Phân tích bài Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu

1. Thời điểm sáng tác.

Truyện Mảnh trăng cuối rừng là một trong những tác phẩm Nguyễn Minh Châu viết vào thời kì đầu chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ở miền Bắc.

2. Xuất xứ.

Truyện ngắn “Mảnh trăng cuối rừng” được trích trong tập “những vùng trơi khác nhau” 1970.

3. Nội dung và chủ đề

Thông qua hình tượng nhân vật trung tâm là Nguyệt – một cô thanh niên xung phong – nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn thể hiện chủ nghĩa anh hùng cách mạng và khám phá vẻ đẹp của tâm hồn con người Việt Nam trong cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước. Đó là những con người có lòng tốt, có tình yêu chung thủy, có tinh thần dũng cảm, có đức hi sinh, có niềm tin vững chắc vào lí tưởng, vào sức mạnh của dân tộc. Nhà văn muốn khẳng định rằng trong cái thế giới đó cái cao cả, đẹp đẽ, trong lành hoàn toàn chiến thắng, lấn át mọi cái tàn bạo có tính hủy diệt của các thế lực độc ác.

4. Nhân vật Nguyệt:

Và vầng trăng, vầng trăng đất nước.

Vượt qua quầng lửa mọc lên cao

(Phạm Tiến Duật)

Giữa sắc đỏ thẳm và tàn khốc, và sắc xám xịt tối sầm của máu lửa, đạn bom, vầng trăng xanh ảo huyền, ngời sáng ấy vẫn mọc lên, vẫn xanh ngát một màu xanh mộng mơ, huyền thoại

Truyện ngắn “Mảnh trăng cuối rừng” của Nguyễn Minh Châu, một huyền thoại về vẻ đẹp con người trong mưa bom bão đạn, cũng chan hòa trong màu xanh như thế.

 

doc7 trang | Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 5736 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích bài Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MẢNH TRĂNG CUỐI RỪNG – NGUYỄN MINH CHÂU Thời điểm sáng tác. Truyện Mảnh trăng cuối rừng là một trong những tác phẩm Nguyễn Minh Châu viết vào thời kì đầu chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ở miền Bắc. Xuất xứ. Truyện ngắn “Mảnh trăng cuối rừng” được trích trong tập “những vùng trơi khác nhau” 1970. Nội dung và chủ đề Thông qua hình tượng nhân vật trung tâm là Nguyệt – một cô thanh niên xung phong – nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn thể hiện chủ nghĩa anh hùng cách mạng và khám phá vẻ đẹp của tâm hồn con người Việt Nam trong cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước. Đó là những con người có lòng tốt, có tình yêu chung thủy, có tinh thần dũng cảm, có đức hi sinh, có niềm tin vững chắc vào lí tưởng, vào sức mạnh của dân tộc. Nhà văn muốn khẳng định rằng trong cái thế giới đó cái cao cả, đẹp đẽ, trong lành hoàn toàn chiến thắng, lấn át mọi cái tàn bạo có tính hủy diệt của các thế lực độc ác. Nhân vật Nguyệt: Và vầng trăng, vầng trăng đất nước. Vượt qua quầng lửa mọc lên cao (Phạm Tiến Duật) Giữa sắc đỏ thẳm và tàn khốc, và sắc xám xịt tối sầm của máu lửa, đạn bom, vầng trăng xanh ảo huyền, ngời sáng ấy vẫn mọc lên, vẫn xanh ngát một màu xanh mộng mơ, huyền thoại… Truyện ngắn “Mảnh trăng cuối rừng” của Nguyễn Minh Châu, một huyền thoại về vẻ đẹp con người trong mưa bom bão đạn, cũng chan hòa trong màu xanh như thế. Vẻ đẹp lạ lùng của câu chuyện kết động trong hình ảnh Nguyệt, và hình như, cũng từ Nguyệt, vẻ ệp ấy tỏa lan, thấm đẫm khắp chiều rộng và chiều dài câu chuyện. Nguyệt xuất hiện trước mắt Lãm và người đọc đầu tiên là giọng nói, từ giọng nói, một giọng nói “trong lắm và tất bình tĩnh, cứng cỏi nữa là khác”, rồi hiện dần lên với “đôi gót chân hồng hồng sạch sẽ”, “một vẽ giản dị và mát mẻ như sương núi tỏa ra từ nét mặt, lời nói và tấm thân mảnh dẻ”, “chiếc áo xanh chít hông vừa khít, mái tóc dày tết thành hai dải”…Lúc cô xuất hiện cũng là lúc làn ánh sáng đầu tiên của câu chuyện lóe lên, để rồi bừng lên theo ánh trăng. Dường như chính vẻ đẹp của cô đã tỏa sáng cả không gian câu chuyện. Vẻ đẹp “giản dị và mát mẻ như sương núi” phản ánh một tâm hồn trong trẻo, hồn hậu, một làn ánh sáng xanh xanh dịu mát giữa cuộc chiến tranh trong thời kì gian nan khốc liệt nhất. Một khoảng khắc thời gian như ngừng trôi khi đôi mắt Lãm “choáng ngợp như vừa trông vào ảo ảnh. Trăng sáng soi vào thẳng gương mặt Nguyệt làm cho khuôn mặt tươi mát ngời lên vẻ đẹp lạ thường”. Khuôn mặt Nguyệt hay là vầng trăng, ánh trăng sáng hay là vẻ đẹp của Nguyệt đang bừng sáng? Trong một khoảnh khắc, không gian chiến tranh, lửa khói và bom đạn như biến mất, chỉ còn đây là lung linh một không gian huyền thoại, tràn trề ánh trăng và chan hòa ước mộng tình yêu, hạnh phúc…Nguyệt bỗng chốc hóa thân thành một ảo ảnh, bởi vẻ đẹp của cô hòa vào trong ánh trăng, như hiện thân của cái đẹp, của thanh bình, của tình yêu, hạnh phúc…giữa một cuộc chiến tranh tàn khốc, chông chênh giữa cái sống và cái chết của con người. Từ trong cuộc sống thanh bình bước vào đạn lửa chiến tranh, Nguyệt đã mang trọn vẹn vẻ đẹp của cuộc sống ấy vào làm dịu mát cả tuyến lửa. Là “một cô học sinh miền xuôi mới rời ghế nhà trường đi kiến thiết miền Tây”. Nguyệt đã hòa mình vào dòng chảy cuồn cuộn của trăm ngàn thanh niên Việt Nam lên đường theo tiếng gọi Tổ quốc và của khát vọng trong trái tim mình. Một Nguyệt mảnh mai dịu dàng, đẹp như một ảo ảnh dưới ánh trăng bỗng sáng thành một Nguyệt quyết liệt, can trường, quả cảm trong đạn bom, chớp lửa. Chính Lãm đã khâm phục kể lại: “nhanh và khỏe hết sức, Nguyệt đẩy tôi ngã vào giữa một vật gì rất cứng và sâu” “tôi cứ chạy và Nguyệt cứ nói rành rọt cứ như người đến bên cạnh”, “qua một quãng khó đi và tối quá, Nguyệt nhảy xuống đi dò trước…” dường như trong Nguyệt không chỉ có một vầng trăng êm dịu trong trẻo mà còn rạng ngời một vầng mặt trời nồng nhiệt lửa vị tha, quên mình hi sinh vì đồng đội. Để rồi, khi nhìn vết máu loang trên cánh tay áo xanh, trong lòng Lãm “dậy lên một tình yêu gần như mê muội lẫn cảm phục”. Trong đạn bom, khói lửa, vẻ đẹp Nguyệt càng bừng sáng với tất cả sắc màu, “đẹp lộng lẫy đầy ánh trăng, cô còn là ngọn đèn xanh soi đường cho Lãm, là ngọn đèn trước mắt dẫn xe Lãm vượt ngầm, làngọn đèn trong trái tim tỏa sáng thiết tha hạnh phúc… Song có lẽ vẻ đẹp kì diệu và tuyệt vời nhất ở Nguyệt là tình yêu thủy chung, là niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, là “sợi chỉ xanh óng ánh, bao nhiêu bom đạn dội xuống cũng không hề đứt, không thể nào tàn phá nổi”. Chỉ qua một lời mai mối trong thư, Nguyệt đã giữ trong trái tim hình ảnh của một người con trai chưa hề gặp mặt, chưa hề hứa hẹn một điều gì, Nguyệt đã vững lòng chờ đợi, tin tưởng, yêu thương…một mối tình đẹp, bền chặt và thơ mộng đến lạ lùng như không có thực, như huyền thoại nhưng cao cả biết chừng nào! Bởi tình yêu đó được ươm mầm trong tình yêu Tổ quốc, từ trong cái chung của lí tưởng, từ tình đồng đội, đồng chí…để rồi vươn lên, vững vàn xanh tươi trong bom đạn, máu lửa,mất mát, hi sinh… nhận chân được giá trị của tuổi trẻ và cuộc sống khi cất bước lên xây dựng miền tây, cô gái bé nhỏ ấy cũng đã nhận đúng được giá trị của tình yêu và hạnh phúc chân chính. Cô nhận ra, qua những lời mai mối của người chị, qua câu chuyện về Lãm, chân dung của tình yêu đích thực và cô đã đến với tình yêu bằng tất cả sự tự nguyện, tất cả trái tim trong sáng, vị tha, nhân hậu, trẻ trung của mình. Để rồi Lãm đã thốt lên: “hạnh phúc người con gái ấy đem đến cho tôi quá nhiều”…mà có lẽ, không chỉ có Lãm là người hạnh phúc. Đợi chờ trong một tình yêu cao đẹp như thế, chắc rằng chính Nguyệt cũng đã tự mang đến hạnh phúc cho mình, và đó là nguồn sức mạnh lớn để cô sống và chiến đấu giữa mưa bom bão đạn, để vầng trăng trong cô mãi lung linh, tươi mát, dịu dàng, mộng mơ… “Nguyệt là trăng…”nhưng trăng cũng là Nguyệt. Nếu lúc đầu, trăng trước mắt Lãm chỉ là một “vừng trăng khuyết mỏng mảnh”, thì khi gặp Nguyệt vầng trăng ấy bỗng chốc hóa thân thành vầng trăng tâm trạng, vầng trăng “tái ngắt, lòe nhòe”, “chặp chờn lay động, có lúc thấy rơi tỏm xuống mảng tối mịt mù của cánh rừng già như chơi một trò ú tim”…Và Nguyệt hòa vào trong ánh trăng, “từng sợi tóc của Nguyệt đều sáng lên”…và rồi “mảnh trăng cuối rừng” cũng hóa thân thành Nguyệt, ngời ngợi quanh Lãm một “gương mặt đẹp lộng lẫy đầy ánh trăng”… Tình yêu lớn lao trong đạn lửa, và cũng trong đạn lửa người ta mới hiểu hết được cái đẹp của tình yêu cái đẹp của nhau… vì tình yêu ấy mà Nguyệt và bao cô gái xung phong khác, trải qua chiến tranh phá hoại khốc liệt mà không hề cằn cỏi, chai sạn đi, không hề lạnh băng, vô cảm mà trái lại “càng ngoan ngoãn dũng cảm và xinh đẹp hơn”. Bom đạn có thể tàn phá rất nhiều, hủy hoại rất nhiều…chiếc áo xanh loang đỏ một vệt máu, chiếc cầu đá “xanh biếc và đẹp như một giấc mộng bị bom phá sập”, nhưng “mảnh trăng cuối rừng” kia vẫn xanh biếc mộng mơ, hi vọng giữa lòng đất nước và “sợi chỉ xanh óng ánh” kia vẫn chạy suốt trong lòng dân tộc…những vẻ đẹp thanh cao của đất nước và con người có bao giờ đạn bom tàn phá nổi? Chỉ là một “mảnh trăng cuối rừng” thôi, không phải là “vầng trăng vằng vặc giữa trời” – truyện Kiều, bởi lẽ, trong đạn lửa chiến tranh, Nguyệt và Lãm còn phải trải qua thật nhiều thử thách, và tình yêu giữa họ như một đóa hoa vừa chớm nở, e ấp dịu dàng biết bao! Vầng trăng xanh lấp ló cuối rừng xa, cách một chặng đường dài đợi chờ, gian nan vất vả…để đến một ngày rực sáng, tròn đầy “mảnh trăng cuối rừng”, thanh cao, trong trẻo và đẹp đến lạ lùng một bản tình ca khắc khoải, mộng mơ biếc xanh hi vọng giữa một thời đỏ máu và đen sầm chiến tranh của đất nước, một bản tình ca về vẻ đẹp con người – vẻ đẹp bất diệt của con người. Ba vầng trăng tâm hồn hiện lên trong bầu không khí trong veo đến “vô trùng” của câu chuyện, một cô Nguyệt hi sinh anh hùng, một chị chân chất, thẳng thắn và một cô Nguyệt trong sáng, dịu dàng, can trường và thiết tha yêu thương…một vầng trăng đã lặn, một trăng xế tà và một vầng trăng vừa lên, biêng biếc màu xanh tin tưởng, yêu thương…hứa hẹn một ngày mai tươi sáng. “Cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy…”. Lấp lánh suốt chiều dài câu chuyện là sắc xanh óng ánh của tình yêu. Lấp lánh suốt cuộc hành trình đi tìm hạnh phúc là sắc xanh của hi vọng, của niềm tin của tình yêu Tổ quốc. Hạnh phúc cực hơn mọi điều đã tả. Lại ngọt ngào kì lạ, lớn lao hơn (Việt Bằng) Người con gái ấy đẹp đến lạ lùng, lí tưởng đến tuyệt vời, nên vừa rất thực vừa như mơ, vừa quen thân mà cũng có vẻ xa vời. Những ai đã từng đi qua chiến tranh, đi qua tình yêu…cũng đều tìm thấy trong mình một Nguyệt, một Lãm, một bản tình ca tuyệt đẹp về “chất ngọc” của con người, một con đường đi đến “cõi hoàn thiện” – chữ của Nguyễn Minh Châu. Ai cũng cảm thấy thêm yêu đời, yêu đời và muốn sống đẹp hơn lên ước nguyện đó của một Nguyễn Minh Châu đã hóa thân thành ước nguyện trong mỗi con người… Trăng viên mãn cuối trời, đêm đêm em có nhớ. Mặt trăng từng khuất ở trong nhau (Hoàng Hữu) Nguyệt – cô gái mang vầng trăng trên khuôn mặt, trong tâm hồn – càng ngày càng đẹp lên trong mắt Lãm, trong tâm trí chúng ta. Tô điểm những vẻ đẹp cho nhân vật của mình, nhà văn đã thể hiện rõ chủ đề của “mảnh trăng cuối rừng” Nguyệt đại diện cho lớp tuổi trẻ hiến dâng xuân đời cho công cuộc xây dựng miền Bác và chống Mỹ, thống nhất đất nước. Yêu nước, đề cao Nguyệt chính là tác giả yeu mến, ca ngợi những con người đẹp của một thời chiến tranh khốc liệt. Họ sống rất lí tưởng và mang vẻ đẹp lí tưởng hết sức trong sáng. Khẳng định tình yêu là niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống có sức mạnh lớn lao, không bom đạn nào tàn phá nổi. Bom đạn giặc Mỹ có thể đánh gãy chiếc cầu đá xanh nhưng không làm đứt được sợi chỉ xanh óng ánh trong tâm hồn Nguyệt. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu để cho anh chiến sĩ lái xe Lãm hai lần nghĩ về Nguyệt, hai lần tự hỏi như thế này : “trong tâm hồn người con gái nhỏ bé, tình yêu và niềm tin mảnh liệt vào cuộc sống, cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy, bao nhiêu bom đạn dội xuống cũng không hề đứt, không thể nào tàn phá nổi ư ?” Toàn bộ câu chuyện đã trả lời câu hỏi ấy. Tình yêu và niềm tin mãnh liệt, cao cả của những người như Nguyệt đã chiến thắng sức phá hoại, hủy diệt bạo tàn. Phân tích tác phẩm Viết về chiến tranh, về những con ng làm nên chiến thắng, nếu chỉ lấy phạm trù thẩm mĩ “cái hùng” làm đại lộ thì k tránh được khuynh hướng giản đơn, 1 chiều, sơ lược. Ngay 1 tiếng đàn của nàng Kiều, đgiản vậy thôi mà cũng “nghe ra tiếng sắc tiếng vàng chen nhau”. Nói gì đến ch.tranh khi csống đã tự đào xới lên tận gốc với bnhiêu tình huống, cảnh ngộ, tâm trạng của con ng. Do tính chất k trực diện của đề tài, “Mảnh trăng cuối rừng” của Ng Minh Châu đã là 1 bổ sung, 1 khám phá về 1 phương diện khác. Ơû đó k phải k có tiếng ầm ầm “rung cả đường sá, núi non” của xe xích kéo pháo 57, âm thanh “ập đến như tiếng sét” của máy bay địch đánh tọa độ, những chiếc cầu bằng đá “xanh biếc và đẹp như 1 giấc mộng” chỉ 1 nháy mắt đã “bị cắt làm đôi như 1 nhát rìu phang rất ngọt”…ở đó còn có cả cái yên tĩnh, độ lắng sâu, những nỗi niềm lấp khuất hi vọng được nhóm lên bền bỉ, dẻo dai gần như tương ứng với sự khốc liệt, xô bồ, ngổn ngang của cuộc đời hiện ra trước mắt. Chỉ có điều : tất cả những cung bậc đa diện của đsống nội tâm ấy k tách rời, ngược lại in rất đậm dấu vết của chtranh. Cuộc gặp gỡ sự chờ đợi của một tyêu chẳng hạn. Trắc trở, mong manh, mơ hồ nhưng hình như là có thật, có thật mà cứ tưởng như một giấc chiêm bao. “Mảnh trăng cuối rừng” là hình ảnh khúc xạ từ những giấc chiêm bao ấy. Nhvật chính của câu ch là những nhvật đời thường, thậm chí rất quen thuộc của chtranh: anh bộ đội lái xe và những cô công nhân là đường vùng tuyến lửa. Chtranh là cái gạch nối cho họ gặp nhau, những cuộc gặp gỡ để nhớ để quên, k có gì đbiệt. Chính vì vậy, mặt dù xe mới đang lăn bánh nhìn về nơi mà mình sẽ đi đến, Lãm hình dung ngay được gặp gỡ “giữa đám các cô gái nghịch như quỉ sứ” ấy nó như thế nào, gặp anh, Nguyệt sẽ nói rất ít, còn “các cô bạn thì sẽ làm loạn lên”. Xong chẳng hề gì bởi “họ đều là những ng bạn của anh em lái xe, đều là những ng con dũng cảm, chân thực và mến khách”. Vậy cái hấp dẫn ng đọc là gì, nếu k phải là tình huống khá đbiệt: cuộc “trốn tìm” chưa 1 lần tới đích của một tyêu, 1 tyêu cũng là khác thường. Nó chỉ có thể xảy ra trong những cuộc chtranh. Yêu nhau mà chưa 1 lần gặp mặt cũng k 1 sự hẹn hò, thế mà vẫn chung thủy, chờ đợi nhau giữa muôn trùng cách trở. Tình huống đbiệt ấy tạo được 1 k khí, 1 dư vị rất giàu chất thơ. Chính cái bóng này, chứ k phải cái hình (cốt truyện) khoát lên được chiếc áo nhiều màu cho các sự kiện đầy chất ngẫu nhiên, đem đến cho ng đọc những liên tưởng, nhiều chiều, bất tạn. Câu chuyện được chính ng “trong cuộc” kể lại trong 1 chiếc lán giữa rừng, nó bập bùng nhóm lên như ngọn đèn dầu tâm tình, tâm sự. Nói với đồng đội trong trung đội lái xe mà cũng là nói với chính mình, nói như một độc thoại nội tâm. Cái riêng đã hòa nhập vao cái chung, do vậy có sự lan tỏa, đồng vọng ngân nga. Hiện tượngnày phổ biến trong chiến tranh, những ng sát cánh, xẻ chia cái sống, cái chết từng giờ. K có gì là sở hữu riêng. Ngay đến một bức thư giữa chốn rừng núi heo hút ấy, nó cũng “xem như của chung của mọi ng” nỗi buồn vui của bất kì ai cũng thuộc về tất cả. Vì vậy giữa ng kể chuyện và ng nghe chuyện, giữa kênh phát với kênh thu có cùng một tần số. Cái ăng ten giao cảm này tạo nên sự gắn kết giũa những con ng và đẩy câu ch cứ thế lăn đi trên cái mạch khi liên tục, lúc ngắt ngừng của nó… Hoàn toàn k phải là phung phí, dài lời khi tình huống vào tr là 2 nỗi bực nối tiếp nhau của ng lái xe có tên là Lãm ấy. Còn gì “sốt ruột” hon khi ng chờ xe là ng lái, nhất là ng lái đầy trách nhiệm, lại trong 1 hoàn cảnh khác thường: “giữa thời chiến, xe mình chỉ cần vượt lên thiên hạ nửa vành bánh, khi qua phà qua ngầm đã đủ nhàn”. Nhưng cái anh chờ là tiếng máy chiếc Gát quen thuộc của mình mãi chưa thấy dù đã “hết sức lắng tai nghe”, trong lúc những chiếc xe k đợi k chờ “cứ lao vun vút trước mặt như ngựa đua”. Đó là chưa kể chuyến xe này đã được hoạch định trong độ sít sao của nó. Chậm 1 phút là có thể đổ vỡ hoàn toàn k gì bù đắp nổi. Với dự định chạy sớm, giao hàng xong kịp quay về giấu xe ở rừng xăng lẻ, 1 địa điểm an toàn, Lãm sẽ ghé thăm chị ở khu vực gần cầu Đá Xanh. Cuộc thăm viếng k chỉ là đáp ứng ycầu 1 phía với lời phàn nàn vừa trách móc vừa thiết tha “đã hơn 3 năm chưa được gặp cậu Lãm đấy!”. Còn cái riêng của Lãm là gì,anh chưa nói, dù nó qtrọng k kém. “Nhưng dầu sao đó cũng chỉ là 1 việc riêng”. Gài vào câu ch 1 cách kín đáo những nỗi niềm như thế, đó là “cái duyên” của ng kể. Bởi nó tạo nên 1 tầng nghĩa thứ 2, 1 mạch ngầm, phía dưới những con sóng đều đều mặt nổi bên trên của những sự kiện. Đây là cái nút, 1 thứ nút bấm k phải lúc nào cũng có thể mở ra, vì nếu sớm mở ra, truyện k còn là tr nửa. Vừa hết cái bực dọc thứ nhất khi “đồng chí lái phụ đánh xe lên, từ dưới chân dốc, đã bóp còi inh ỏi như xe chữa cháy” cùng với lô hàng đã nhận và phiếu giao hàng có kí nhận hẳn hoi, lại nảy sinh 1 tình huống ngoài dự kiến. Anh chàng lái xe đã nháy mắt ranh mãnh và phát mạnh vào vai Lãm “1 cái đau điếng. Cái gì vậy?”. “Còn 1 cái nữa, cái này có nhưng mà k ghi trong phiếu”. Xe chỡ hàng quân sự mà cho ng đi nhờ là trái điều lệnh, “dù bất cứ trong hoàn cảnh nào”. Cho nên ng lái phụ trình bày dù có “hợp lí” đến đâu, Lãm vẫn giận cái hành vi “tự động vô nguyên tắc” ấy. Là 1 lái xe, anh lạ gì những cuộc gặp gỡ. Một “cảnh tượng quen mắt” hiện ra giữa 1 bên là “cái vẻ nũng nịu của 1 cô nàng ôm chiếc nón trắng đứng sát cửa xe”, còn 1 bên là “những câu hỏi ỡm ờ” của anh tài phụ “của tôi đang ngồi vắt vẻo trong buồng lái”. Lãm chán nản, xót xa : “thế lạ đủ tai họa cho tôi rồi! Tàn cho được câu ch ấy thì xe lên sớm làm sao được?”. Với 1 “việc đã rồi” như thế, mà chấp nhận thì ấm ức, vì anh là 1 kẻ đồng tình với việc làm trái ngtắc nói trên. “Giận cá” thì chỉ còn biết “chém thớt”. Sự “chẳng lấy làm ôn tồn” của Lãm khi lên tiếng hỏi, câu hỏi đầu tiên là “ai ngồi trong đó”, là lẽ thường. Và cũng là thường tình khi ng đi nhờ xe im lặng (chắc ng ấy đang phấp phỏng sợ tôi k cho đi nhờ – Lãm nghĩ). Nhưng bất ngờ đầu tiên, sau cái im lặng kia, với Lãm là câu trả lời của ng đi nhờ xe: k sợ sệt như Lãm đoán. Trong cái câu nói : “tôi đây…Tôi nhờ đồng chí lên câu Đá Xanh một tẹo”, anh “đoán chẳng sai” có 1 nửa. Cái nửa ấy là giọng nói của phụ nữ. Nửa còn lại kia mặc dù vẫn của cô gái đi nhờ xe đang phải nhờ vả vào anh, nhưng “tiếng nói trong lắm và rất bình tĩnh, cứng cỏi nữa là khác”. Cái sự “cứng cỏi” trong lối đáp sau đó đã thay đổi hẳn mối tương quan. Ng chủ động hỏi, hỏi trong tình thế chủ động đã chỉ còn ở trong tình thế bị động “vội nổ máy” cho xe đi vì trong bụng đang “phát hoảng lên vì cái cách con gái ăn nói đối đáp bạo dạn nhường ấy”. Mà k “phát hoảng” làm sao khi biết rõ ng ấy là đàn bà, nhưng khi gặng thì câu trả lời ngay tức khắc: “đàn ông”. Đặc trưng của phụ nữ là kín đáo chẳng hạn, thế mà khi được 1 chàng trai tò mò hỏi là đi thăm chồng hay ng yêu, lại k hề do dự 1 giây “em đi thăm ng yêu đấy”. Có thể nói, trước Lãm lúc này là 1 chân dung chưa toàn diện, nhưng đã sắc sảo hiện ra 1 “cái tôi” k dễ coi thường. Đó là 1 nhân cách. Cũng vẫn là nhân cách ấy nhưng 1 phía khác phía hoàn chỉnh hơn, Lãm sẽ nhận ra khi anh đã “thân mật” với cô gái hơn 1 chút với câu hỏi dịu dàng “cô làm ở ngầm Đá Xanh hay chỉ về đấy thăm ai?”. Cùng một lượng thông tin ngang nhau nhưng do mức độ cảm thông và hiểu biết được tăng cường, đã vừa đủ để xuất hiện trên khuôn mặt sáng sủa của cô gái “một nét e thẹn”, k còn đáng sợ mà là đáng yêu. Như thế là 1 hoạt cảnh đơn sơ mà sinh động, rất “thời chiến” đã diễn ra và đột ngột dừng lại ở cái chi tiết có phần bộc phát, quá đà để định hình 1 chân dung chưa hoàn thiện, chưa hoàn thiện nhưng đã lung linh. Câu trả lời của cô ta, với Lãm vẫn còn là lơ lững, cái câu “em đi thăm ng yêu đấy”. Thật hay đùa? “biết đâu đấy, biết đâu cô ta nói thật?”. Sự dừng lại ấy giống như việc hãm phanh nhưng k phải để vượt một chướng ngại vật nào mà chiếc xe quân sự của anh cần phải vượt qua nó chỉ nhằm tiếp thêm nhiên liệu cho cuộc hành trình. Ơû đây, về hình thức, nó như đường dây liên hệ tưởng là rời rạc mà kì thực lại gắn bó hữu cơ. Để từ đó, mọi chi tiết – từ ngôn ngữ đến cử chỉ của nhân vật trong tầm quan sát của ng lái xe k còn đơn nghĩa. Chẳng hạn sau này, trước câu hỏi làm như thuận miệng vô tình của Lãm “à quên, tôi chưa kịp hỏi tên cô đấy nhé” và câu trả lời rụt rè của ng đi nhờ xe “em là …Nguyệt!”, ng kể chuyện và ng nghe chuyện tự chấp nối những liên tưởng, những giả định của mình. Vì cả hai đối tượng đã có được 1 thông báo tiên đề : 1 cô Nguyệt trong bức thư của chị Tính. Cô Nguyệt trong thư dịu dàng và xinh đẹp như được tỏa ra từ rạng ngời 1 sắc trăng đêm, còn cô Nguyệt trong đời thực lúc này, trước mắt Lãm, dù được nhìn qua “ánh đèn tù mù” khi thì của bóng đèn gầm hắt xuống, khi của đoàn xe xích “lao đi ầm ầm bên cạnh”, vẫn là 1 cái gì khó trộn lẫn. Đó là “một vẻ đẹp giản dị và mát mẻ như sương núi tỏa ra từ nét mặt, lời nói và tấm thân mảnh dẻ”. K hiểu vì sao, cô Nguyệt lúc này vẫn là dáng điệu ấy, chiếc áo màu xanh và chiếc nón khoác tay như mọi cô gái đi nhờ xe khác mà Lãm nhắm mắt lại cũng hiện rõ ra mồn một, lại k giống bất cứ một ai. Ngoài thân hình mảnh dẻ “khác hẳn với nhiều cô gái công trường, thường cô nào cũng thấp và đẩy đà”, Nguyệt còn có những nét riêng và…nét nào cũng duyên dáng dù kín đáo chứ k lòe loẹt phô trương. Cũng là cái áo chít hông nhưng “vừa khít”, còn cái làn, cái nón cũng khoác ở cánh tay nhưng k gượng gạo mà “nhẹ nhàng” thanh thoát, tự nhiên… Như vậy, sự trùng hợp đến là vô lí đã xảy ra. Cuộc đời sao lại trớ trêu làm vậy ! cô gái đang đợi chờ anh là Nguyệt. Vậy cô Nguyệt ngồi đây có phải là nỗi chờ đợi đó k ? Với băn khoăn k dễ giải đáp mặc dù trong thâm tâm Lãm “phải tìm cho ra ngọn nguồn lạch sông”, cô gái đi nhờ xe mang vẻ đẹp lấp lánh 2 chiều thực và mộng, để làm cho ng chiến sĩ lái xe k thể nào còn dửng dưng được nữa. Phản ứng của Lãm mặc dù có vẻ hờ hững “như k” nhưng sự mời mọc vồn vả thì đã ân cần k chỉ ở giọng nói. Cùng với cánh tay mở rộng cửa buồng lái, còn là cái nhìn k thể nói là vô tâm khi anh “vội đưa mắt ngắm cô gái 1 lần nữa thật kĩ lưỡng”. Rồi khi cô gái tênlà Nguyệt ấy đã ngồi vào cái chỗ đbiệt mà cả 1 đời lái xe của Lãm chưa bgiờ anh “mời một cô gái ngồi trong buồng lái”, những câu hỏi của anh đã k dừng được nữa. Cả 1 hệ thống câu hỏi về những cô Nguyệt ở đơn vị làm đường…đã làm cho chính người được hỏi phải ngạc nhiên: “sao anh hỏi tỉ mỉ vậy?”. Nói cho đúng thì đó là cuộc thăm dò. Mà điều ấy đâu chỉ có riêng anh? Với tư cách là ng quan sát, Lãm k đọc được tâm trạng của Nguyệt, nhưng chắc chắn về phía ng đọc chta, Nguyệt k thể k có thoáng chốc phân vân. Vì ng cô yêu cũng là lính lái xe, cậu em trai mà chị Tính “nói thẳng ý định” của chị ấy nhiều lần, trong những lần ấy Nguyệt chỉ biết im lặng và “đỏ mặt bừng lên” cũng đi trên tuyến đường này, và hnay mình vừa ra đi từ cái nơi hẹn gặp ng ấy…chỉ có điều khác là dù có băn khoăn đến đâu, Nguyệt cũng k dễ dò hỏi như Lãm. Nếu có, nó cũng k thể vội vàng, chỉ như 1 cái gì ẩn hiện mà thôi. Cho nên ý mới ẩn sau lời nói, trốn chạy trong trọng âm, ngữ điệu “anh nhỉ ? có phải k nhỉ ?”. rõ ràng là 1 câu hỏi, nhưng hỏi về cái gì thì Lãm lại k nghe được ng nghe k nghe được nhưng ng hỏi lại tha thiết thế kia ? đến nỗi ng lái xe phải hỏi lại ng hỏi. Câu trả lời của Nguyệt có lẽ qua được cái giây bối rối khi cất tiếng hỏi đầu tiên, chỉ còn êm đềm như 1 dòng suối chảy. Nguyệt và Lãm là 2 nhvật

File đính kèm:

  • docmtcrung.doc
Giáo án liên quan