Cách mở bài một bài văn nghị luận hay (Ngữ văn 9)

1. Chuyện người con gái Nam Xương - Nguyễn Dữ

- MB1: Được xây dựng theo một cốt truyện dân gian, "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ có thể coi là một tác phẩm hay nhất trong cuốn "Truyền kỳ mạn lục". Nhân vật chính của tác phẩm là Vũ Thị Thiết (Vũ Nương) - một người con gái quê ở Nam Xương đẹp người đẹp nết. Không chỉ có vậy, khi nhắc đến nhân vật này người đọc không thể quên được nỗi oan khổ vô bờ mà nàng phải chịu vì người chồng đa nghi thô bạo.

- MB2: Trong văn học Việt Nam đã có không ít tác phẩm mang tên gọi truyền kỳ hoặc có tính chất truyền kỳ song được tôn vinh là “ thiên cổ kỳ bút” thì cho đến nay chỉ có một “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ .“Chuyện người con gái Nam Xương” được rút trong tập những câu chuyện kỳ lạ đó . Nhân vật chính của tác phẩm là Vũ Nương đã để lại trong lòng người đọc niềm cảm thương sâu sắc.

 

doc15 trang | Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 3489 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cách mở bài một bài văn nghị luận hay (Ngữ văn 9), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cách Mở bài một bài văn nghị luận hay (Ngữ văn 9) 1. Chuyện người con gái Nam Xương - Nguyễn Dữ - MB1: Được xây dựng theo một cốt truyện dân gian, "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ có thể coi là một tác phẩm hay nhất trong cuốn "Truyền kỳ mạn lục". Nhân vật chính của tác phẩm là Vũ Thị Thiết (Vũ Nương) - một người con gái quê ở Nam Xương đẹp người đẹp nết. Không chỉ có vậy, khi nhắc đến nhân vật này người đọc không thể quên được nỗi oan khổ vô bờ mà nàng phải chịu vì người chồng đa nghi thô bạo. - MB2: Trong văn học Việt Nam đã có không ít tác phẩm mang tên gọi truyền kỳ hoặc có tính chất truyền kỳ song được tôn vinh là “ thiên cổ kỳ bút” thì cho đến nay chỉ có một “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ .“Chuyện người con gái Nam Xương” được rút trong tập những câu chuyện kỳ lạ đó . Nhân vật chính của tác phẩm là Vũ Nương đã để lại trong lòng người đọc niềm cảm thương sâu sắc. 2. Truyện Kiều - Nguyễn Du - MB1: “ Dẫu sỳng đạn nặng đường ra hỏa tuyến Đi đường dài em giữ Truyện Kiều theo” (Chế Lan Viờn) Trải qua mấy trăm năm với bao thử thỏch giụng tố của thời gian Truyện Kiều của Nguyễn Du vẫn giữ vị trớ hàng đầu trong nền văn học dõn tộc. Một trong những nguyờn nhõn làm cho Truyện Kiều cú sức sống lõu bền trong lũng bạn đọc là vỡ nhiều nhõn vật của Nguyễn Du đó trở thành bất tử, người đọc nhớ nhõn vật hơn cả cốt truyện. Đú chớnh là do nghệ thuật miờu tả nhõn vật của Nguyễn Du. Đoạn trớch ……… sẽ giỳp ta hiểu rừ điều đú. - MB2: Cú một nhà thơ mà người Việt Nam khụng ai là ko yờu mến, cú một truyờn thơ mà hơn 200 năm qua khụng mấy người Việt Nam khụng thuộc lũng nhiều đoạn hay vài cõu. Người ấy, thơ ấy đó trở thành niềm tự hào của dõn tộc Việt Nam, đỳng như Tố Hữu đó ngợi ca: “ Tiếng thơ ai động đất trời Nghe như non nước vọng lời nghỡn thu Ngàn năm sau nhớ Nguyễn Du Tiếng thương như tiếng mẹ ru mỗi ngày” -MB3: Khi nói đến tác giả của Truyện Kiều, không chỉ nhân dân lao động mà tất cả các nhà văn, nhà nghiên cứu đều thốt nhất tên gọi: “Đại thi hào dân tộc”. Với “con mắt trông thấu sáu cõi và tấm lòng nghĩ tới muôn đời” (Mộng Liên Đường), Nguyễn Du nổi tiếng trước hết bởi cái tâm của một người luôn nghĩ đến nhân dân, luôn bênh vực cho những cuộc đời, những số phận éo le, oan trái, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội cũ. Những câu thơ của Nguyễn Du sở dĩ có thể khắc sâu trong lòng đọc như vậy còn bởi trong Truyện Kiều ông đã bộc lộ sự tài hoa, sắc sảo trong việc miêu tả nhân vật. Đoạn trích…. - MB4: Nguyễn Du là một bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể coi như là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển. Nguyễn Du ko chỉ giỏi về tả cảnh mà còn giỏi về tả tình, tả tâm trạng. Trong quan niệm của ông, hai yếu tố tình và cảnh không tách rời nhau mà luôn đi liền với nhau, bổ sung cho nhau. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là sự kết hợp giao hòa của hai yếu tố này. - MB5: Nguyễn Du là một nhà thơ lớn của dân tộc. Ông đã đóng góp cho kho tàng văn học Việt Nam nhiều tác phẩm đặc sắc, đặc biệt là Truyện Kiều. Đó là một trong số những đỉnh cao chói ngời của nền văn học Việt Nam, cũng như Văn học thế giới. Truyện Kiều không chỉ thành công về mặt nội dung mà còn đặc sắc về mặt nghệ thuật. Đáng chú ý là bút pháp tả cảnh ngụ tình được thể hiện khá rõ qua đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, tiêu biểu nhất là tám câu thơ cuối. - MB6: Thời gian vẫn trôi đi và bốn mùa luôn luân chuyển. Con người chỉ xuất hiện một lần trong đời và cũng chỉ một lần ra đi mãi mãi vào cõi vĩnh hằng. Nhưng những gì là thơ, là văn, là nghệ thuật đích thực…thì vẫn còn mãi mãi với thời gian. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm nghệ thuật như thế, đặc biệt là đoạn trích ….. - MB 7: Trong vô số những nạn nhân của xã hội phong kiến có một tầng lớp mà hết thảy các nhà văn nhân đạo đều đau xót trân trọng và tập trung viết về họ đó là người phụ nữ. Trong số những tác phẩm viết về đề tài này nổi bật nhất phải kể đến truyện Kiều của Nguyễn Du ở cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19. Nhân vật Thuý Kiều là điển hình cho những người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, đức hạnh thanh cao nhưng lại bị cuộc đời vùi dập, xô đẩy vào những đau thương bất hạnh. Ta sẽ thấy rõ điều đó qua các đoạn trích: “Chị em Thuý Kiều”, “Mã giám Sinh mua Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”. 3. Lục Vân Tiên cứu KNN - Nguyễn Đình Chiểu Núi đến Nguyễn Đỡnh Chiểu khụng những là núi đến một nhà thơ yờu nước tiờu biểu nhất của thời kỳ đất nước ta bị thực dõn Phỏp xõm lược cuối thế kỷ XIX mà ụng cũn được nhõn dõn biết đến như một nhà thơ lớn, ca ngợi đạo lớ làm người, đề cao tiết hạnh của người phụ nữ, ca ngợi lũng trung hiếu và hành động vị nghĩa của nam giới mà tỏc phẩm Lục Võn Tiờn là một minh chứng hựng hồn. Lục Võn Tiờn - nhõn vật chớnh của tỏc phẩm, hơn ai hết đó biểu hiện rừ nột lý tưởng của người anh hựng. Đặc biệt là đoạn trớch “Lục Võn Tiờn cứu Kiều Nguyệt Nga” đó để lại trong lũng người đọc một ấn tượng khú phai mờ về hỡnh ảnh một trang nghĩa sỹ đỏnh cướp cứu người. 4. Lục Vân Tiên gặp nạn - Nguyễn Đình Chiểu “Truyện Lục Võn Tiờn” được coi là Truyện Kiều của nhõn dõn Nam Bộ. Tỏc phẩm cú vị trớ cao trong nền văn học Nam Bộ núi riờng và trpng nền văn học dõn tộc núi chung. Đoạn trớch “Lục Võn Tiờn gặp nạn” đó cho ta thấy cuộc đấu tranh giữa cỏi thiện và cỏi ỏc. Đối lập với những việc làm, toan tớnh thấp hốn của Trịnh Hõm là nhõn cỏch cao thượng của ụng Ngư. Đoạn trớch làm sỏng lờn hỡnh ảnh Ngư ụng - một ngư dõn lao động bỡnh thường trờn sụng nước nhưng lại cú việc làm cao cả. 5. Đồng chí - Chính Hữu - MB1: Chớnh Hữu là nhà thơ quõn đội trưởng thành trong cuộc khỏng chiến chống Phỏp.Phần lớn thơ ụng hướng về đề tài người lớnh với lời thơ đặc sắc, cảm xỳc dồn nộn, ngụn ngữ hàm sỳc, cụ đọng giàu hỡnh ảnh. Bài thơ “Đồng chớ” là một trong những bài thơ viết về người lớnh hay của ụng. Bài thơ đó diễn tả thật sõu sắc tỡnh đồng chớ gắn bú thiờng liờng của anh bộ đội thời khỏng chiến. -MB2: Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ đại, hỡnh ảnh người lớnh mói mói là hỡnh ảnh cao quý nhất, đẹp đẽ nhất. Hỡnh tượng người lớnh đó đi vào lũng người và văn chương với tư thế, tỡnh cảm và phẩm chất cao đẹp. Một trong những tỏc phẩm ra đời sớm nhất, tiờu biểu và thành cụng nhất viết về tỡnh cảm của những người lớnh Cụ Hồ là “Đồng chớ” của Chớnh Hữu. Bằng những rung động mới mẻ và sõu lắng, bằng chớnh sự trải nghiệm của người trong cuộc, qua bài thơ “Đồng chớ”, Chớnh Hữu đó diễn tả thật sõu sắc tỡnh đồng chớ gắn bú thiờng liờng của anh bộ đội thời khỏng chiến. - MB3: Nói đến Chính Hữu không thể không nói đến bài thơ “Đồng chí”. Bài thơ như một điểm sáng trong tập “Đầu súng trăng treo”- tập thơ viết về đề tài người lính của ông….. - MB4: Bài thơ “Đồng chớ” ra đời vào đầu năm 1948, sau chiến dịch Việt Bắc của quõn và dõn ta đỏnh thắng cuộc tiến cụng quy mụ lớn của thực dõn Phỏp cuối năm 1947 lờn khu căn cứ địa Việt Bắc. Nhà thơ Chớnh Hữu lỳc đú là chớnh trị viờn đại đội thuộc trung đoàn Thủ đụ, cựng đơn vị của mỡnh tham gia chiến đấu suốt chiến dịch. Đầu năm 1948 Chớnh Hữu viết bài thơ này. Bài thơ là kết quả của những trói nghiệm thực va những cảm xỳc sõu xa của tỏc giả với đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc. Bài thơ núi về tỡnh đồng đội, đồng chớ thắm thiết, sõu nặng của những người lớnh cỏch mạng mà phần lớn họ xuất thõn từ nụng dõn. Đồng thời bài thơ cũng thể hện lờn hỡnh ảnh chõn thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội trong thời kỡ đầu của cuộc khỏng chiến chống thực dõn Phỏp cũn rất khú khăn thiếu thốn. - MB5: Núi đến thơ trước hết là núi đến cảm xỳc và sự chõn thành. Khụng cú cảm xỳc, thơ sẽ khụng thể cú sức lay động hồn người, khụng cú sự chõn thành chỳt hồn của thơ cũng chỡm vào quờn lóng. Một chỳt chõn thành, một chỳt lóng mạn, một chỳt õm vang mà Chớnh Hữu đó gieo vào lũng người những cảm xỳc khú quờn. Bài thơ "Đồng chớ" với nhịp điệu trầm lắng mà như ấm ỏp, tươi vui; với ngụn ngữ bỡnh dị dường như đó trở thành những vần thơ của niềm tin yờu, sự hy vọng, lũng cảm thụng sõu sắc của một nhà thơ cỏch mạng. Phải chăng, chất lớnh đó thấm dần vào chất thơ, sự mộc mạc đó hũa dần vào cỏi thi vị của thơ ca tạo nờn những vần thơ nhẹ nhàng và đầy cảm xỳc? - MB6: Cuộc khỏng chiến chống Phỏp đi qua hơn 50 năm nhưng vẫn để lại những dấu ấn ko thể mờ phai về những năm thỏng hào hựng của dõn tộc. trong những năm thỏng ấy đó nảy sinh biết bao h/ả đẹp mà đẹp nhất là hỡnh ảnh người lớnh và tỡnh cảm đồng chớ đồng đội của họ. Bờn cạnh những bài thơ nổi tiếng một thời như Nhớ (Hồng Nguyờn), Tõy tiến (Quang Dũng) thỡ Đồng chớ của Chớnh Hữu cũng là một thi phẩm đặcsắc. 6. Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật - MB1: Có những tác phẩm đọc xong, gấp sách lại là ta quên ngay, cho đến lúc xem lại ta mới chợt nhớ là mình đã đọc rồi. Nhưng cũng có những cuốn sách như dòng sông chảy qua tâm hồn ta để lại những ấn tượng chạm khắc trong tâm khảm. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một tác phẩm như thế. Nhà thơ Phạm Tiến Duật đã xây dựng một tượng đài bằng thơ về người chiến sĩ hồn nhiên, ngang tàng và ngạo nghễ thời đại chống Mĩ. - MB2: Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm kháng chiến chống Mĩ. Bản thân là anh bộ đội Trường Sơn, tác giả cảm thông và hiểu rõ tâm tình người lính, nhất là người chiến sĩ vận tải dọc Trường Sơn chở vũ khí, quân trang từ hậu phương lớn ra tiền tuyến lớn. Cùng với thế hệ thanh niên hăng hái "Xẻ dọc trường sơn đi cứu nước / Mà lòng phơi phới dậy tương lai" Phạm Tiến Duật mang niềm vui hăm hở của tuổi trẻ ra chiến trường. Nhà thơ đã tạo cho mình một giọng điệu thơ rất lính : khỏe khoắn, tự nhiên, tràn đầy sức sống, tinh nghịch tươi vui mà giàu suy tưởng. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tác phẩm tiêu biểu nhất của giọng thơ ấy, của hồn thơ ấy. - MB3: Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt xuất sắc của thơ ca Việt Nam thời chống Mĩ cứu nước. Ông được gọi là "Viên ngọc Trường Sơn của thơ ca" bởi thi sĩ đã mang cả hào khí thời đại cùng dãy Trường Sơn vào thơ. Đặc biệt mảng thơ về người lính lái xe của ông đã để lại ấn tượng thật thú vị, đó là "Vết xe lăn" nóng bỏng trong những bài thơ Trường Sơn thời chống Mĩ. Trong số những vần thơ thông minh, dí dỏm về người lính lái xe Trường Sơn của Phạm Tiến Duật, phải kể đến Bài thơ về tiểu đội xe không kính. - MB4: Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta là một bản anh hùng ca bất diệt. Trong những tháng năm sục sôi khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước ”ấy nhân dân Miền Bắc đã không tiếc sức người,sức của chi viện cho Miền Nam ruột thịt. Trong những đoàn quân điệp trùng nối nhau ra trận có chàng trai trẻ Phạm Tiến Duật. Anh được tôi luyện và trưởng thành trong chiến tranh và trở thành nhà thơ chiến sỹ. Thơ anh không cuốn hút người đọc bằng ngôn từ mượt mà, âm điệu du dương mà nó khiến người đọc say bằng chính sự tự nhiên, sống động, gân guốc, độc đáo và đậm chất lính tráng. “Bài thơ về tiểu đôi xe không kính” là một thi phẩm tiêu biểu cho hồn thơ đó. - MB5: Phạm Tiến Duật là nhà thơ trẻ và lớn lờn “trong sắc ỏo của anh bộ đội Trường Sơn” giữa những ngày ỏc liệt nhất của cuộc chiến tranh nhõn dõn chống Mỹ. Tiếng thơ Phạm Tiến Duật hỡnh thành và lớn lờn với những bài thơ “ Trường Sơn đụng - Trường Sơn tõy, lửa đốn, gửi em cụ thanh niờn xung phong, nhớ....”đó gúp phần trẻ hoỏ thơ Việt Nam thời chống Mỹ. Bài thơ “bài thơ về tiểu đội xe khụng kớnh” được rỳt ra trong tập thơ “Vầng trăng - quầng lửa” của tỏc giả. Trong bài thơ tỏc giả đó xõy dựng một hỡnh tượng độc đỏo những “chiếc xe khụng kớnh” chắn giú vẫn băng băng trờn đường ra trận vỡ chiến trường miền Nam ruột thịt. 7. Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận - MB1: “Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm/Nỗi nhớ thương không biết đã tan chưa?” (Mai sau). Trước cách mạng tháng Tám, thơ Huy Cận thường u sầu ảo não. Nhưng từ khi cách mạng tháng Tám thành công đã tiếp thêm cho thơ ông một luồng sinh khí mới, những trang thơ dạt dào niềm vui khi viết về cuộc sống mới, con người mới. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một tác phẩm mang cảm xúc như thế. Nó đã ghi lại hành trình đẹp đẽ của đoàn thuyền: ra khơi lúc hoàng hôn, đánh cá lúc trăng lên và trở về lúc bình minh. Nhưng có lẽ khung cảnh đẹp đẽ và hùng vĩ nhất là lúc đoàn thuyền ra khơi được thể hiện rõ trong khổ thơ đầu. - MB2: Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là một "bài thơ cuộc đời". Bài thơ được sáng tác năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hòn Gai, Cẩm Phả. Thông qua một đêm đánh cá của đoàn thuyền lớn trên biển, tác giả ca ngợi cuộc sống lao động mới mẻ của người lao động tràn đầy lạc quan tin tưởng, làm chủ thiên nhiên, biển cả bao la. Qua bài thơ ta cảm nhận được không khí lao động khẩn trương, hăng say, nhộn nhịp. - MB3: Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới .Sau cách mạng ông nhanh chóng hoà nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ đại và trường kì của dân tộc. Hoà bình lập lại, từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống đang lên. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác ở Hòn Gai năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế dài ngày. Bài thơ thực sự là một bài ca ca ngợi cuộc sống của những con người lao động mới. - MB4: Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới. Sau Cỏch mạng, thơ Huy Cận tràn đầy niềm vui, niềm tin yờu cuộc sống mới. Thiờn nhiờn vũ trụ là nguồn cảm hứng dồi dào trong thơ Huy Cận và nú mang những nột đẹp riờng. Một trong những bài thơ được nhiều người yờu thớch nhất là bài “Đoàn thuyền đỏnh cỏ” được viết năm 1958 tại vựng biển Quảng Ninh. Với bỳt phỏp lóng mạn kết hợp hiện thực và nhiều hỡnh ảnh kỡ vĩ, trỏng lệ, bài thơ đó ca ngợi thiờn nhiờn vũ trụ và con người lao động trong cuộc sống mới ở miền Bắc thời kỳ xõy dụng chủ nghĩa xó hội. - MB5: Trước đây nửa thế kỷ, khi mới cầm bút Huy Cận trình làng bài “Tràng giang” với khổ thơ đầu đặc sắc: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song Thuyền về nước lại sầu trăm ngả Củi một cành khô lạc mấy dòng” Giữa cái mênh mông, rộng dài của sông nước, con thuyền và cành củi khô biểu tượng cho kiếp sống của con người trôi xuôi, bơ vơ vô định. Trước cái bơ vơ vô định ấy, thi sĩ đã bâng khuâng thương mình, thương người, muốn chia sẻ tấm lòng “sầu trăm ngả” tới bạn đọc. Từ ấy trở đi, hình tượng trong thơ “ con người” và “vũ trụ” trở thành một nét riêng trong thi pháp thơ Huy Cận. Đến năm 1958, nét riêng ấy lại được thể hiện rõ ràng trong bài “Đoàn thuyền đánh cá”. Bài thơ ra đời năm 1958 trong mạch nguồn cảm xúc biết bao yêu thương về một cuộc sống “ mỗi ngày lại sáng”. Đó vừa là một bức tranh đẹp đẽ, vừa là một khúc ca hào hứng, phấn khởi, say mê với công việc của mình. Đó là những con người làm chủ cuộc sống mới. 8. Bếp lửa - Bằng Việt - MB1: Đọc “Bếp lửa” của Bằng Việt tôi đã mường tượng ra một chàng trai trẻ trong cái giá lạnh của mùa đông Ki-ép ở đất nước U-crai-na xa xôi đương cặm cụi sưởi ấm những nguồn thương qua từng chữ, từng câu mà được thắp lên ngọn lửa đượm đà của một thời thơ ấu đẹp đẽ sống bên người bà yêu dấu...Đến nay đã hơn bốn thập kỉ kể từ khi bài thơ ra đời, ta thực khó rõ đã có bao nhiêu trái tim rung cảm mỗi khi đến với “Bếp lửa”. Chỉ biết đằng sau mạch cảm xúc dạt dào của hoài niệm kia sẽ là gì nếu không phải một tình lan tỏa với cái nóng, cái nồng đượm của “Bếp lửa quê nhà”, với sự ấm áp, ấp iu của “ngọn lửa tình người”. - MB2: Chỉ là một tiếng gà mái nhảy ổ cục tác trong nắng trưa, chỉ là một bếp lửa chờn vờn trong sương sớm,…mà có biết bao nghĩa tình, mà sao tha thiết, lắng sâu đến thế! Thì ra, có khi những điều nhỏ nhoi, giản dị nhất lại ẩn chứa tâm tình, chắt đọng những điều thiêng liêng, là hiện hình của những tình cảm thiết tha chân thành, không thể nào quên. Tiếng gà trưa đánh thức trong Xuân Quỳnh những kỉ niệm về một thời thơ ấu sống trong tình yêu thương của bà. Còn với Bằng Việt, Bếp lửa lại trở thành một hình ảnh biểu trưng cho sự ấm áp nồng đượm của tình bà cháu. - MB3: Mỗi người khi xa quê họ đều nhớ về quê hương với những kỷ niệm gần gũi nhất, thân thương nhất. Tế Hanh nhớ về quê là nhớ về dòng sông. Giang Nam nhớ về quê là nhớ về những buổi trốn học đuổi bướm. Rồi “kẻ nhớ canh rau muống”, “ người nhớ cà đầm tương”. Những cái bình thường quen thuộc tưởng chừng như chẳng có gì đáng nhớ nhưng khi xa rồi mới không thể nào quên. Bằng Việt trong những năm tháng du học ở Liên xô nhớ da diết về hình ảnh bếp lửa với người bà thân thương. Một người bà giàu tình ân nghĩa. 9. Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ – Nguyễn Khoa Điềm Nhà thơ Nguyễn Duy đã viết: “Ta đi trọn kiếp con người Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru” Lời ru của mẹ chính là nguồn năng lượng tinh thần để giúp mỗi chúng ta trưởng thành nên người. Bởi thế cảm xúc về lời ru của mẹ đã đi vào nghệ thuật và thơ ca. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng xuất phát từ truyền thống này nhưng có sự sáng tạo rất mới với Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ. 10. ánh trăng - Nguyễn Duy - MB1: Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nguyễn Duy nổi tiếng với các bài thơ như : “Tre Việt Nam”, “Hơi ấm ổ rơm”, ... Hiện nay, Nguyễn Duy vẫn tiếp tục sáng tác, ông viết đều những bài thơ tài hoa, đậm chất suy tư. “ánh trăng” (1978) là một trong những bài thơ của Nguyễn Duy được nhiều người ưa thích bởi tình cảm chân thành, sâu sắc, tứ thơ bất ngờ, mới lạ . - MB2: Cuộc kháng chiến đã qua đi, người lính trong chiến tranh giờ đây đã về với cuộc sống hàng ngày. Tưởng như sự bận rộn hôm nay sẽ khiến người ta quên lãng quá khứ. Nhưng có một lúc nào đó trong đời thường những kỉ niệm chiến tranh lại như những thước phim quay chậm hiện về. Nguyễn Duy gửi tới bạn đọc thi phẩm “ánh trăng” cũng chính là gửi tới bạn đọc thông điệp : Không nên sống vô tình, phải biết thủy chung nghĩa tình cùng quá khứ. - MB3: Không biết tự bao giờ trăng đã trở thành nàng thơ, thành người bạn tri âm tri kỉ của biết bao tâm hồn thi sĩ .Với ánh sáng huyền diệu, với chu kì tròn khuyết lạ lùng, trăng đã gợi cho các thi nhân cổ kim nhiều thi tứ .Trong miền thơ mênh mang ấy, “ánh trăng” của Nguyễn Duy như một lời tâm sự chân thành ,đã neo lại trong tâm hồn người đọc những tâm trạng riêng,những suy ngẫm riêng giàu trăn trở . - MB4: Thơ xưa cũng như nay, thiờn nhiờn luụn là nguồn cảm hứng sỏng tỏc vụ tận cho cỏc nhà văn, nhà thơ. Đặc biệt là ỏnh trăng. Xưa, Lý Bạch khi đối diện với vầng trăng đó giật mỡnh thảng thốt nhớ cố hương. Nay, Nguyễn Duy, một nhà thơ tiờu biểu cho thế hệ trẻ sau năm 1975 cũng gúp vào mảng thơ thiờn nhiờn một ỏnh trăng.Và đối diện trước vầng trăng, người lớnh đó giật mỡnh về sự vụ tỡnh trước thiờn nhiờn, vụ tỡnh với những kỉ niệm nghĩa tỡnh của một thời đó qua. Bài thơ “Ánh trăng” giản dị như một niềm õn hận trong tõm sự sõu kớn ấy của nhà thơ. - MB5: Ta gặp đõu đõy ngũi bỳt tài hoa của Nguyễn Duy trong tỏc phẩm : “Tre Việt Nam”, “Hơi ấm ổ rơm”..... Nhưng khi hoà bỡnh lập lại, ụng đó chuyển sang một trang mới viết về sự chuyển mỡnh của đất nước, của con người cuộc sống đời thường đang che lấp mất dần những điều đỏng quý mà họ vốn cú. Bài thơ “Ánh trăng” là một bài thơ tiờu biểu cho chủ đề đú. Bài thơ như một lời tự nhắc nhở của tỏc giả về những năm thỏng gian lao đó qua của cuộc đời người lớnh gắn bú với thiờn nhiờn đất nước đồng thời thức dậy trong tõm hồn người lớnh lũng trung hiếu trọn vẹn với nhõn dõn. 11. Làng - Kim Lân - MB1: Quê hương là gì hả mẹ Mà cô giáo dạy phải yêu? Quê hương là gì hả mẹ Ai đi xa cũng nhớ nhiều? (Đỗ Trung Quân) Trong trái tim mỗi con người luôn có một khoảng dành riêng cho quê hương, tình cảm ấy dạt dào cháy bỏng và có sức sống mãnh liệt, bền bỉ. Đặc biệt trong hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm, tình cảm ấy càng tỏa sáng rạng ngời. Với ngòi bút sắc sảo chân thực cùng tâm hồn đồng cảm sâu sắc, nhiều nhà văn Việt Nam hiện đại đã khắc họa thành công hình ảnh con người Việt Nam có tình yêu làng quê tha thiết. Nhưng có lẽ thành công hơn cả là nhà văn Kim Lân với nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng -một lão nông nghèo luôn nặng lòng với quê hương, tình quê ấy gắn bó hòa nhập trong tình yêu đất nước. - MB2: Kim Lân là nhà văn có vốn sống vô cùng phong phú và sâu sắc về nông thôn Việt Nam.Các sáng tác của ông đều xoay quanh cảnh ngộ và sinh hoạt của người nông dân . Văn bản “Làng” được sáng tác vào thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp với nhân vật chính là ông Hai - một lão nông hiền lành, yêu làng, yêu nước và gắn bó với kháng chiến . 12. Lặng lẽ Sa Pa - Nguyễn Thành Long - MB1: Nguyễn Thành Long là một cây bút chuyên về truyện ngắn. Ông đã rất thành công ở các tác phẩm khai thác đề tài về những con người lao động mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là truyện ngắn "Lặng lẽ Sa Pa". Tác phẩm không chỉ vẽ ra một bức tranh thiên nhiên đẹp và thơ mộng mà còn là lời ca ngợi những con người đang ngày đêm miệt mài lao động cống hiến cho Tổ quốc. - MB2: “Trong cái im lặng của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa, Sa Pa mà chỉ nghe tên, người ta chỉ nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước”. “Có những người làm việc và lo nghĩ cho đất nước”, đó là những con người lao động thầm lặng, hi sinh hạnh phúc cá nhân, tìm hạnh phúc trong lao động. Nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” (Nguyễn Thành Long) là một bức chân dung kí hoạ đẹp đẽ về con người này. - MB3: Nguyễn Thành Long là một cây bút có tên tuổi về truyện ngắn được nhiều bạn đọc ưa thích. Các tác phẩm của ông thường phản ánh các cuộc sống sôi động đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ trên đất nước. Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” là truyện ngắn như vậy. Truyện đã khắc hoạ được chân dung của người lao động mới, đó là anh thanh niên với những phẩm chất đáng quí: cởi mở, hiếu khách, yêu công việc, khiêm tốn và có phong cách thật đẹp. - MB4: Gấp lại truyện ngắn “Lặng lẽ Sa pa” của Nguyễn Thành Long, lòng ta cứ xao xuyến vấn vương trước vẻ đẹp của những con người, trước những tình cảm chân thành, nồng hậu trong một cuộc sống đầy tin yêu. Dù được miêu tả ít hay nhiều nhân vật nào của “Lặng lẽ Sa pa” cũng hiện lên với nét cao quí đáng khâm phục. Trong đó anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu đã để lại cho chúng ta nhiều ấn tượng khó phai mờ . - MB5: Nguyễn Thành Long là một trong những cõy bỳt văn xuụi đỏng chỳ ý trong những năm 60 – 70, chỉ chuyờn viết về truyện ngắn và kớ. “Lặng lẽ Sa Pa” là một truyện ngắn nhẹ nhàng cú cốt truyện đơn giản nhưng thật thỳ vị và ẩn chứa bờn trong nhiều ý vị sõu sắc. Tỏc phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cỏch sống và suy nghĩ của những con người lao động bỡnh thường mà cao cả, những con người đầy quan tõm, đầy trỏch nhiệm đối với đất nước mà tiờu biểu là anh thanh niờn làm cụng tỏc quan trắc khớ tượng. Nhõn vật anh thanh niờn chỉ hiện ra trong chốc lỏt nhưng vẫn là điểm sỏng nổi bật nhất của bức tranh về phẩm chất và tõm hồn tốt đẹp của con người mới trong cụng cuộc xõy dựng chủ nghĩa xó hội ở miền Bắc mà tỏc giả tập trung thể hiện. - MB6: “ Nếu là con chim chiếc lá Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh Lẽ nào vay mà không có trả Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình” Một nhà thơ đã từng viết như vậy song chỉ đến khi đọc truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long, tiếp xúc với các nhân vật trong tác phẩm đặc biệt là anh thanh niên ta mới thấy thấm thía hơn ý nghĩa của những vần thơ trên. Anh thanh niên trong tác phẩm là người có những phẩm chất đáng quí: cởi mở, hiếu khách, yêu công việc, khiêm tốn và có phong cách thật đẹp. - MB7: Người ta thường núi Sài Gũn nỏo nhiệt, Hà Nội hào hoa, Sa Pa lặng lẽ… 13. Chiếc lược ngà - Nguyễn Quang Sáng - MB1: Có một nhà văn đã nói rằng : "Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp bằng chính cuộc sống viết ra". Cuộc chiến tranh chống Mĩ của dân tộc ta với biết bao câu chuyện đã trở thành huyền thoại được các nhà văn ghi lại như những câu chuyện cổ tích hiện đại. Trong số ấy phải kể đến "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng. Nhân vật cô bé Thu tám tuổi có một tình yêu cha đằm thắm, kì lạ, tiêu biểu cho những điều kì diệu mà những con người Việt Nam đã viết nên. - MB2: Chỳng ta đang sống trong một đất nước hoà bỡnh, được sự dỡu dắt, yờu thương của cha mẹ, được đựa vui dưới mỏi trường đầy ắp tiếng ca. Chỳng ta cú thể quờn được chăng những trang sử hào hựng ấy, ngày cỏc lớp cha anh đi trước đó hi sinh cả tớnh mạng. Mỏu của cỏc anh đó nhuộm màu phỡ nhiờu cho đất nước, sự hi sinh tươi đẹp cho thế hệ chỳng ta ngày hụm nay. Cỏc anh đó hi sinh cả thể xỏc lẫn tinh thần, hi sinh cả những hạnh phỳc mà lẽ ra cỏc anh phải được hưởng. Chiến tranh, vựng trời của tan thương và chết chúc. Trong mưa bom lửa đạn, trong chất cay xố của mựi thuốc sỳng, tỡnh cảm cao đẹp nhất của tỡnh đồng chớ đồng đội trào dõng. Những bựi ngựi dấu tận đỏy lũng của những người cha lờn đường chiến đấu gửi lại quờ hương đứa con thõn yờu nhất của mỡnh để rồi trong giờ phỳt hiếm hoi giữa cuộc hành quõn nỗi nhớ con khụng cũn dấu được. Tỡnh cảm thiờng liờng ấy càng mónh liệt hơn trong tỏc phẩm “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sỏng. - MB3: Ra đời cách đây hơn 50 năm, nhưng truyện ngắn Chiếc lược ngà của nhà vă

File đính kèm:

  • docCach mo bai van nghi luan lop 9.doc
Giáo án liên quan