Đề tài Một số biện pháp dạy giải toán có lời văn ở lớp 4

Chương trình Toán tiểu học có vị trí và tầm quan trọng rất lớn. Toán học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về số học, các số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản, giải toán có lời văn ứng dụng thiết thực trong đời sống và một số yếu tố hình học đơn giản.

doc19 trang | Chia sẻ: haianhco | Lượt xem: 8930 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Một số biện pháp dạy giải toán có lời văn ở lớp 4, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ Chương trình Toán tiểu học có vị trí và tầm quan trọng rất lớn. Toán học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về số học, các số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản, giải toán có lời văn ứng dụng thiết thực trong đời sống và một số yếu tố hình học đơn giản. Mục tiêu nói trên được thực hiện thông qua việc dạy học các môn học, đặc biệt là môn Toán, môn này có tầm quan trọng vì toán học với tư cách là một môn khoa học nghiên cứu hệ thống kiến thức cơ bản và sự nhận thức cần thiết trong đời sống, sinh hoạt lao động của con người, môn Toán là chìa khóa mở đầu cho tất cả các ngành khoa học khác, nó là công cụ cần thiết của người lao động mới, đặc biệt là giải toán có lời văn. Chính vì vậy, trong quá trình hình thành số tự nhiên, toán có lời văn được đưa ngay vào đầu lớp 1. Các dạng toán có lời văn được hình thành theo nội dung dãy số từ 1 đến 10 đến 100......đến các số có nhiều chữ số, các phân số, các số thập phân. Như vậy, toán có lời văn được xuyên suốt từ lớp 1 đến lớp 5. Giúp học sinh giải toán có lời văn là vô cùng quan trọng. Thông qua việc giải toán có lời văn người giáo viên giúp học sinh bước đầu biết vận dụng các kiến thức và kỹ năng toán vào việc giải quyết một số vấn đề trong cuộc sống hằng ngày như: mua, bán, chia phần, so sánh thi đua với bạn bè và người xung quanh. Hay nói ngắn gọn hơn toán có lời văn là cầu nối kiến thức toán học mà các em được học ở nhà trường với đời sống sinh hoạt hàng ngày. Thông qua giải toán có lời văn giúp học sinh hình thành và phát triển khả năng tư duy lô gíc, năng lực trình bảy kết quả và làm cơ sở cho quá trình học toán sau này. Ở trường Tiểu học, dạy toán có lời văn (là toán đơn) đã đạt được những thành công nhưng cạnh đó vẫn còn nhiều hạn chế. Học sinh phần lớn chưa đạt được kết quả như mong muốn. Việc giải toán đơn của các em chưa đáp ứngđược yêu cầu của toán học. Các em còn cần tới sự giúp đỡ của thầy cô để có kỹ năng giải toán đơn tốt, tạo điều kiện để giải đúng, giải nhanh các bài toán hợp. Xuất phát từ thực trạng trong việc dạy học toán có lời văn đối với học sinh Tiểu học, các em còn gặp rất nhiều khó khăn khi giải loại toán này. Do khả năng nhận thức của các em còn non kém, vốn hiểu biết ít ỏi, trình độ nhận thức lại không đồng đều. Khi giải loại toán này các em phải đọc nhiều lần đề bài, hiểu đề bài yêu cầu gì cho biết những gì; Khi làm bài phải trả lời đúng câu hỏi viết đúng phép tính, ghi đúng đơn vị. Sự quan tâm đến học tập của cha mẹ học sinh đối với các em đôi khi rất hạn chế. Mặt khác một số bài toán có lời văn chưa phù hợp với đời sống. Qua thực tế giảng dạy ở trường Tiểu học Tất Thắng tôi nhận thấy học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 4 nói riêng giải toán còn yếu. Để giúp học sinh giải đúng giải nhanh các bài toán ở lớp 4 thì người giáo viên cần phải làm gì? Làm như thế nào? Đó là lý do để tôi lựa chọn, nghiên cứu và tìm ra kinh nghiệm về: "Một số biện pháp dạy giải toán có lời văn ở lớp 4" Dạng bài "Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó" PHẦN II GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. 1. Cơ sở lí luận của vấn đề Toán học có vị trí rất quan trọng phù hợp với cuộc sống thực tiễn đó cũng là công cụ cần thiết cho các môn học khác và để giúp học sinh nhận thức thế giới xung quanh, để học tập có hiệu quả trong thực tiễn. Khả năng giáo dục nhiều mặt của môn Toán rất to lớn, nó có khả năng phát triển tư duy lôgic, phát triển trí tuệ. Nó có vai trò to lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩa, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề có suy luận, có khoa học toàn diện, chính xác, có nhiều tác dụng phát triển trí thông minh, tư duy độc lập sáng tạo, linh hoạt... góp phần giáo dục ý trí nhẫn nại, ý trí vượt khó khăn. Từ vị trí và nhiệm vụ vô cùng quan trọng của môn Toán vấn đề đặt ra cho người dạy là làm thế nào để giờ dạy - học toán có hiệu quả cao, học sinh được phát triển tính tích cực, chủ động sáng tạo trong việc chiếm lĩnh kiến thức toán học. Vậy giáo viên phải có phương pháp dạy học như thế nào? Để truyền đạt kiến thức và khả năng học bộ môn này tới học sinh tiểu học. Theo tôi các phương pháp dạy học bao giờ cũng phải xuất phát từ vị trí mục đích và nhiệm vụ mục tiêu giáo dục của môn Toán ở bài học nói chung và trong giờ dạy toán lớp 4 nói riêng. Nó không phải là cách thức truyền thụ kiến thức toán học, rèn kỹ năng giải toán mà là phương tiện tinh vi để tổ chức hoạt động nhận thức tích cực, độc lập và giáo dục phong cách làm việc một cách khoa học, hiệu quả cho học sinh tức là dạy cách học. Vì vậy giáo viên phải đổi mới phương pháp và các hình thức dạy học để nâng cao hiệu quả dạy - học. Từ đặc điểm tâm sinh lý học sinh tiểu học là dễ nhớ nhưng mau quên sự tập trung chú ý trong giờ học toán chưa cao, trí nhớ chưa bền vững thích học nhưng chóng chán. Vì vậy, giáo viên phải làm thế nào để khắc sâu kiến thức cho học sinh và tạo ra tâm thế sẵn sàng học tập, chủ động tích cực trong việc tiếp thu kiến thức. Xuất phát từ cuộc sống hiện tại. Đổi mới của nền kinh tế, xã hội, văn hoá, thông tin... đòi hỏi con người phải có bản lĩnh dám nghĩ dám làm năng động chủ động sáng tạo có khả năng để giải quyết vấn đề. Để đáp ứng các yêu cầu trên trong giảng dạy nói chung, trong dạy học Toán nói riêng cần phải vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học để nâng cao hiệu quả dạy - học. Hiện nay toàn ngành Giáo dục nói chung và giáo dục Tiểu học nói riêng đang thực hiện yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tính cực của học sinh làm cho hoạt động dạy trên lớp "nhẹ nhàng, tự nhiên, hiệu quả". Để đạt được yêu cầu đó giáo viên phải có phương pháp và hình thức tổ chức dạy học để nâng cao hiệu quả cho học sinh, vừa phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của lứa tuổi tiểu học và trình độ nhận thức của học sinh. Để đáp ứng với công cuộc đổi mới đất nước nói chung và của ngành giáo dục tiểu học nói riêng. Trong chương trình môn Toán tiểu học, giải toán có lời văn giữ một vai trò quan trọng. Thông qua việc giải toán các em thấy được nhiều khái niệm toán học. Như các số, các phép tính, các đại lượng, các yếu tố hình học... đều có nguồn gốc trong cuộc sống hiện thực, trong thực tiễn hoạt động của con người, thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các sự kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm. Qua việc giải toán đã rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những đức tính của con người mới. Có ý thức vượt khó khăn, đức tính cẩn thận, làm việc có kế hoạch, thói quen xét đoán có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo, giúp học sinh vận dụng các kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán, kĩ năng ngôn ngữ. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm, thiếu sót của các em về kiến thức, kĩ năng, tư duy để giúp các em phát huy những mặt đạt được và khắc phục những thiếu sót. Chính vì vậy việc đổi mới phương pháp dạy toán có lời văn ở cấp Tiểu học chung và lớp 4 nói riêng là một việc rất cần thiết mà mỗi giáo viên tiểu học cần phải nâng cao chất lượng học toán cho học sinh. 2. Thực trạng của vấn đề: - Qua giảng dạy tôi thấy: Môn Toán là môn học khó khăn, học sinh dễ chán. Trình độ nhận thức học sinh không đồng đều. Một số học sinh còn chậm, nhút nhát, kĩ năng tóm tắt bài toán còn hạn chế, chưa có thói quen đọc và tìm hiểu kĩ bài toán dẫn tới thường nhầm lẫn giữa các dạng toán, lựa chọn phép tính còn sai, chưa bám sát vào yêu cầu bài toán để tìm lời giải thích hợp với các phép tính. Kĩ năng tính nhẩm với các phép tính (hàng ngang) và kĩ năng thực hành diễn đạt bằng lời còn hạn chế. Một số em tiếp thu bài một cách thụ động, ghi nhớ bài máy móc nên còn chóng quên các dạng bài toán vì thế dẫn đến học sinh còn nhiều hạn chế trong học tập toán đặc biệt là giải toán có lời văn . Vì vậy mà qua khảo sát chất lượng đầu năm vào thời điểm tháng 2/2012 (năm học 2011 - 2012) về giải bài toán có lời văn: Tổng số 16 học sinh của lớp 4A đạt kết quả như sau: Tóm tắt bài toán Chọn và thực hiện đúng phép tính Lời giải và đáp số Đạt Chưa đạt Đúng Sai Đúng Sai 7 = 43,75% 9 = 56,25% 11 = 68,75% 5 = 31,25% 5 = 31,25% 11 = 68,75% Qua kết quả khảo sát cho thấy kĩ năng giải các bài toán có lời văn của các em còn rất nhiều hạn chế. Chính vì thực trạng này đặt ra cho mỗi người giáo viên lớp 4 chúng tôi là dạy giải toán có lời văn như thế nào để nâng cao chất lượng dạy - học. */ Nguyên nhân của thực trạng trên: Ngay từ đầu cấp các em đã gặp dạng toán này nhưng hầu hết là do giáo viên vẽ tóm tắt sơ đồ lên bảng và hướng dẫn học sinh giải toán mà không yêu cầu học sinh tự vẽ, đến cuối lớp 3 học sinh được làm quen với việc vẽ sơ đồ đoạn thẳng để tóm tắt bài toán nhưng chỉ ở mức độ đơn giản và đến lớp 4 toán phức tạp và đa dạng hơn giáo viên không quan tâm hướng dẫn dể học sinh tự tóm tắt đề thì các em rất khó hình dung ra bài toán cho biết gi? Cách giải ra sao? Dẫn đến học sinh giải toán còn sai. Mặt khác tư duy của các em còn hạn chế do đó, các em chưa biết phân tích đề toán để thiết lập mối quan hệ phụ thuộc giữa các đơn vị và các em chưa hiểu hết về câu từ, các thuật ngữ trong toán học dẫn đếc các em không thiết lập được sơ đồ đoạn thẳng để biểu thị bài toán. Đa số giáo viên đều tâm huyết với nghề, luôn tìm tòi, học hỏi để nâng cao tay nghề song vẫn còn một số giáo viên lên lớp chưa thực sự đầu tư thời gian thỏa đáng để nghiên cứu và tìm hiểu sách giáo khoa, sách tham khảo, việc vận dụng phương pháp lấy học sinh làm trung tâm giáo viên còn lúng túng chưa để học sinh tự phát hiện vấn đề, giải quyết vấn đề. Vì vậy, hiệu quả giờ dạy trên lớp chưa cao. Với những lí do trên tôi mạnh dạn chọn chuyên đề: "Một số biện pháp dạy giải toán có lời văn ở lớp 4" đi sâu nghiên cứu cách dạy dạng bài "Tìm hai số khi biết tổng và tỷ số của hai số đó" 3. Các biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề. 3.1. Giáo viên cần hiểu chắc nội dung, chương trình, sách giáo khoa. Bản thân nhận thấy rằng việc để "Đổi mới phương pháp dạy giải toán có lời văn ở lớp 4" đạt được kết quả tốt thì giáo viên phải nắm được nội dung chương trình dạy toán có lời văn ở tất cả các khối lớp. Từ đó mới có định hướng cách dạy cho mình sao cho có sự kế thừa và phát huy được hiệu quả của việc đổi mới phương pháp. */ Vị trí, vai trò của toán có lời văn trong chương trình Toán lớp 4. Toán có lời văn giữ một vị trí quan trọng trong chương trình toán 4: Góp phần hệ thống hoá về củng cố có kiến thức, kỹ năng về số tự nhiên, phân số, yếu tố hình học và 4 phép tính (+, - , , :) với các số đã học làm cơ sở để học tiếp ở lớp 5 và nó đặt nền móng cho quá trình đào tạo tiếp theo ở các cấp học cao hơn, nó hình thành kỹ năng tính toán, giúp học sinh nhận biết được những mối quan hệ về số lượng, hình dạng không gian của thế giới hiện thực, hình thành phát triển hứng thú học tập và năng lực phẩm chất trí tuệ của học sinh ngay từ góp phần phát triển trí thông minh, óc suy nghĩ độc lập, linh hoạt sáng tạo. Kế thừa giải toán ở lớp 1, 2, 3 mở rộng, phát triển nội dung giải toán phù hợp với sự phát triển nhận thức của học sinh lớp 4. */ Nội dung giải toán có lời văn ở lớp 4. Toán có lời văn giữ một vị trí đặc biệt trong chương trình toán 4 bao gồm các dạng toán điển hình: - Tìm số trung bình cộng ; Tìm 2 số khi biết tổng và hiệu của 2 số đó - Tìm 2 số khi biết tổng và tỉ số của 2 số đó - Tìm 2 số khi biết hiệu và tỉ số của 2 số đó. - Bài toán có nội dung hình học (chu vi, diện tích hình chữ nhật, hình vuông, hình thoi, hình bình hành) Nội dung giải toán được sắp xếp hợp lý đan xen với nội dung hình học (diện tích, chu vi hình vuông, hình chữ nhật...) và các đơn vị đo lường, đo diện tích nhằm đáp ứng với mục tiêu của chương trình toán 4. Ngoài ra nội dung các bài toán ở lớp 4 đã chú ý đến tính cập nhật, gắn liền với tình huống trong đời sống, gần gũi với trẻ, đã tăng cường tính giáo dục cho học sinh. */ Mục tiêu dạy giải toán có lời văn ở lớp 4. - Học sinh biết giải các bài toán hợp không quá 4 bước tính liên quan đến các dạng toán điển hình. - Biết trình bày bài giải đầy đủ gồm các câu lời giải (mỗi phép tính đều có lời văn) và đáp số theo đúng yêu cầu của bài toán. - Đối với học sinh khá giỏi phải tìm được nhiều cách giải một bài toán nếu có. */ Yêu cầu dạy giải toán có lời văn lớp 4. */ Yêu cầu 1: Học sinh phải tham gia vào các hoạt động học tập một cách tích cực, hứng thú, tự nhiên và tự tin. Trách nhiệm của học sinh là phát hiện, chiếm lĩnh và vận dụng. */ Yêu cầu 2: Giáo viên phải lập kế hoạch, tổ chức hướng dẫn nhẹ nhàng, hợp tác giúp học sinh phát triển năng lực cá nhân của học sinh. Giáo viên và học sinh ảnh hưởng nhau, thích nghi và hỗ trợ nhau. */ Yêu cầu 3: Tạo điều kiện để học sinh hứng thú, tự tin trong học tập. 3.2. Tự học tập và nghiên cứu để nắm vững được tác dụng cũng như việc tiến hành đổi mới phương pháp giảng dạy. Tôi thấy đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy giải toán nói riêng là nhằm tìm ra đựơc phương pháp logic cho từng nội dung của từng môn, từng bài để nhằm đạt được chất lượng cao nhất trong giảng dạy. Đổi mới phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay chính là để phát hiện, lựa chọn phương pháp cụ thể phù hợp với quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm và phù hợp với nội dung giáo dục cụ thể. Vì vậy bản thân tôi thường xuyên thăm lớp dự giờ của đồng nghiệp để học tập và xây dựng thống nhất cách thực hiện phương pháp đổi mới giảng dạy cho tất cả các môn học cho phù hợp để tìm ra con đường chuyển tải kiến thức tới học sinh một cách nhanh nhất, ngắn gọn nhất. Cần nghiên cứu, tìm hiểu để nắm được yêu câu của việc dạy toán nói chung và loại giải toán: "Tìm 2 số khi biết tổng và tỉ số của 2 số đó" nói riêng. Đồng thời nắm được những thiếu sót của học sinh trong giải toán có lời văn. 3.3. Chuẩn bị cho giờ dạy theo phương pháp đổi mới. Để có được giờ dạy giải toán theo phương pháp đổi mới đạt kết quả tốt, phát huy được tính tích cực của học sinh thì giáo viên phải có thiết kế cụ thể rõ ràng, nó sẽ quyết định lớn đến chất lượng giờ dạy và đồng thời giáo viên cũng là người tổ chức, hướng dẫn thiết kế cho từng học sinh. Mọi học sinh đều chủ động học tập và phát triển cao nhất, chính vì lẽ đó cả 2 đối tượng thầy và trò đều phải có sự chuẩn bị chu đáo. * Sự chuẩn bị của giáo viên: Trước khi dạy bất cứ một dạng toán nào, trong tổ chúng tôi đều thống nhất là dành thời gian kĩ lưỡng về tất cả các bài tập của dạng toán đó, từ bài giảng đến bài luyện, từ bài trong sách giáo khoa đến bài trong vở bài tập để thấy được phương pháp giảng dạy phù hợp, ngắn gọn, học sinh dễ tiếp thu, giáo viên nói ít và chọn được những bài thêm để nâng cao kiến thức đối với đối tượng học sinh khá, giỏi dạy vào buổi 2 trong ngày. Đồng thời cũng lường trước được chỗ học sinh hay vướng mắc trong khi thực hành giải loại toán đó mà giáo viên lưu ý trong giảng dạy. - Khi dạy loại: "Bài toán tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó", học sinh thường mắc ở dạng tỉ số là phân số nên giáo viên dạy cần lưu ý nhấn mạnh để học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Từ mối quan hệ tỉ số là hai số trong bài giáo viên hướng dẫn học sinh tìm ra sự biểu diễn trên sơ đồ tóm tắt bài toán. Đây là loại toán giải khó đối với học sinh lớp 4 nên giáo viên cần giúp học sinh: + Xác định được tổng, tỉ số đã cho. + Xác định được hai số phải tìm là số nào? Từ đó hướng tới phương pháp giải chung là (phương pháp giải bài toán): Tìm tổng số phần bằng nhau Tìm giá trị của một phần bằng cách lấy tổng của hai số chia cho tổng số phần bằng nhau, rồi dựa vào mối quan hệ giữa tỉ số của hai số mà tìm ra giá trị của mỗi số phải tìm. Trên cơ sở đó học sinh sẽ nắm được cách giải đặc trưng của dạng toán này. Để củng cố được kiến thức và kĩ năng, tôi cho các em tự đặt đề toán theo dạng toán đó đồng thời chọn các bài toán nâng cao cho học sinh khá, giỏi (áp dụng vào tiết luyện tập hay buổi dạy riêng biệt đối với học sinh khá, giỏi). Tất cả sự chuẩn bị trên của giáo viên đều được thể hiện cụ thể trên bài soạn đủ các bước, đủ các yêu cầu và thể hiện được công việc của thầy và trò trong giờ dạy toán. *. Sự chuẩn bị của học sinh: Đối với học sinh đã đạt được giáo dục và bồi dưỡng ý thức thích học toán, có thú vị, hào hứng trong hoạt động học toán, có phương pháp học bộ môn toán, có thao tác về giải toán phải có đầy đủ các dụng cụ học toán và chuẩn bị đầy đủ cho phù hợp với từng tiết học. Đối với học sinh khá, giỏi trong những buổi bồi dưỡng riêng biệt cần có thêm sách tham khảo về luyện giải, sách nâng cao... Song không thể thiếu được những kiến thức về toán học có hệ thống logic từ lớp dưới, từ bài học trước phải chắc chắn làm cơ sở, nền tảng giúp học sinh tự tin trong hoạt động thực hành, trong việc tiếp thu kiến thức. Khi học giải toán về "Bài toán tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó" thì các em đã được học bài trước là "Tỉ số"... Chính vì sự liên quan hệ thống giữa kiến thức đã học với kiến thức mới nên học sinh phải làm hết và đầy đủ các bài tập, học thuộc các quy tắc, công thức toán. Để học sinh có thói quen học bài, làm bài đầy đủ tôi đã thống nhất với giáo viên trong tổ là bố trí mỗi bàn có một bàn trưởng là học sinh khá toán, thường xuyên kiểm tra bài học, bài làm ở nhà của các bạn trong bàn vào giờ ôn bài, soát bài và chỉ ra chỗ đúng sai trong bài tập của bạn giúp bạn cùng tiến bộ (xây dựng đôi bạn cùng tiến...) 3.4. Quy trình thực hiện giải toán có lời văn. - Giải toán đối với học sinh là một hoạt động trí tuệ khó khăn, phức tạp. Việc hình thành kỹ năng giải toán hơn nhiều so với kĩ năng tính vì bài toán giải là sự kết hợp đa dạng hoá nhiều khái niệm quan hệ toán học, ....chính vì vậy đặc trưng đó mà giáo viên cần phải hướng dẫn cho học sinh có được thao tác chung trong quá trình giải toán sau: Bước 1: Đọc kỹ đề bài: Có đọc kỹ đề bài học sinh mới tập trung suy nghĩ về ý nghĩa nội dung của bài toán và đặc biệt chú ý đến câu hỏi bài toán. Chúng tôi có rèn cho học sinh thói quen chưa hiểu đề toán thì chưa tìm cách giải. Khi giải bài toán ít nhất đọc từ 2 đến 3 lần. Bước 2: Phân tích tóm tắt đề toán. Để biết bài toán cho biết gì? Hỏi gì? (tức là yêu cầu gì?) Đây chính là trình bày lại một cách ngắn gọn, cô đọng phần đã cho và phần phải tìm của bài toán để làm rõ nổi bật trọng tâm, thể hiện bản chất toán học của bài toán, được thể hiện dưới dạng câu văn ngắn gọn hoặc dưới dạng các sơ đồ đoạn thẳng. Bước 3: Tìm cách giải bài toán: Thiết lập trình tự giải, lựa chọn phép tính thích hợp. Bước 4: Trình bày bài giải: Trình bày lời giải (nói - viết) phép tính tương ứng, đáp số, kiểm tra lời giải (giải xong bài toán cần thử xem đáp số tìm được có trả lời đúng câu hỏi của bài toán, có phù hợp với các điều kiện của bài toán không? (trong một số trường hợp nên thử xem có cách giải khác gọn hơn, hay hơn không? * Phương pháp dạy dạng bài toán: "Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó" Đối với dạng toán này thì có các dạng bài nổi bật sau: Dạng bài tỉ số của hai số là một số tự nhiên (có nghĩa là so sánh giá trị của số lớn với giá trị của số bé). * Ví dụ 1: Có 45 tấn thóc chứa trong hai kho. Kho lớn chứa gấp 4 lần kho nhỏ. Hỏi số thóc chứa trong mỗi kho là bao nhiêu tấn? Bước 1: 2 Học sinh đọc to đề toán (cả lớp đọc thầm theo bạn và gạch chân bằng bút chì dưới từ gấp 4 lần) Bước 2: Phân tích - tóm tắt bài toán. Cho học sinh phân tích bài toán bằng 3 câu hỏi: 1. Bài toán cho biết gì? (tổng số thóc ở hai kho là 45 tấn. Kho lớn gấp 4 lần kho nhỏ) "tỷ số của bài toán chính là điều kiện của bài toán". 2. Bài toán hỏi gì? (số thóc ở mỗi kho) "tức là số thóc ở kho nhỏ và số thóc ở kho lớn". 3. Bài toán thuộc dạng toán gì? (bài toán tìm hai số khi biết tổng và tỷ số của hai số đó) Từ cách trả lời trên học sinh sẽ biết cách vẽ sơ đồ tóm tắt bài toán, thiết lập được mối quan hệ giữa cái đã cho trong bài bằng ngôn ngữ toán học ghi kí hiệu ngắn gọn bằng cách ghi tóm tắt đề toán. Đối với dạng toán này, thì học sinh chủ yếu phải minh hoạ bằng sơ đồ hình vẽ, tức là biểu thị một cách trực quan các mối quan hệ giữa các đại lượng của bài toán 45 tấn ? tấn ? tấn Tóm tắt: Kho nhỏ: Kho lớn: Bước 3: Tìm cách giải bài toán: Trình bày bài giải: Dựa vào kế hoạch giải bài toán ở trên mà học sinh sẽ tiến hành giải như sau: Tổng số phần bằng nhau là: 1 + 4 = 5 (phần) Số thóc ở kho nhỏ là: 45 : 5 = 9 (tấn) Số thóc ở kho lớn là: 9 x 4 = 36 (tấn) (Hoặc: Tổng số thóc - kho nhỏ = số thóc kho lớn) [ 45 - 9 = 36 (tấn)] * Thử lại: Là quá trình kiểm tra việc thực hiện phép tính độ chính xác của quá trình lập luận. 9 + 36 = 45 (tấn) tổng số thóc. Hay có thể 36 : 9 = 4 (lần) tỉ số Qua các thao tác giải trên tôi đã hình thành dần dần cách giải toán cho học sinh trong các giờ dạy toán dưới sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên đối với tất cả các dạng bài. Từ phương pháp dạy như trên giáo viên có thể áp dụng với tất cả những loại bài như sau: * Tương tực đối với dạng "Bài toán tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó". Với tỉ số là một phân số (tức là so sánh giá trị của số bé với giá trị của số lớn). * Ví dụ 2: Mẹ mua 20 kg gạo trong đó khối lượng gạo nếp bằng khối lượng gạo tẻ. Tính số kg gạo mỗi loại? cho ta biết: Nếu gạo tẻ được chia làm 3 phần bằng nhau thì số gạo nếp sẽ chiếm 2 phần và học sinh tóm tắt như sau: ? kg 20 kg ? kg Số gạo tẻ: Số gạo nếp: * Ví dụ 3: Lớp 4E nhận chăm sóc 180 cây trồng ở ba khu vực. Số cây ở khu vực hai gấp 2 lần số cây ở khu vực một, số cây ở khu vực một bằng số cây ở khu vực ba. Tính số cây ở mỗi khu vực. ? c©y Đối với bài tập này thì giáo viên sẽ hướng dẫn gợi ý học sinh dựa vào mối quan hệ giữa các tỉ số của 3 số đó trong bài để biểu diễn trên sơ đồ tóm tắt bài toán. 180 c©y ? c©y ? c©y Số cây ở khu vực I: Số cây ở khu vực II: Số cây ở khu vực III: Bài tập này học sinh sẽ tiến hành làm tương tực như "Bài toán tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số" Nhìn vào sơ đồ tóm tắt học sinh sẽ tìm ra cách giải và giải bài toán * Ở dạng toán "Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó" còn ở dưới dạng ẩn: * Ví dụ 4: Một hình chữ nhật có P = 270m. Số đo chiều rộng bằng số đo chiều dài. Tính diện tích hình chữ nhật đó. (Giáo viên hướng dẫn học sinh bằng hệ thống câu hỏi gợi ý để học sinh tìm ra cách giải và giải bài toán) Đối với ví dụ này là sự kết hợp với các yếu tố hình học, từ đó củng cố kiến thức nhiều mặt cho học sinh. Như vậy, dù bài toán "Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó" hay bất kì ở dạng toán nào thì đều quan trọng đối với học sinh là phải biết cách tóm tắt đề toán. Nhìn vào tóm tắt xác định đúng dạng toán để tìm chọn phép tính cho phù hợp và trình bày giải đúng. Tất cả những việc làm trên của giáo viên đều nhằm thực hiện tiết dạy giải toán theo phương pháp đổi mới và rèn kĩ năng cho học sinh khi giải bất kì loại toán nào các em cũng được vận dụng. 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm: Trong nhiều năm phương pháp dạy học của giáo viên nói chung và của các đồng chí trong tổ nhóm chúng tôi nói riêng còn nhiều hạn chế trong việc phát huy tiềm ẩn trong mỗi học sinh. Do vậy khắc phục yếu kém cho học sinh trong môn toán nói chung và việc giải toán có lời văn nói riêng chính là việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng thầy thiết kế, trò thi công, thầy chỉ giữ vai trò tổ chức điều khiển và hướng dẫn học sinh trong quá trình tìm ra tri thức mới. Trong quá trình tìm ra tri thức mới, học sinh thực hành và tự đúc kết ra kinh nghiệm cho bản thân. Với việc đổi mới phương pháp dạy toán có lời văn như trên tôi tự đánh giá, khẳng định đã đạt được kết quả như sau: Đối với giáo viên: Đã tự học tập và có kinh nghiệm trong dạy toán nói chung và trong việc dạy giải toán rói riêng, đồng thời giúp cho bản thân nâng cao được tay nghề và đã áp dụng được các phương pháp đổi mới cho tất cả các môn học khác. Đối với học sinh: Các em đã nắm chắc được từng dạng bài, biết cách tóm tắt, biết cách phân tích đề, lập kế hoạch giải, phân tích kiểm tra bài giải. Vì thế nên kết quả môn toán của các em có nhiều tiến bộ. Giờ học toán là giờ học sôi nổi nhất. Cụ thể kết quả khảo sát môn toán dạng bài "Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó" cuối năm học 2011 - 2012 là: Tóm tắt bài toán Chọn và thực hiện phép tính đúng Lời giải và đáp số Đạt Chưa đạt Đúng Sai Đúng Sai 12 = 75% 4 = 25% 11 = 68,75% 5 = 31,25% 10 = 62,5% 6 = 37,5% Như vậy rèn cho các em có phương pháp học tập là biện pháp tốt nhất của người làm công tác giáo dục. Đối với phụ huynh: Họ cũng nhận thức được rằng, để con em mình học giỏi, không chỉ phó mặc cho các thầy giáo, cô giáo và nhà trường. Mà chính họ phải là người luôn quan tâm, động viên các con em mình học tập tốt . Kết hợp trao đổi bàn bạc với giáo viên về học tập của con em mình ở nhà. Vì họ đã nhận thức được việc học được ở nhà giúp con em mình học tốt hơn. PHẦN III

File đính kèm:

  • docSKKN dep.doc
Giáo án liên quan