Chuyên đề Rèn luyện kĩ năng dạy – học văn thuyết minh ở trường THCS

 Trong những năm gần đây, Đảng và nhà nước ta đặc biệt coi trọng sự nghiệp giáo dục - đào tạo, coi con người là mục tiêu, là động lực của sự phát triển; coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu; và muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển mạnh GD - ĐT. Đây chính là những cơ hội, những thách thức mới đòi hỏi ngành GD -ĐT phải có nhiều đổi mới, trong đó có đổi mới về chương trình, sách giáo khoa và phương pháp dạy học.

 Trong Điều 24, mục 2 Luật giáo dục (do Quốc hội khoá X thông qua) cũng đã chỉ rõ: Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, từng môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn.

 Trong thực tế, rèn luyện kĩ năng cho học sinh nói chung và rèn luyện kĩ năng dạy học văn thuyết minh nói riêng là một vấn đề tạo ra nhiều sự lúng túng cho người dạy cũng như người học. Trong chương trình Ngữ văn THCS, văn thuyết minh được học sinh tiếp cận ở lớp 7, nâng cao dần ở lớp 8 và 9. Với một hệ thống xâu chuỗi như vậy, việc rèn luyện kĩ năng làm văn thuyết minh phải được thực hiện một cách cơ bản, có hệ thống, có sự đầu tư của người dạy và có tính tích cực, chủ động của người học.

 Chúng tôi xin nêu ra một số tồn tại trong dạy học văn thuyết minh:

 - Nhiều giáo viên thụ động vận dụng rập khuôn sách thiết kế. Chưa thật sự coi trọng mục tiêu của đổi mới phương pháp dạy học là rèn luyện tư duy, kĩ năng thực hành cho học sinh.

 - Nhiều giáo viên vẫn sử dụng mô hình giáo án cũ, lên lớp máy móc.

 - Giáo viên cũng như học sinh ngại lập dàn ý.

 - Vốn sống trực tiếp cũng như gián tiếp của học sinh về các đối tượng còn hạn chế rất nhiều.

 Xuất phát từ mục tiêu và thực tiễn nói trên, chúng tôi thấy cần phải tìm ra phương pháp làm thế nào để rèn luyện kĩ năng dạy học văn thuyết minh đạt hiệu quả cao nhất. Tạo cho các em những kĩ năng cơ bản, hệ thống và dễ dàng hơn khi tiếp cận làm văn thuyết minh.

 

doc22 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3343 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Chuyên đề Rèn luyện kĩ năng dạy – học văn thuyết minh ở trường THCS, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
“Rèn luyện kĩ năng dạy – học văn thuyết minh ở trường THCS” A. Mở đầu. I. Lí do chon đề tài. Trong những năm gần đây, Đảng và nhà nước ta đặc biệt coi trọng sự nghiệp giáo dục - đào tạo, coi con người là mục tiêu, là động lực của sự phát triển; coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu; và muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển mạnh GD - ĐT. Đây chính là những cơ hội, những thách thức mới đòi hỏi ngành GD -ĐT phải có nhiều đổi mới, trong đó có đổi mới về chương trình, sách giáo khoa và phương pháp dạy học. Trong Điều 24, mục 2 Luật giáo dục (do Quốc hội khoá X thông qua) cũng đã chỉ rõ: Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, từng môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Trong thực tế, rèn luyện kĩ năng cho học sinh nói chung và rèn luyện kĩ năng dạy học văn thuyết minh nói riêng là một vấn đề tạo ra nhiều sự lúng túng cho người dạy cũng như người học. Trong chương trình Ngữ văn THCS, văn thuyết minh được học sinh tiếp cận ở lớp 7, nâng cao dần ở lớp 8 và 9. Với một hệ thống xâu chuỗi như vậy, việc rèn luyện kĩ năng làm văn thuyết minh phải được thực hiện một cách cơ bản, có hệ thống, có sự đầu tư của người dạy và có tính tích cực, chủ động của người học. Chúng tôi xin nêu ra một số tồn tại trong dạy học văn thuyết minh: - Nhiều giáo viên thụ động vận dụng rập khuôn sách thiết kế. Chưa thật sự coi trọng mục tiêu của đổi mới phương pháp dạy học là rèn luyện tư duy, kĩ năng thực hành cho học sinh. - Nhiều giáo viên vẫn sử dụng mô hình giáo án cũ, lên lớp máy móc. - Giáo viên cũng như học sinh ngại lập dàn ý. - Vốn sống trực tiếp cũng như gián tiếp của học sinh về các đối tượng còn hạn chế rất nhiều. Xuất phát từ mục tiêu và thực tiễn nói trên, chúng tôi thấy cần phải tìm ra phương pháp làm thế nào để rèn luyện kĩ năng dạy học văn thuyết minh đạt hiệu quả cao nhất. Tạo cho các em những kĩ năng cơ bản, hệ thống và dễ dàng hơn khi tiếp cận làm văn thuyết minh. - 1 - II. Mục đích nghiên cứu. Đề tài hướng tới các mục đích sau: 1. Làm rõ nội dung quan điểm: Rèn luyện kĩ năng dạy – học văn thuyết minh trong chương trình Ngữ văn THCS với yêu cầu tăng dần theo suốt các khối lớp. (Lớp 7, 8, 9). 2. Nghiên cứu thực tiễn và tìm lời giải đáp cho những khó khăn, vướng mắc nảy sinh trong thực tế dạy học văn thuyết minh – Ngữ văn THCS . 3. Đưa ra những định hướng cụ thể cho việc xây dựng bài dạy nhằm mục đích phục vụ cho việc rèn luyện kĩ năng làm văn thuyết minh, tiến tới nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn ở trường THCS hiện nay. III. Nhiệm vụ nghiên cứu. Gồm 3 nhiệm vụ sau: 1. Nghiên cứu lí thuyết tổ chức hoạt động dạy học theo chương trình đổi mới; Nghiên cứu chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn THCS. 2. Khảo sát, tìm hiểu thực tế dạy học Ngữ văn THCS nói chung, văn thuyết minh nói riêng để chỉ ra những vướng mắc, khó khăn. 3. Xây dựng hệ thống nội dung chương trình nhằm mục đích rèn luyện kĩ năng dạy học văn thuyết minh (Kèm theo một số phần viết mẫu cụ thể). IV. Phương pháp nghiên cứu. 1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Tập hợp, phân loại, xử lí các văn bản, tài liệu, sách giáo khoa, sách giáo viên,... 2. Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế: Thông qua dự giờ, thao giảng cụm, sử dụng phiếu trắc nghiệm,... 3. Phương pháp so sánh, đối chiếu. 4. Phương pháp thực nghiệm: Dạy thể nghiệm thực tế. V. Cấu trúc đề tài. Gồm 3 phần : A. Mở đầu. I. Lí do chọn đề tài. II. Mục đích nghiên cứu. III. Nhiệm vụ nghiên cứu. IV. Phương pháp nghiên cứu. V. Cấu trúc đề tài. - 2 - B.Nội dung. I. Định hướng bài làm. II. Sưu tầm, nghiên cứu và ghi chép tư liệu cho bài viết. III. Lập dàn ý. IV. Viết bài văn. V. Kiểm tra, sửa chữa. C. Kết luận. B. Nội dung. Rèn luyện kĩ năng dạy học văn thuyết minh ở trường THCS. I. Định hướng bài làm Trước tiên, cần xác định chính xác và rõ ràng đối tượng cần thuyết minh là đối tượng nào? Cần thuyết minh điều gì ? Ví dụ: Muốn thuyết minh về tác hại của thuốc lá thì người làm bài thuyết minh phải hiểu được tác hại của thuốc lá đối với sức khoẻ, đối với kinh tế, đối với môi trường. Sau đó, người viết cần phải nắm được mục đích của bài viết là gì, viết cho ai. Tuỳ theo sở thích, trình độ của người đọc, ta có thể lựa chọn nội dung, xây dựng bố cục và chọn các hình thức diễn đạt thích hợp. Có định hướng đúng, rõ, chúng ta mới có cơ sở bắt tay vào chuẩn bị tư liệu cho bài viết. II. Sưu tầm, ghi chép và lựa chọn các tư liệu cho bài viết Tìm và lựa chọn tư liệu là bước quyết định để xây dựng nội dung bài viết. Có thể tìm tư liệu bài viết bằng nhiều con đường khác nhau: + Để thông tin đưa ra thuyết minh có sức thuyết phục cao, cần phải đến tận nơi hoặc tiếp cận đối tượng để quan sát, điều tra, tạo ấn tượng cảm xúc về đối tượng đó. Ví dụ: Giới thiệu về Huế, tác giả không thể chỉ ngồi ở nhà đọc tư liệu, xem ti vi mà phải là người đã từng đến Huế, có cảm nhận sâu sắc về tự nhiên, kiến trúc, đặc sản, anh hùng của Huế thì mới tạo nên một văn bản về Huế có sức hấp dẫn mọi người. + Nghe người khác kể, miêu tả về đối tượng. + Đọc các tài liệu của người đi trước viết về đối tượng, sưu tầm những ý kiến, truyện kể, thơ ca phẩm bình và thưởng ngoạn về đối tượng. - 3 - + Nguồn tư liệu phong phú, đa dạng, song trong quá trình viết văn bản thuyết minh người viết văn bản chỉ nên chọn những tư liệu đặc sắc, điển hình, những tư liệu gây ấn tượng mạnh với người đọc. Dung lượng tư liệu cần tùy thuộc vào trình độ, sở thích của người đọc, mục đích của bài viết và khuôn khổ cho phép của bài viết. III. Lập dàn ý: 1. Mục đích của việc lập dàn ý Nhận thức đề thấu đáo xong, sẽ là bước lập dàn ý. Rất nhiều người khi làm bài làm văn không bao giờ chịu làm việc này cả. Vì vậy, bài làm thường lộn xộn, các ý trùng nhau, không có sự cân đối, thậm chí còn có nhiều thiếu sót về ý. Đó là những bài làm lệch yêu cầu, xa trọng tâm đề ra. Thật ra làm được một dàn ý tốt không phải dễ. Người làm bài muốn có một dàn ý tốt thì ngoài việc nghiên cứu kĩ đề ra để lĩnh hội sáng tạo yêu cầu của đề, còn phải có thói quen bố trí khoa học. Chính vì vậy, có nhiều học sinh cho rằng: Thời gian làm bài rất hạn chế, chỉ một, hai tiết, nếu còn phải lập dàn ý thì lãng phí mất một thời gian quý báu ! Sự thật không phải như vậy; ngược lại là khác. Dàn ý là nội dung sơ lược của bài văn. Nói cách khác, đó là hệ thống những suy nghĩ, tìm tòi, nhận xét, đánh giá của học sinh dựa trên yêu cầu cụ thể của đề bài. Dàn bài trong bài tập làm văn chẳng khác nào bản thiết kế xây dựng một ngôi nhà, bản kế hoạch sản xuất của một xí nghiệp để thực hiện chỉ tiêu sản xuất. Ngay những nhà văn lớn, những người đã bỏ ra rất nhiều sức lao động để sáng tạo nên những tác phẩm bất hủ, cũng luôn nhấn mạnh vai trò quan trọng của dàn ý: Gớt - tơ , nhà văn nổi tiếng của Đức quả quyết: Tất cả đều lệ thuộc vào bố cục. Đôttôiépxki, nhà văn Nga nổi tiếng của thế kỉ XX ước ao: Nếu tìm được một bản bố cục đạt thì công việc sẽ nhanh như trượt trên băng. Còn Ipxen, một nhà văn nổi tiếng khác của Thụy Điển đã để hẳn một năm lao động xây dựng bố cục cho bản trường ca và ông đã hoàn thành bản trường ca đó trong ba tháng. Sở dĩ mọi người đều nhấn mạnh vai trò của dàn ý chính vì vị trí đặc biệt quan trọng của nó. Lập dàn ý trước khi viết bài có những cái lợi sau: - Nhìn được một cách bao quát, toàn cục nội dung chủ yếu và những yêu cầu cơ bản mà bài làm cần đạt được, đồng thời cũng thấy được mức độ giải quyết vấn đề sẽ nghị luận và đáp ứng những yêu cầu mà đề bài đặt ra, những điểm nào cần bổ sung, sửa đổi cho hoàn thiện. Nhờ đó sẽ tránh được tình trạng - 4 - bài làm xa đề, lệch trọng tâm hay lạc đề. Vấn đề càng phong phú, phức tạp càng cần phải có dàn bài chi tiết. - Thông qua việc làm dàn ý có điều kiện suy nghĩ sâu xa và toàn diện hơn để rà soát, điều chỉnh và phát triển hệ thống luận điểm, bồi đắp và cụ thể hóa bằng những luận điểm, luận cứ ( nếu tìm thấy một tiến trình hợp lí hơn, có thể đảo lại một phần hay cả hệ thống luận điểm). Suy nghĩ, cân nhắc, bỏ bớt những ý trùng lặp vô ích, bổ sung những ý chưa có, khi cần tạm tách ra những ý vốn gắn với nhau, nối liền, gộp nhập những ý xa nhau, những cái đồng thời có thể tạm đặt thành cái trước, cái sau... Làm như vậy sẽ tránh tình trạng bỏ sót những ý quan trọng, đặc sắc hoặc cần thiết và không để lọt vào những ý thừa, bài văn sẽ không rườm rà, luộm thuộm. - Khi đã có dàn ý cụ thể, sẽ hình dung được trên những nét lớn các phần, các đoạn, trọng tâm, trọng điểm, ý lớn, ý phụ của bài văn ( toàn bộ trình tự triển khai nội dung). Nhờ nhìn sâu, trông xa nên có thể chủ động phân phối thời gian khi làm bài, dành thời gian thỏa đáng cho trọng tâm, trọng điểm, phân lượng và định tỉ lệ chính xác giữa các phần trong bài. Tránh được tình trạng bài làm mất cân đối, đầu voi đuôi chuột - Dấu ấn của dàn ý in rất đậm trong bài làm. Nói chung , dàn ý như thế nào thì bài làm, về cơ bản sẽ như vậy. Xây dựng được một dàn ý hoàn chỉnh, chi tiết khi viết thành bài văn sẽ thoải mái theo dòng suy nghĩ, không vướng vấp, không gián đoạn, sẽ đi tới đích một cách thông suốt. Có một dàn ý tốt đảm bảo khá chắc chắn cho sự thành công của bài làm. Cho nên việc lập dàn ý cho bài viết không thể bỏ qua. 2. Phân loại dàn ý : Trong phương pháp làm văn trong nhà trường, dàn ý thường được chia thành hai loại: Dàn ý đại cương và dàn ý sơ lược. a) Dàn ý sơ lược Khi tìm được các ý, ta phải sắp xếp chúng thành dàn ý. Việc sắp xếp các luận điểm tạo thành dàn ý sơ lược. Trong khi lập dàn ý, việc sắp xếp trình tự các luận điểm ( và các luận cứ là hết sức quan trọng. Việc sắp xếp ý nào trước, ý nào sau, một mặt bộc lộ cách hiểu, cách nhận thức riêng của người viết về vấn đề nghị luận, mặt khác, chính việc sắp xếp đó có ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lí tiếp nhận của người đọc. Vì vậy, không thể tùy tiện trong việc sắp xếp ý. - 5 - Có trường hợp các luận điểm được sắp xếp một ý tự do, ý nào trước, ý nào sau không bị quy định chặt chẽ. Nhưng thường thứ tự trước sau giữa các ý là bắt buộc, bởi vì, có giải quyết xong ý này mới đầy đủ điều kiện để chuyển sang ý khác, mới tránh được sự trùng lặp. Sau đây là gợi ý cách trình bày một dàn ý đại cương về mặt hình thức: A. Mở bài: (Ghi cô đọng ý định trình bày). B. Thân bài: I. Luận điểm thứ nhất ( ghi cô đọng như một tiêu đề). II. Luận điểm thứ hai ( ghi cô đọng như một tiêu đề). III. Luận điểm thứ ba (ghi cô đọng như một tiêu đề). C. Kết bài: (Ghi cô đọng ý định trình bày). b) Dàn ý chi tiết Khi lập dàn ý chi tiết, các luận điểm sẽ được tiếp tục phát triển thành các luận cứ, các lí lẽ... Có nhiều cách trình bày dàn ý chi tiết: trình bày theo hình cây ( dọc hoặc ngang) và trình bày theo trật tự viết ( từ trên xuống dưới). Cách trình bày dàn ý theo hình cây có phần rắc rối, rậm rạp, khó nhìn; cách trình bày theo trật tự viết thông dụng hơn, cách này đơn giản và dễ nhìn, dễ nhận. Nội dung của dàn ý là sự tóm tắt ngắn gọn các luận điểm, luận cứ, luận chứng theo tầng bậc, theo trật tự trên dưới, trước, sau, theo quan hệ bao hàm hoặc tương quan kế cận. Có thể diễn đạt nội dung của dàn ý chi tiết bằng một hệ thống các câu hỏi lớn nhỏ theo một trật tự nhất định . Cũng có thể diễn đạt theo kiểu các câu tường thuật ( khẳng định hay phủ định) hoặc chỉ bằng những nhóm từ có các dạng tiêu đề cô đúc. Để phân biệt rành mạch các ý lớn, ý nhỏ người ta thường dùng cách xuống dòng, các dòng kế tiếp nhau được trình bày lùi dần về phía tay tay phải của trang giấy và được kí hiệu tuần tự bằng chữ số La Mã ( I, II, III, IV...), chữ cái in ( A, B, C, D ), chữ số ả rập ( 1,2,3,4...) , rồi các con chữ nhỏ ( a, b, c, d...). Nếu phát triển chi tiết hơn nữa có thể dùng thêm các kí hiệu gạch đầu dòng ( -) và dấu chữ ( +). Ví dụ, có thể dùng các chữ số A, B. C để kí hiệu ba phần của bài làm ( A. Mở bài, B . Thân bài, C. Kết luận. Trong phần B có các luận điểm I. II, III, trong các luận điểm có các luận cứ 1,2,3 và trong các luận cứ có các luận chứng a, b, c. Tiếp theo là các kí hiệu ( -) và ( +). - 6 - Sau đây là gợi ý cách trình bày một dàn ý chi tiết về mặt hình thức: A. Mở bài: ( ghi cô đọng ý định trình bày). B. Thân bài: I. Luận điểm thứ nhất ( ghi cô đọng như một tiêu đề). 1. Luận cứ 1: 2. Luận cứ 2: 3. Luận cứ 3: II. Luận điểm thứ hai ( ghi cô đọng như một tiêu đề). 1. Luận cứ 1: 2. Luận cứ 2: 3. Luận cứ 3: III. Luận điểm thứ ba ( ghi cô đọng như một tiêu đề). 1. Luận cứ 1: 2. Luận cứ 2: 3. Luận cứ 3: C. Kết bài: Ghi cô đọng ý định trình bày. IV. Viết bài văn thuyết minh 1. Viết phần mở bài: a) Vị trí và vai trò của mở bài Nếu quan niệm bài văn là một hệ thống hoàn chỉnh thì phần mở bài là một bộ phận trong thể thống nhất ấy. Với tư cách là một bộ phận cấu thành của hệ thống, nó vừa phải thống nhất với toàn bài về mặt nội dung, kết cấu , và phong cách ngôn ngữ... vừa phải có mặt khác biệt ( đối lập) với các bộ phận khác trong hệ thống, tức là không thể giống và không thể lẫn với phần kết bài. Mặt khác, phần mở bài lại có tính hoàn chỉnh và độc lập tương đối cho phép nó tồn tại như một đoạn văn riêng, như một hệ thống nhỏ nằm trong hệ thống lớn là bài văn. Nói đến vai trò của phần mở bài, Đông Phương Thụ đời nhà Thanh (Trung Quốc) có nói : Thơ , văn khéo nhất là mở bài, cái hay ở đó cả, tinh thần ở đó cả. Mở bài của bài văn là một phần quan trọng trong cấu trúc. Mở bài hay dở sẽ trực tiếp ảnh hưởng tới sự biểu đạt của chủ đề, sự thành bại của bài viết và hiệu quả trình bày. Người ta nói rằng nhà văn Tô Đông Pha đời Tống ( Trung Quốc) khi viết bài văn Bia miếu Triều Châu Hàn Văn Công từng viết đi viết lại mười mấy lần đoạn mở bài, cuối cùng mới lựa chọn: Kẻ thất phu mà làm thầy - 7 - muôn đời - Một lời mà thành chuẩn mực cho thiên hạ. Hai câu này một mặt đã thể hiện sự đánh giá của Tô Đông Pha đối với Hàn Dũ, một mặt khác cũng đã xác định điều chủ đạo cho cả bài văn, khiến cho độc giả khi tiếp xúc với bài văn sẽ hứng cảm thức tỉnh. Thế mới biết mở bài có tác dụng thế nào trong bài viết. Bạch Cư Dị là nhà thơ lớn đời Đường ( Trung Quốc) trong Lời tựa Tân nhạc phủ có khen cách viết : câu đầu nêu lên cái đề . Lí Đồ đời Nam Tống trong Tinh nghĩa văn chương cũng nói: Văn chương hay nhất là câu đầu nêu cái ý. Lương Khải Siêu trong Văn tập ấm Băng thất lại nói rõ hơn : Văn chương cần nhất là làm cho người ta thoạt nhìn vào mà thấy được cái chủ đề ở đấy mới dễ rung cảm; Khi làm bài văn thì tốt nhất là phải nêu ra ngay từ đầu. Có thể lấy một ví dụ so sánh là mở bài chính là cái thực đơn của bữa tiệc. Thực đơn ngon thì nhìn vào là biết ngay cái hương vị. Thấy được cái thực thì mới yên tâm mà ăn. Nếu không, có thể phải rời bàn tiệc. Lí Ngư đời nhà Thanh ( Trung Quốc), trong Lạp Ông ngẫu tập có nói: Mở bài nên bằng những câu hay câu lạ mà hấp dẫn, khiến cho người đọc thấy được kinh dị, không dám bỏ. Hoàng Chính Khu nói rõ hơn : Mở bài hay phải như đám mây mùa xuân bùng ra, hoa tươi ngậm sương, khiến ta cứ đọc là rung cảm. Những quan điểm trên có nghĩa là mở bài phải mới mẻ, hấp dẫn, tạo cho người đọc một ấn tượng mạnh. Phần mở bài có vị trí quan trọng vì: - Nó là phần đầu tiên ( gọi là mở bài vì vị trí cuả nó bao giờ cũng nằm ở đầu bài), phần trước nhất đến với người đọc, gây cho người đọc cảm giác, ấn tượng ban đầu về bài viết, tạo ra âm hưởng chung cho toàn văn bản. Mặt khác nó còn tạo thêm hứng thú cho bản thân người viết văn bản. - Mở bài rõ ràng , hấp dẫn tạo được hứng thú ở người đọc và thường báo hiệu một nội dung tốt. mở bài không rõ ràng, không thích hợp với yêu cầu nội dung biểu hiện trình độ nhận thức và tư duy không tốt, do đó nội dung bài làm cũng kém chất lượng. b) Yêu cầu về nội dung và hình thức của phần mở bài - Về nội dung: + Như đã nói, phần mở bài tạo ra tình huống có vấn đề, phải có tính luận đề tức là phải đề xuất được vấn đề mà đề bài yêu cầu giải quyết. + Vấn đề đặt ra trong phần mở bài dưới dạng tổng quát, khái quát phải đưa ra được những tiền đề, dữ kiện đòi hỏi phải có lời giải đáp ( trong phần thân bài). - 8 - * Cấu tạo của phần mở bài ở dạng đầy đủ gồm: + Dẫn vào đề: Nêu xuất xứ của đề, xuất xứ của một ý kiến, một nhận định, một danh ngôn, một chân lí phổ biến hoặc dẫn một câu thơ văn, nêu lí do đưa đến bài viết hoặc nêu một sự kiện có liên quan để dẫn dắt người đọc vào đề. ( Có thể bắt đầu bằng một sự kiện đặc sắc, một hình tượng hấp dẫn, một thông báo thú vị để khêu gợi trí tò mò). Cũng có thể có khi người ta vào đề thẳng mà không cần lời dẫn. + Đề xuất vấn đề: Đây là bộ phận quan trọng có nhiệm vụ tạo nên tình huống có vấn đề mà mình sẽ giải quyết trong phần sau. Nêu lên vấn đề và yêu cầu phải giải quyết ( có thể nêu một câu hỏi bất ngờ và thông minh, một mẩu chuyện ngược đời để gây hấp dẫn ). + Giới hạn vấn đề: Xác định phương hướng, phương pháp, phạm vi, mức độ, giới hạn của vấn đề ( xác định góc độ nhìn nhận vấn đề, hoặc đối tượng, mục tiêu mà vấn đề nhằm tới). - Về hình thức: + Phần mở bài phải cân xứng với khuôn khổ bài viết, đặc biệt, nó phải thể hiện mối liên hệ chặt chẽ và sự tương ứng về dung lượng và cả về phong cách diễn đạt với phần kết. + Các câu trong phần mở bài thường ngắn gọn hoặc có độ dài vừa phải. Chúng phải thống nhất về mặt phong cách ngôn ngữ với toàn bài, đặc biệt với phần kết luận. c) Các kiểu mở bài trong văn thuyết minh: Mở bài có nhiều phương pháp, nhưng có thể quy vào hai phương pháp chủ yếu là mở bài trực tiếp và mở bài gián tiếp. Người viết có thể lựa chọn sử dụng các phương pháp khác nhau, tùy theo nội dung, mục đích, khuôn khổ bài viết và phương thức biểu đạt. Trong bài văn biểu cảm, mỗi kiểu bài khác nhau có một cách mở bài khác nhau. Ví dụ 1: Khi giới thiệu về Hà Tây quê lụa có thể mở bài như sau: Hà Tây là tỉnh có địa hình tương đối đa dạng bao gồm đồi, núi và đồng bằng. Do ảnh hưởng của địa hình nên khí hậu Hà Tây có nhiều tiểu vùng khí hậu nóng ẩm, nhiệt độ trung bình năm khoảng23,80 c. Vùng gò đồi có nhiệt độ trung bình 23, 50c, khí hậu lục địa chịu ảnh hưởng của vùng gió Lào.Vùng Ba Vì có khí hậu mát mẻ nhiệt độ trung bình 180c. Hà Tây có nhiều hồ đẹp, giao thông đường bộ, đường thuỷ đều thuận tiện. Ví dụ 2: Khi giới thiệu- thuyết minh về Lạng Sơn- một vùng danh thắng có thể mở bài như sau: Là người Việt Nam ai cũng đã một lần nghe câu ca dao: Đồng Đăng có phố Kì Lừa Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh - 9 - Từ Hà Nội đi theo quốc lộ 1A, du khách ngồi xe ô tô khoảng 2 tiếng đồng hò là đến địa phận Lạng Sơn. Qua dãy núi Kai Kinh rồi đến ải Chi Lăng thâm nghiêm hùng vĩ, những kì tích đó đã làm cho bao kẻ thù xưa nay khiếp sợ. Đường 1A trườn dài theo những triền núi ngút ngàn thông reo. Từng đoàn xe lớn nhỏ hối hả về xứ Lạng ẩn mình trong sương sớm. Qua khỏi đèo Sài Hồ là đến thị xã Lạng Sơn, vùng biên ải của Tổ quốc nơi quê hương của hoa thơm, trái ngọt và những điệu đặc sắc Then, Sli, Lượn của các dân tộc Tày, Nùng, Dao. Ví dụ 3: Mỗi lần bạn bè hỏi thăm xứ Huế, tôi thường trả lời vui bằng một câu thơ của thi sĩ Bùi Giáng: Dạ thưa xứ Huế bây giờ, Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương! Cứ tưởng là đùa chơi, hóa ra câu thơ còn nhắc tới một sự kiện bất biến của xứ Huế, khi mà núi Ngự - sông Hương từ bao đời nay đã trở thành biểu tượng của xứ này. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã từng lo sợ một ngày nào đó Huế không còn sông Hương thì liệu còn ai buồn nhắc tới Huế nữa không. Còn nhà thơ Huy Tập thì xa xăm rằng : nếu như chẳng có sông Hương - Câu thơ xứ Huế giữa đường đánh rơi. Vâng, con sông, ngọn núi là chỗ tựa, đồng thời cũng là cội nguồn để tạo ra hương sắc của cả một vùng đất, và cao hơn nữa là bản sắc văn hóa của vùng đất ấy. Qua nhiều biến thiên thăng trầm của lịch sử, Huế không chỉ là một danh từ mà còn là tính từ trừu mến trong cảm thức của biết bao người. ( Theo Nguyễn Trọng Tạo : Một góc nhìn của trí thức, tập 1, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 2002) Ví dụ 4: Có nhiều món ăn hết sức dân giã, bình thường nhưng mùi vị của nó sẽ làm người ta nhớ mãi không quên. Măng là một món ăn rất đỗi bình thường và quen thuộc với mọi người, mọi nhà, đặc biệt là các vùng miền núi. Ca dao đã từng ngợi ca: Ai về nhắn với nẫu nguồn Măng le gởi xuống cá chuồn gởi lên Măng le là loại tre gai có thân nhỏ, măt nhặt, nhiều cành toả ra chi chít và nhiều gai, đna xen vào nhau thành bụi rậm. Le mọc thành rừng dọc theo các bờ sông, bờ suối ở Tây Nguyên- Trường Sơn. Tóm lại, đoạn mở bài là một phần trong tổng thể bài văn. Nó có quan hệ chặt chẽ với toàn bài, đặc biệt là với phần kết nhưng đồng thời nó lại là một đoạn văn hoàn chỉnh, có nội dung và kết cấu riêng, có quan hệ chặt chẽ và lôgic. - 10 - Có thể tùy nghi lựa chọn cách thức mở bài thích hợp với nội dung, khuôn khổ bài (và phù hợp với trình độ viết văn của mình ) miễn là đoạn mở bài phải đạt được yêu cầu cơ bản là đề xuất được vấn đề, nêu phương hướng giải quyết và giới hạn của vấn đề. 2. Viết phần thân bài. ở bài văn thuyết minh, cũng giống như các thể loại khác, phần thân bài là phần giải quyết vấn đề. Phần này thường gồm một số đoạn văn được liên kết với nhau thành một hệ thống nhằm giải đáp một số yêu cầu của đề bài. Tùy vào yêu cầu của đề bài mà tiến hành khai thác các đoạn ở phần thân bài. Nếu đề bài có cho sẵn trình tự yêu cầu thì ta giải quyết từng yêu cầu theo một trình tự ấy. Nếu đề bài không cho sẵn trình tự giải quyết thì ta phải định ra cho mình một trình tự giải quyết sao cho hợp lôgic, hợp tâm lí tiếp nhận của người đọc như đã trình bày ở phần sắp xếp ý. Trong quá trình làm bài, để các đoạn văn có thể liên kết với nhau thành một bài hoàn chỉnh chúng ta cần chú ý tới phần chuyển ý. Có thể tóm tắt ý ở đoạn trước để chuyển sang ý đoạn sau. Có thể dùng một số từ nối, hoặc dựa vào ý sau đoạn móc nối với đoạn trước. Ngoài ra, cần lưu ý với các đề mục trong bài để định rõ độ dài ngắn của các đoạn. Các ý lớn, các đề mục trọng tâm cần được viết thành các đoạn chiếm tỉ lệ thích đáng so với toàn bài. Các ý phụ chỉ nên viết thành các đoạn ngắn. Nếu làm ngược lại, bài làm sẽ mất cân đối, lệch hoặc xa đề. Sau mỗi đoạn văn giải quyết trọn vẹn một đề mục, một ý lớn phải xuống dòng. Những chỗ xuống dòng thích hợp rất cần cho một bài làm. Nó giúp cho bài làm sáng sủa, mạch lạc. Viết đoạn văn trong văn bản thuyết minh nên tuân thủ theo thứ tự cấu tạo của sự vật, theo thứ tự nhận thức ( từ tổng thể đến bộ phận, từ ngoài vào trong, từ xa đến gần), theo thứ tự diễn biến sự việc trong một thời gian trước sau hay theo thứ tự chính phụ,cái chính nói trước, cái phụ nói sau. Sau đây là cách viết một số đoạn văn thuyết minh thường gặp trong các kiểu bài thuyết minh. a) Đối tượng thuyết minh là một danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, thì nội dung thuyết minh thường là - Về vị trí địa lí: - Những cảnh quan làm nên vẻ đẹp đặc sắc của đối tượng; - Những truyền thống lịch sử, văn hoá gắn liền với đối tượng; - Cách thưởng ngoạn đối tượng. - 11 - Ví dụ 1: Giới thiệu về Hà Tây [...] - Nằm ở cửa ngõ Hà Nội, Hà Tây là tỉnh có nhiều di tích lịch sử và kho tàng văn học dân gian phong phú: Ca dao, dân ca, tục ngữ, truyện thơ, truyện cười có giá trị văn học. Nơi đây cũng là quê hương của những anh hùng dân tộc như: Phùng Hưng, Ngô Quyền, Nguyễn Trãi, Phan Huy Chú. - Hà Tây có rất nhiều lễ hội. Những lễ hội nổi tiếng ở Hà Tây đã là điểm dừng chân và làm say lòng bao du khách. Nào hội chùa Hương, hội chùa Thầy, hội chùa Tây Phương, hội Làng Chuông; nào hội Đền Và, hội làng Đa Sĩ, hội diễn Bá Giang...Du khách đến dự hội còn được đắm mình trong những câu hát dân ca, trong điệu múa tiếng khèn đặc sắc của các dân tộc: Người Kinh có hát chèo, hát trống quân, hát cò lả, hát cửa đình, múa rối nước; người Mường có hãtéc bùa, hát ví, hát đúm, hát ru, hát đồng dao; người dao có hát múa rùa, múa chung, múa chim... [...] Ví dụ 2: Giới thiệu Hàm Rồng [...] Hàm Rồng trở thành bất tử với những chiến công oanh liệt và cảnh trí nên thơ. Nhưng hai chữ Hàm Rồng ( tên chữ là Long Hạm hay Long Đại) vốn là tên riêng của ngọn núi hình đầu rồng với cái thân uốn lượn như một con rồng từ làng Ràng ( Dương Xá) theo dọc sông Mã bên phía bờ Nam. Trên núi Rồng, có động Long Quang, hang ăn sâu thông sang bên kia như hai mắt rồng, được gọi là hang Mắt Rồng ( cho nên còn có tên là núi Mắt Rồng). Truyền thuyết kể lại, con rồng đang vờn ngọc ở phía bên kia sông bị trúng mũi tên độc vào mắt phải, nên phải gục ở bên sông. Mắt phải ấy có lỗ ăn thông lên trên, mùa mưa nước chảy xuống màu đỏ, ấy là nước mắt rồng. ở dưới động Long Quang, có mỏm đá nhô ra, hàm trên há rộng, hàm dưới ngập trong nước như đang hút nước, gọi nôm na là Hàm Rồng. Bên kia sông, có hòn núi Ngọc, tên chữ là Hỏa Châu Phong hay còn gọi là núi Nít, ngọn núi này tròn trặn, các lớp đá chen dày tua tủa như ngọn lửa từ trong lòng đất bốc lên, bởi vậy mà gọi là Hỏa Châu Phong. Chín mươi chín ngọn bên đông Còn hòn núi Nít bên sông chưa về Chung quanh núi Rồng còn có nhiều ngọn núi trông rất ngoạn mục như: Ngũ Hoa Phong có hình

File đính kèm:

  • docSKKN Hay.doc
Giáo án liên quan