dễ hiểu vì ở khu vực thành phố, thị xã các điều kiện phục vụ cho việc dạy và học tốt hơn, cơ sở vật chất được trang bị tốt và đầy đủ hơn. Còn đối với học sinh nông thôn thời gian dành cho việc học tập ít hơn, cuộc sống vật chất nhìn chung khó khăn hơn. Bên cạnh đó còn do tâm lí dè dặt trong giao tiếp, ngại nêu ý kiến bản thân cũng là những nguyên nhân làm hạn chế khả năng nhận thức của học sinh ở đây.
Chính vì vậy, việc giúp các em phát triển khả năng nhận thức là một nhiệm vụ quan trọng của giáo viên, vấn đề đặt ra ở đây là để nâng cao chất lượng học tập của học sinh thì điều kiện tiên quyết là cần phải đổi mới
phương pháp dạy học nói chung và việc thiết kế bài giảng nói riêng, nó sẽ là đòn bẩy thúc đẩy quá trình dạy học.
c/ Vai trò, chức năng, phân loại các phương tiện thiết bị kĩ thuật trong dạy học Địa lí .
Trong thực tế cho thấy phương tiện có vai trò chức năng sau:
- Cung cấp cho học sinh các kiến thức một cách chắc chắn, chính xác. Nhờ vậy nguồn thông tin thu nhận được trở nên đáng tin cậy và bền lâu hơn.
- Rút ngắn thời gian giảng dạy, việc lĩnh hội kiến thức của học sinh nhanh hơn.
- Dễ dàng trong việc tạo sự chú ý và gây hưng phấn học tập cho học sinh. - Việc giảng dạy của giáo viên trở nên cụ thể hơn, dễ dàng hơn.
- Giúp giáo viên kiểm tra việc tiếp thu bài học của học sinh một cách toàn diện hơn, khách quan hơn.
- Giúp thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo xu hướng lấy người học làm trung tâm.
Hiện nay có nhiều cách phân loại thiết bị kĩ thuật dạy học, có thể dựa vào tính chất, công dụng trong quá trình dạy học nhưng phổ biến hơn hết là dựa vào mức độ hiện đại của phương tiện. Theo cách này có thể chia ra:
- Nhóm các phương tiện truyền thống.
- Nhóm các phương tiện hiện đại.
d/ Quan niệm về thiết kế bài giảng
Thiết kế bài giảng hay còn gọi là cấu trúc bài giảng được hiểu là: Những dự kiến cụ thể về sự kết hợp giữa cấu trúc tiết học + cấu trúc bài học + hình thức tổ chức hoạt động của giáo viên và học sinh. Trong đó nêu rõ các bước chủ yếu, thời lượng hoạt động của giáo viên và học sinh nhằm đạt mục đích (mục tiêu) cụ thể và rõ ràng mà người giáo viên đã xác định theo yêu cầu của chương trình.
Thiết kế bài giảng (giáo án) bao gồm không chỉ nội dung, phương pháp giảng dạy, phương tiện dạy học mà còn cả hình thức tổ chức dạy học, hoạt động của giáo viên và học sinh trong một khoảng thời gian nhất định.
Thiết kế bài giảng phải được xem xét trong mối quan hệ qua lại giữa mục tiêu – phương pháp – hình thức và các nhân tố khác của quá trình dạy học. Xác định mục đích yêu cầu của bài phải xuất phát từ kiến thức khoa học, kĩ năng,
kĩ xảo của từng bộ môn thông qua đó phát triển ở học sinh năng lực nhận thức. Vì vậy khi xác định nội dung của bài giảng phải căn cứ vào SGK Địa lí để xác định trọng tâm của bài, những kiến thức cơ bản, những khái niệm cơ bản.
Việc lựa chọn hình thức và phương pháp dạy học để biến nội dung của bài thành tri thức của bản thân học sinh phụ thuộc rất nhiều vào cách lựa chọn hình thức tổ chức và phương pháp dạy học mà dấu hiệu cơ bản là: Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động của học sinh. Dạy học chú trọng đến phương pháp tự học, tăng cường học tập cá nhân với học tập hợp tác, kết hợp sự đánh giá của giáo viên với sự tự đánh giá của học sinh và giữa học sinh với học sinh.
Mặc dù vậy nhưng cho đến tận những năm cuối của thập kỉ 90 ở thế kỉ XX, việc thiết kế bài giảng của giáo viên hoàn toàn theo mẫu truyền thống. Mục đích chính của việc thiết kế bài giảng lúc này là làm thế nào truyền thụ được hết lượng thông tin định sẵn trong SGK theo cách hiểu của người giáo viên đến học sinh. Để làm tốt điều này người giáo viên cố gắng sắp xếp bài giảng theo một trình tự logic thích hợp với nội dung dự định truyền đạt căn cứ vào nội dung của SGK đã đưa ra. Như vậy, việc thiết kế bài giảng theo kiểu truyền thống chỉ dựa chủ yếu vào logic lập luận của người trình bày, không tính đến logic của người lĩnh hội là học sinh.
Ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật là xu thế phát triển lí luận dạy học hiện đại nói chung và lí luận dạy học bộ môn nói riêng đã có những tác động đến việc dạy học trong đó có bộ môn Địa lí. Các phương tiện kĩ thuật hiện đại đã làm thay đổi cách tiếp cận nội dung học tập của học sinh và các phương pháp giảng dạy của giáo viên trong đó có cả việc thiết kế bài giảng.
e/ Quan niệm dạy - học có ứng dụng CNTT như sau:
Quan niệm 1: máy chiếu bao gồm tất cả các hoạt động và nội dung bài học, bảng đen là bảng phụ (là nơi học sinh tham gia các hoạt động giáo dục).
Quan niệm 2: máy chiếu chỉ đơn thuần là phương tiện trình chiếu hình ảnh, sự kiện. âm thanh, video clip hay nói cách khác máy chiếu chỉ là bảng phụ hỗ trợ cho bảng đen (bảng chính).
Quan niệm 3: Kết hợp cả bảng đen và và máy chiếu là bảng chính.
Từ đó, tôi có thể tạm chia các quan niệm trên thành 3 loại:
(1)- Việc ứng dụng CNTT vào quá trình dạy - học là cần thiết vì giờ học sẽ đạt hiệu quả cao hơn, có nhiều thời gian và không gian cho giáo viên và học sinh hoạt động. Hay nói cách khác việc ứng dụng CNTT sẽ thực hiện nguyên tắc dạy học: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn” được tốt hơn.
(2)- Có CNTT cũng được, không có CNTT cũng được, việc giáo dục vẫn phải đặt mục tiêu cần đạt lên hàng đầu ( chất lượng học sinh làm đầu).
(3)- Tâm lí ngại, mất thời gian cho việc chuẩn bị và soạn bài.
g/ Những cơ sở để thiết kế bài giảng
Để có thể tiến hành thiết kế bài giảng đạt hệu quả, giáo viên phải dựa vào các cơ sở chủ yếu sau:
- Phải dựa vào mục đích yêu cầu của bài học : (yêu cầu về giáo dục, về lí luận dạy học và yêu cầu của bộ môn).
+ Về giáo dục: Nội dung bài học phải phản ánh được trình độ phát triển của khoa học Địa lí hiện nay, đáp ứng nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ, tức là thông qua bài giảng để hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học, nhân sinh quan
đúng đắn và lòng yêu quê hương đất nước.
+ Về lí luận dạy học: Ngoài một số điểm chung mỗi bài giảng Địa lí có một cấu trúc riêng, phụ thuộc vào nội dung, nhiệm vụ, mục đích và loại hình của nó như: Bài nghiên cứu kiến thức mới có những nét khác cơ bản với bài ôn tập, bài thực hành Ở trường phổ thông hiện nay thường cấu trúc bài học Địa Lí theo các bước: Kiểm tra kiến thức cũ, trình bày kiến thức mới, khái quát hóa, ra bài tập. Bài giảng phải đảm bảo tính toàn diện của kế hoạch sư phạm: Xác định rõ ràng mục đích của bài trong sự thống nhất giữa nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
+ Trình độ chuyên môn của người giáo viên:
Trình độ chuyên môn của người giáo viên có ý nghĩa quyết định để thực hiện được tốt khâu thiết kế bài giảng. Vì vậy trước hết người giáo viên phải có trình độ vững vàng về mặt khoa học Địa Lí. Thời gian học tập ở trường Sư phạm hạn chế, các giáo trình không thể cung cấp đầy đủ những kiến thức trong lĩnh vực khoa học Địa Lí. Hơn nữa trong xu thế phát triển của khoa học kĩ thuật (nói chung) và khoa học Địa lí (nói riêng) các kiến thức luôn luôn mở rộng và phát triển. Nếu người giáo viên không tiếp tục nghiên cứu học tập, tham khảo thêm những sách về khoa học Địa Lí thì sẽ không tự bổ sung được những kiến thức mới và trở thành lạc hậu. Trình độ kiến thức khoa học càng cao, càng vững vàng thì càng dễ phân biệt được kiến thức, kĩ năng nào là cơ bản cần làm cho học sinh nắm vững.
+ Khả năng sư phạm của giáo viên:
Nếu trình độ chuyên môn cao mà không có nghiệp vụ sư phạm vững vàng thì việc thiết kế bài giảng (soạn giáo án) khó có thể tốt. Một nhà khoa học giỏi có thể chưa phải là một giáo viên tốt vì rằng nắm vững tri thức khoa học là một việc mà truyền thụ tri thức đó cho học sinh, tạo điều kiện cho học sinh lĩnh hội được tốt (đạt được mục đích dạy học) lại là một việc khác.
Để làm được việc đó đòi hỏi giáo viên phải nắm được tâm sinh lí của học sinh đặc biệt là tâm sinh lí lứa tuổi, nắm được quy luật của quá trình dạy học và giáo dục cũng như là phải có hình thức tổ chức phương pháp giảng dạy, giáo dục thích hợp. Vì thế, muốn thiết kế một bài giảng tốt thì người giáo viên không chỉ cần giỏi về khoa học Địa Lí mà cần phải có khả năng sư phạm.
+ Những điều kiện về phương tiện thiết bị kĩ thuật dạy học Địa lí:
Theo quan điểm cấu trúc hệ thống thì phương tiện dạy học là một nhân tố quan trọng trong quá trình dạy học nói chung và việc thiết kế bài giảng nói riêng, nó cùng với các yếu tố khác như: nội dung dạy học, hoạt động của giáo viên và học sinhtạo thành một chỉnh thể và có quan hệ biện chứng trong khi thiết kế bài giảng và tiến hành bài giảng đạt hiệu quả. Ngoài ra phương tiện dạy học còn là một bộ phận không thể thiếu được trong khi tiến hành thiết kế bài giảng, nó còn giúp giáo viên điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh, còn đối với học sinh nó là phương tiện lĩnh hội tri thức và rèn luyện kĩ năng khi tiếp thu bài giảng.
Đặc biệt trong thời đại ngày nay với xu thế tiến bộ của khoa học kĩ thuật, các phương tiện kĩ thuật dạy học ngày càng thâm nhập sâu vào nhà trường, chúng không những đã làm thay đổi những phương pháp dạy học truyền thống mà còn làm thay đổi nhiều vấn đề trong dạy học như nội dung dạy học,tiến trình dạy học trong đó có tác động trực tiếp đến thiết kế bài giảng, cụ thể là vai trò của giáo viên và học sinh sẽ có những điểm khác so với cách thiết kế bài giảng trước đây. Như vậy có thể thấy rằng các phương tiện dạy học Địa lí nếu được sử dụng đúng đắn không những sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả bài giảng mà còn làm thay đổi việc soạn giáo án hay nói cách khác là làm thay đổi cấu trúc của bản thiết kế bài giảng.
II. Thực trạng ứng dụng CNTT vào dạy và học ở bộ môn Địa Lí
Từ trước đến nay, các môn khoa học xã hội, nhất là môn Địa Lí việc sử dụng phương tiện dạy học, chủ yếu là sách giáo khoa, bản đồ, một số tranh ảnh, phấn trắng, bảng đen việc sử dụng băng hình, đĩa CD, máy chiếu Overhead, Projector, máy vi tính và các phương tiện dạy học hiện đại khác nhìn chung vẫn còn hạn chế với nhiều giáo viên.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên:
- Trước hết Địa lí là môn khoa học xã hội, nội dung thiên về lý luận và mang tính trừu tượng cao, nên việc đầu tư thiết bị dạy học của môn học này còn rất hạn chế, dường như không có gì và thực tế cũng chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ và toàn diện về sử dụng thiết bị dạy học ở môn học này.
- Nhiều giáo viên vẫn chưa nhận thức được vai trò và tác dụng của phương tiện dạy học, chưa đầu tư suy nghĩ về cách thức sử dụng phương tiện dạy học một cách có hiệu quả. Một số giáo viên vẫn còn quen với cách dạy cũ, hoặc ngại sử dụng CNTT do tốn thời gian, công sức biên soạn chuẩn bị.
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị, máy móc, phòng bộ môn, phòng đa chức năng, máy tính, máy chiếu ở một số trường chưa được trang bị đầy đủ, đặc biệt là các trường ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
- Hầu hết giáo viên chưa có kỹ năng sử dụng các thiết bị dạy học hiện đại, chưa sử dụng thành thạo một số phần mềm vi tính, chưa đầu tư nghiên cứu và xây dựng những phương tiện dạy học mới, chưa chịu khó học hỏi, khám phá.
Thực tế những năm gần đây, việc đổi mới chương trình và nội dung sách giáo khoa đã được triển khai đồng bộ: từ nội dung, phương pháp, phương tiện đến kiểm tra, đánh giá. Vì vậy, việc sử dụng thiết bị dạy học trong các bộ môn khoa học tự nhiên và xã hội cũng như bộ môn Địa lí có nhiều chuyển biến khá tích cực. Nhiều giáo viên đã ứng dụng CNTT vào dạy học một cách tích cực và có hiệu quả. Với sự hỗ trợ của máy tính, Projector, những sơ đồ minh họa, tranh ảnh, băng hình đã phục vụ thiết thực cho tiết dạy, không chỉ giúp giáo viên tiết kiệm thời gian và công sức mà còn tăng hiệu quả đáng kể cho quá trình dạy học. Tuy nhiên, việc dùng giáo án điện tử, sử dụng máy tính, Projector, truy cập mạng Internet phục vụ cho nghiên cứu và giảng dạy đối với bộ môn Địa lí là chưa nhiều, đôi lúc chỉ dừng lại ở những tiết dạy thao giảng hay có người dự giờ Phần lớn giáo viên lên lớp vẫn dùng các phương pháp dạy học (PPDH) truyền thống, chủ yếu là phương pháp thuyết trình và trình bày bài giảng bằng phấn trắng, bảng đen. Nhiều giáo viên cũng đã mạnh dạn ứng dụng CNTT đổi mới phương pháp giảng dạy, song khi soạn giáo án điện tử vẫn chưa nắm được những tiêu chí cơ bản của một bài giảng điện tử. Vì vậy vẫn còn tình trạng lạm dụng màu sắc, hiệu ứng, âm thanh hoặc đưa quá nhiều thông tin, phim ảnh không phù hợp làm giảm hiệu quả giờ dạy. Đôi lúc làm cho học sinh trở nên lúng túng trong việc tiếp thu bài học.
Từ thực tế trên cho thấy sự cần thiết phải triển khai rộng rãi việc ứng dụng CNTT vào dạy học có tính đồng bộ, đúng hướng và có hiệu quả hơn.
III/ Sử dụng CNTT thiết kế bài giảng địa lí
A/ Một số nguyên tắc thiết kế bài giảng Địa lí có ứng dụng CNTT
Trong chương trình Địa lí có nhiều loại bài giảng khác nhau, tuy nhiên để thiết kế bài giảng có sử dụng CNTT một cách có hiệu quả cần nhất thiết phải tuân theo các nguyên tắc sau:
- Phải đảm bảo đầy đủ nội dung cơ bản theo chuẩn KTKN của bài học theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Người giáo viên phải nắm vững điều kiện dạy học và trình độ nhận thức, tâm sinh lí của học sinh. Có như vậy mới đưa ra được các phương pháp phù hợp để giúp học sinh đạt được những yêu cầu của bài theo mục tiêu đã đề ra.
- Bản thiết kế phải được tiến hành trên cơ sở những định hướng mục tiêu giáo dục chung của đất nước. Đồng thời phải thể hiện được sự đổi mới trong phương pháp dạy học để phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh, khơi gợi ở các em sự ham học, tình yêu quê hương đất nước và học tập phấn đấu vì sự phát triển phồn vinh của đất nước.
- Chọn và trình bày kiến thức cơ bản một cách tối ưu. Các kiến thức cơ bản của bài khi được đưa ra phải trình bày ngắn gọn dễ hiểu, chú ý sử dụng các sơ đồ, bảng biểu, các mũi tên chỉ liên hệ các ô chữ nhỏ, không viết dài dòng. Cần chú ý bố cục toàn bài sao cho trực quan, ấn tượng dễ theo dõi.
- Sắp xếp các nội dung trình diễn trong Slide một cách khoa học. Các Slide trình diễn phải được sắp xếp thể hiện tính logic cấu trúc của bài học, do đó mà phải bao gồm cả kênh chữ, kênh hình, các câu hỏi, nhiệm vụ của học sinh, các tiểu kết, kết luận
Tránh việc trình chiếu các kiến thức một cách tường minh liên tục. Cần thiết kế bài dạy theo cấu trúc đan xen giữa nội dung với các câu hỏi và nhiệm vụ làm việc của học sinh để hướng dẫn học sinh làm việc với các bản đồ, biểu đồ, bảng số liệu thống kê, các tranh ảnh, hình vẽ để thông qua đó rèn luyện các kĩ năng của bộ môn như: quan sát, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa
- Giới hạn mở rộng phần minh họa. Các hình ảnh, biểu đồ, bản đồ và các kiến thức khác kết nối với bài học chủ yếu có tác dụng bổ sung, mở rộng, hoặc minh họa cho các kiến thức cơ bản của bài. Vì vậy giáo viên cần phải chú ý phạm vi mở rộng, đi sâu tránh lan man, làm loãng kiến thức chính của bài học.
- Hình ảnh lựa chọn dùng để chèn và bài giảng phải rõ nét. Các đoạn video phải rõ ràng nếu không các hình ảnh, các đoạn video trình chiếu sẽ phản tác dụng.
- Màu sắc chữ, hiệu ứng đơn giản sẽ tạo cảm giác nhẹ nhàng hơn.
- Cần kết hợp linh hoạt các phương pháp dạy học và các hình thức tổ chức dạy học với việc sử dụng công nghệ. Trình diễn Power point có tác dụng rất tốt do đó cần phải kết hợp với bài giảng, trình bày, đặt câu hỏi với các hướng dẫn cụ thể của giáo viên. Cũng không nên sử dụng Power point trong suốt quá trình dạy mà nên xen kẽ với việc sử dụng các phương tiện khác như phiếu học tập, tập Atlat, tập bản đồđể hoạt động của học sinh đa dạng và cũng có thể trình bày ý kiến bản thân trước tập thể một cách thuận lợi.
IV/ . Lựa chọn phần mềm
Hiện nay có rất nhiều phần mềm trình chiếu hỗ trợ cho hoạt động dạy - học, mỗi phần mềm đều có ưu điểm riêng của nó. Ở đây, tôi đã lựa chọn một số phần mềm phù hợp với đặc trưng bộ môn. Cụ thể:
1. Sử dụng phần mềm trình chiếu Microsoft office Power Point (PPT).
Phần mềm PPT là phần mềm trình diễn của Microsoft office. Phần mềm này có rất nhiều tính năng như: trình chiếu hình ảnh, chữ, video clip, âm thanh với rất nhiều lựa chọn về hiệu ứng.
Khi dạy học bằng phần mềm trình chiếu PPT thì việc tự học, tự nghiên cứu kĩ thuật để hình thành kĩ năng sử dụng là vô cùng cần thiết. Bản thân tôi đã tự học tập qua các kênh thông tin:
- Trao đổi với đồng nghiệp, dự giờ đồng nghiệp có ứng dụng CNTT.
- Mua tài liệu tự học.
- Trao đổi trên các diễn đàn Internet như: thuthuattinhoc.com; violet; dayhoc.net; bachkim.vn; 3C.com.vn; giaovien.net
2. Sử dụng phần mềm video SoftonicEN_vlc-1.0.5 (vlc).
Phần mềm PPT có hỗ trợ chạy video clip trên nền với Movie. Nhưng điểm hạn chế của phần mềm Movie là chỉ chạy được các đoạn video clip có định dạng *.Wav; *.Dat, mà phần lớn các đoạn video clip ở trên Internet đều được định dạng với đuôi: *.Avi; *.flv. Vì vậy, khi sử dụng phần mềm Movie giáo viên phải cài thêm phần mềm đổi đuôi Untra convert, và việc sử dụng phần mềm đổi đuôi này cũng không phải dễ dàng.
Trong PPT có hỗ trợ cho một số phần mềm chạy video khác trên nền của nó. Và phần mềm được dùng phổ biến nhất là vlc 1.0.5( đây là phần mềm nhỏ gọn, thân thiện và dễ dùng). Phần mềm này chạy được gần như tất cả các các đuôi. Vì vậy, bạn chỉ cần cài phần mềm này và sử dụng.
3. Sử dụng phần mềm violet1.7
Đây là phần mềm mới của công ty Bạch Kim được xây dựng để phục vụ cho công việc giảng dạy, đổi mới phương pháp của giáo viên được thuận lợi. PPT có hỗ trợ chèn violet vào Slide. Khi chèn violet vào PPT và xuất ra chạy ở máy tính khác cũng không ảnh hưởng cả khi máy đó không cài violet. Vio.. có những tính năng dễ dàng thiết kế như: bài tập trắc nghiệm, bài tập ô
File đính kèm:
- Sang kien 2011-2012.docx