Tiếng việt của Lưu Quang Vũ - Bài thơ xứng đáng có mặt trong chương trình Ngữ văn phổ thông

Ai đã được tiếp xúc với “Tiếng Việt” của Lưu Quang Vũ dù chỉ một lần đều không dễ quên. Bài thơ được rất nhiều người yêu mến thuộc lòng

Tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói xẫm

Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về

Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm

Nghe xạc xào gió thổi giữa cau tre.

Tiếng kéo gỗ nhọc nhằn trên bãi nắng

Tiếng gọi đò sông vắng bến lau khuya

Tiếng lụa xé đau lòng thoi sợi trắng

Tiếng dập dồn nước lũ xoáy chân đê.

Tiếng cha dặn khi vun cành nhóm lửa

Khi hun thuyền gieo mạ lúc đưa nôi

Tiếng mưa dội ào ào trên mái cọ

 

doc5 trang | Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 3756 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiếng việt của Lưu Quang Vũ - Bài thơ xứng đáng có mặt trong chương trình Ngữ văn phổ thông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIẾNG VIỆT CỦA LƯU QUANG VŨ-BÀI THƠ XỨNG ĐÁNG CÓ MẶT TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN PHỔ THÔNG Published on 10/04,2008 Ai đã được tiếp xúc với “Tiếng Việt” của Lưu Quang Vũ dù chỉ một lần đều không dễ quên. Bài thơ được rất nhiều người yêu mến thuộc lòng…   Tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói xẫm  Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm Nghe xạc xào gió thổi giữa cau tre.    Tiếng kéo gỗ nhọc nhằn trên bãi nắng Tiếng gọi đò sông vắng bến lau khuya Tiếng lụa xé đau lòng thoi sợi trắng Tiếng dập dồn nước lũ xoáy chân đê. Tiếng cha dặn khi vun cành nhóm lửa Khi hun thuyền gieo mạ lúc đưa nôi Tiếng mưa dội ào ào trên mái cọ Nón ai xa thăm thẳm ở bên trời... "Đá cheo leo trâu trèo trâu trượt..." Đi mòn đàng dứt cỏ đợi người thương Đây muối mặn gừng cay lòng khế xót Ta như chim trong tiếng Việt như rừng. Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ  Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa Óng tre ngà và mềm mại như tơ.  Tiếng tha thiết, nói thường nghe như hát Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh Như gió nước không thể nào nắm bắt Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh.        Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy Một tiếng "vườn" rợp bóng lá cành vươn Nghe mát lịm ở đầu môi tiếng "suối" Tiếng "heo may" gợi nhớ những con đường. Một đảo nhỏ xa xôi ngoài biển rộng Vẫn tiếng "làng", tiếng "nước" của riêng ta Tiếng chẳng mất khi Loa thành đã mất Nàng Mị Châu quì gối lạy cha già.       Tiếng thao thức lòng trai ôm ngọc sáng Dưới cát vùi sóng dập chẳng hề nguôi Tiếng tủi cực kẻ ăn cầu ngủ quán Thành Nguyễn Du vằng vặc nỗi thương đời. Trái đất rộng giàu sang bao thứ tiếng Cao quí thâm trầm rực rỡ vui tươi Tiếng Việt rung rinh nhịp đập trái tim người Như tiếng sáo như dây đàn máu nhỏ. Buồm lộng sóng xô, mai về trúc nhớ Phá cũi lồng vời vợi cánh chim bay Tiếng nghẹn ngào như đời mẹ đắng cay Tiếng trong trẻo như hồn dân tộc Việt. Mỗi sớm dậy nghe bốn bể thân thiết Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi Như vị muối chung lòng biển mặn Như dòng sông thương mến chảy muôn đời. Ai thuở trước nói những lời  thứ nhất Còn thô sơ như mảnh đá thay rìu Điều anh nói hôm nay, chiều sẽ tắt Ai người sau nói tiếp những lời yêu? Ai phiêu bạt nơi chân trời góc bể Có gọi thầm tiếng Việt giữa đêm khuya? Ai ở phía bên kia cầm súng khác Cùng tôi trong tiếng Việt quay về. Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ Quên nỗi mình quên áo mặc cơm ăn Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá        Tiếng Việt ơi tiếng Việt ân tình...         (Lưu Quang Vũ-Thơ và Đời. NXB Văn hoá-Thông tin. H.1999.tr.322-325).           Bên cạnh việc sử dụng tiếng Việt để sáng tạo nên những tác phẩm văn hoá, văn học bất hủ, các nghệ sĩ của chúng ta luôn đến với tiếng nói của dân tộc như một nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn. "Họ (các nhà thơ mới-TQĐ) yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt" (Hoài Thanh). Có lẽ mọi nghệ sĩ đều có tình cảm tương tự đối với tiếng Việt. Đã có nhiều tác phẩm hay viết về tiếng Việt nhưng có một sáng tác đã đem lại cho tôi nhiều điều mới mẻ và xúc động nhất là bài thơ "Tiếng Việt" của nhà thơ, nhà viết kịch tài hoa bạc mệnh Lưu Quang Vũ.                                                                                                                                                                                                                                              Nhà thơ đã sáng tạo nên một thế giới hình ảnh sinh động, gợi cảm để tái hiện cội nguồn lịch sử tiếng nói dân tộc. Tiếng Việt không phải là  một  khái niệm trừu tượng mà là tiếng mẹ gọi, tiếng cha dặn, tiếng kéo gỗ, tiếng gọi đò, là câu hát lời ru "rung rinh nhịp đập trái tim" ...nghĩa là tất cả những gì gần gũi, thân thiết, máu thịt nhất đối với mỗi người; là thứ tiếng lấm láp giọt mồ hôi mặn chát, những giọt nước mắt cay đắng và cả những tâm tình sâu lắng, ngọt ngào, say đắm. Tiếng Việt là thứ tiếng của Tình yêu và Lao động.     Có thể xem hai câu thơ: "Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa. Óng tre ngà và mềm mại như tơ" là những câu thơ hay nhất của bài  thơ. Đó là một sự phát hiện, đúc kết sâu sắc về đặc trưng tiếng nói, bản sắc dân tộc: vừa  mộc  mạc, chân chất, khoẻ khoắn, vừa mềm mại, dịu dàng, mát mẻ, vừa cứng cỏi lại vừa óng ả, tinh tế, bay bổng...Những hình ảnh "đất cày", "lụa", "tre ngà", "tơ" đều gần gũi, quen thuộc, mang đậm bản sắc dân tộc. Hai câu thơ đẹp, lung linh sắc màu, càng đọc, càng suy ngẫm càng thấy thấm thía, xúc động.                                 Lưu Quang Vũ đã có những phát hiện mới mẻ về sức mạnh kì diệu của tiếng Việt: là dòng sông chảy muôn đời lưu giữ truyền thống yêu nước, nhân ái của con người Việt Nam, là biển lớn của tinh thần hoà hợp dân tộc. Sức mạnh quân sự của kẻ thù có thể chia cắt đất nước về mặt ranh giới địa lí nhưng không thể chia cắt khối thống nhất vĩ đại của lịch sử, văn hoá, ngôn ngữ dân tộc. Tiếng Việt trở thành sợi dây nối liền tâm hồn, tư tưởng của mọi thành viên trong cộng đồng cũng như những người con xa xứ, lưu lạc. Từ mối liên hệ với lịch sử, tác giả đã xem tiếng Việt như là một nhân tố tạo nên sự bền vững muôn đời của dân tộc.                                                                    Tính nhân dân là hạt nhân tư tưởng của bài thơ. Tác phẩm thấm đẫm cảm xúc kính trọng, tự hào, yêu thương nhân dân. Nhân dân là những người đã lao động, sáng tạo, đã đổ mồ hôi, công sức vun đắp cho tiếng Việt ngày càng giàu đẹp hơn và chịu đựng gian khổ, hi sinh, đổ máu để cho tiếng Việt mãi mãi là tiếng nói của một dân tộc có chủ quyền. Tiếng Việt là thứ tiếng cất lên từ bờ tre, mái rạ, từ trong cuộc sống lam lũ, khổ nghèo của những người kéo gỗ, chèo đò, dệt lụa, lặn ngòi ngoi nước, ăn cầu ngủ quán...trải qua những ngày chia cắt, giặc giã, khói lửa với những nỗ lực, hi sinh âm thầm của bao thế hệ con người.      Điều kì diệu là tiếng Việt sản sinh trong cuộc sống lao động và chiến đấu ấy lại là một thứ tiếng ngọt ngào, đằm thắm, tha thiết, thấm đẫm yêu thương dịu dàng, trong trẻo "như dòng sông thương mến chảy muôn đời". Suy cho cùng thì vẻ đẹp, sự kì diệu của tiếng Việt cũng là vẻ đẹp, sự kì diệu của tâm hồn nhân dân, dân tộc. Bài thơ cũng phản ánh không khí của một thời, khi mà cả dân tộc đang phải vận dụng, phát huy tất cả nguồn sức mạnh tổng hợp để đối đầu với một kẻ thù hùng mạnh hơn gấp nhiều lần.                                       "Tiếng Việt" thể hiện những nét đặc sắc trong bút pháp, phong cách nghệ thuật thơ Lưu Quang Vũ. Bài thơ "...đầy ắp hình ảnh, ảnh thực và ảnh ảo, hiện thực và tưởng tượng, sách vở và đời sống hoà quyện thúc đẩy nhau trong các câu thơ dồn dập" (Vũ Quần Phương- Lưu Quang Vũ-Thơ và Đời. NXB Văn hoá-Thông tin. H.1999.tr.52).  Bên cạnh đó, độc giả còn bị chinh phục bởi tính nhạc phong phú, tinh tế. Thể thơ tám chữ với lối gieo vần phóng khoáng và cách ngặt nhịp biến hoá khiến cho bài thơ trở thành một bản nhạc không bao giờ dứt. Nhịp thơ khi trầm lắng, khoan thai, tha thiết, khi sôi nổi, dồn dập, mạnh mẽ...Nội dung tư tưởng lớn lao, sâu sắc được diễn tả bằng một bút pháp nghệ thuật điêu luyện, tài hoa.                                                                                                                                    "Tiếng Việt" của Lưu Quang Vũ là một bài thơ hấp dẫn, vừa Đẹp, vừa Hay, có ý nghĩa giáo dục lòng yêu nước, tinh thần dân tộc. Ai đã được tiếp xúc với "Tiếng Việt" của Lưu Quang Vũ thì không dễ quên. Mặc dù bài thơ không có trong chương trình giáo dục phổ thông, song được rất nhiều người yêu mến thuộc lòng.                     Qua bài viết nhỏ này, chúng tôi kính mong các nhà quản lí giáo dục, các tác giả biên soạn SGK đưa bài thơ vào chương trình giảng dạy môn Ngữ văn trong trường phổ thông. Như vậy, bài thơ sẽ có sức lan tỏa mạnh mẽ hơn, trở thành hành trang tinh thần cần thiết, quí giá cho thế hệ trẻ- những chủ nhân tương lai của đất nước. Trong thời đại bùng nổ thông tin và đang có không ít bạn trẻ thờ ơ với những giá trị văn hoá truyền thống, điều này càng có ý nghĩa.                                                     (Tạp chí "Dạy và học ngày nay" số tháng 7/2008).

File đính kèm:

  • docBai tho Tieng Viet Luu Quang Vu.doc
Giáo án liên quan