Từ trước công nguyên các nhà y học đã nói tới ǎn uống và cho ǎn uống là một phương tiện để chữa bệnh và giữ gìn sức khỏe. Hypocrát (460-377) trước công nguyên đã chỉ ra vai trò của thức ǎn là bảo vệ sức khỏe và khuyên chúng ta cần phải chú ý tùy theo tuổi tác, thời tiết, công việc mà nên ǎn nhiều hay ít, ǎn một lúc hay rải ra nhiều lần.
Hypocrat nhấn mạnh về vai trò của thức ǎn trong điều trị. Ông viết "Thức ǎn cho bệnh nhân phải là một phương tiện điều trị và trong phương tiện điều trị của chúng ta phải có dinh dưỡng".Và ông cũng nhận xét "Hạn chế và ǎn thiếu chất bổ rất nguy hiểm đối với người mắc bệnh mạn tính".
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2117 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Dinh dưỡng cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I.Tổng quan:
I.1 Những quan niệm trước đây về khoa học dinh dưỡng
I.2 Những vấn đề lớn về dinh dưỡng hiện nay
II. Nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi
II.1 Đặc điểm và vai trò của việc dinh dưỡng hợp lý cho trẻ tiểu học
II.1.1 Đặc điểm
II.1.2 Vai trò của bữa ăn cân đối
II.3. Đảm bảo sự phát triển tốt nhất cho trẻ ở độ tuổi tiểu học
II.3.1. Các chất cần thiết cho sự phát triển của trẻ
II.3.2. Các thực phẩm liên quan được sử dụng trong thực đơn
II.4. Một số hội chứng,bệnh ở lứa tuổi này và biện pháp phòng chống
II.4.1. Hội chứng chán ăn
II.4.2. Béo phì
II.4.3. Suy dinh dưỡng
II.5. Chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ
II.6. Xây dựng thực đơn cho trẻ
III. Kết luận và kiển nghị:
IV. Tài Liệu Tham Khảo
I. Tổng quan :
I.1 Những quan niệm trước đây về khoa học dinh dưỡng:
Từ trước công nguyên các nhà y học đã nói tới ǎn uống và cho ǎn uống là một phương tiện để chữa bệnh và giữ gìn sức khỏe. Hypocrát (460-377) trước công nguyên đã chỉ ra vai trò của thức ǎn là bảo vệ sức khỏe và khuyên chúng ta cần phải chú ý tùy theo tuổi tác, thời tiết, công việc mà nên ǎn nhiều hay ít, ǎn một lúc hay rải ra nhiều lần.
Hypocrat nhấn mạnh về vai trò của thức ǎn trong điều trị. Ông viết "Thức ǎn cho bệnh nhân phải là một phương tiện điều trị và trong phương tiện điều trị của chúng ta phải có dinh dưỡng".Và ông cũng nhận xét "Hạn chế và ǎn thiếu chất bổ rất nguy hiểm đối với người mắc bệnh mạn tính".
Ở nước ta Tuệ Tĩ nh thế kỉ thứ XIV trong sách "Nam dược thần hiệu" đã đề cập nhiều đến tính chất chữa bệnh của thức ǎn và có những lời khuyên ǎn uống trong một số bệnh và ông đã phân biệt ra thức ǎn hàn nhiệt.
Hải Thượng Lãng Ông cũng là một danh y Việt Nam thế kỉ XVIII cũng rất chú ý tới việc ǎn uống của người bệnh. Ông viết Có thuốc mà thông có ǎn uống thì cũng đi đến chỗ chết. Đối với người nghèo không những ông thǎm bệnh, cho thuốc không lấy tiền mà còn trợ giúp cá gạo và thực phẩm cần thiết cho người bệnh. Đặc biệt trong cuốn Nữ Công Thắng Lãm còn ghi cả 200 món ǎn.
I.2 Những vấn đề lớn về dinh dưỡng hiện nay:
Về mặt dinh dưỡng thì thế giới hiện nay đang sống ở hai thái cực trái ngược nhau cũng như bên bờ vực thẳm của sự thiếu ǎn, hoặc bên bờ vực thẳm của sự thừa ǎn.
Trên thế giới hiện nay vẫn còn gần 780 triệu người của các nước đang phát triển không có đủ lương thực, thực phẩm để đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng cơ bản hàng ngày và có tới 192 triệu trẻ em bị suy dinh dưỡng protein.
Phần lớn nhân dân các nước đang phát triển bị thiếu vi chất; 40 triệu trẻ em bị thiếu vitamin A gây khô mắt và có thể dẫn tới mù lòa. Trong đó có 200 triệu người bị bướu cổ, 26 triệu người bị thiểu trí và rối loạn thần kinh và 6 triệu bị đần độn. Tỷ lệ trẻ sơ sinh có cân nặng dưới 2,5 kg ở các nước phát triển là 6% trong khi ở các nước đang phát triển lên tới 19%. Tỷ lệ tử vong có liên quan nhiều đến suy dinh dưỡng như ở các nước phát triển chiếm khoảng 2%, trong khi đó ở các nước đang phát triển là 12% và các nước kém phát triển thì tỷ lệ này lên tới 20% (Tỷ lệ này được tính với 100 trẻ sinh ra sống trong nǎm).
Theo ước tính của FAO thì sản lượng lương thực trên thế giới có đủ để đảm bảo nhu cầu nǎng lượng cho toàn thể nhân loại. Nhưng vào những nǎm cuối của thập kỷ 80 thì chỉ có khoảng 60% dân số thế giới được đảm bảo trên 2600 Kcal/người/ngày và vẫn còn 11 quốc gia có mức ǎn quá thấp dưới 2000 Kcalo/người/ngày.
Hậu quả của nạn thiếu ǎn về mặt kinh tế rất lớn. Theo cuốn sách "Giá trị cuộc sống", nếu một người chết trước 15 tuổi thì xã hội hoàn toàn lỗ vốn, nếu có công việc làm ǎn đều đặn thì một người phải sống đến 40 tuổi mới trả xong hết các khoản nợ đời, phải lao động và sống ngoài 40 tuổi mới làm lãi cho xã hội.
Ghosh cũng đã tính là ở ấn Độ, 22% thu nhập quốc dân đã bị hao phí vào đầu tư không hiệu quả, nghĩa là để nuôi dưỡng những đứa trẻ chết trước 15 tuổi.
Thiếu ǎn, thiếu vệ sinh là cơ sở cho các bệnh phát triển. Ở Châu Phi mỗi nǎm có 1 triệu trẻ em dưới 1 tuổi chết vì sốt rét. Trực tiếp hay gián tiếp trẻ em dưới 5 tuổi ở các nước đang phát triển bị chết do nguyên nhân thiếu ǎn chiếm tới 50%. Ziegler nghiên cứu về tai họa của nạn thiếu ǎn, đặc biệt là châu Phi đã đi đến kết luận "Thế giới mà chúng ta đang sống là một trại tập trung hủy diệt lớn vì mỗi ngày ở đó có 12 nghìn người chết đói". Ngược lại với tình trạng trên ở các nước công nghiệp phát triển lại đứng bên bờ vực thẳm của sự thừa ǎn, nổi lên sự chênh lệch quá đáng so với các nước đang phát triển.
Ví dụ: Mức tiêu thụ thịt bình quân đầu người hàng ngày ở các nước đang phát triển là 53 gam thì ở Mỹ là 248 gam. Mức tiêu thụ sữa ở Viễn Đông là 51gam sữa tươi thì ở châu âu là 491 gam, úc là 574 gam, Mỹ là 850
Về nhiệt lượng ở Viễn Đông là 2300 Kcalo, ở châu âu 3000 Kcalo, Mỹ 3100 Kcalo, úc 3200kcalo. Nếu nhìn vào mức tiêu thụ thịt cá thì sự chênh lệch càng lớn, 25% dân số thế giới ở các nước phát triển đã sử dụng 41% tổng protein và 60% thịt cá của toàn thế giới.
Lấy mức ǎn của Pháp làm ví dụ tiêu biểu về mức tiêu thụ thực phẩm nǎm 1976 tính bình quân đầu người là 84 kg thịt ( nǎm 1980 là 106 kg ), 250 quả trứng, 42 kg cá, 15 kg pho mát, 19 kg dầu mỡ, 9 kg bơ, 36 kg đường, 3kg bánh mì, 73 kg khoai tây, 101 kg rau, 58 kg quả, 101 lít rượu vang, 71 lít bia. Mức ǎn quá thừa nói trên đã dẫn đến tình trạng thừa dinh dưỡng. Theo Bour 20% dân Pháp bị bệnh béo phì, béo quá mức dẫn đến hiện tượng tích lũy mỡ bao bọc ở các cơ quan tǎng lên, thậm chí cả ở tim làm cho khả nǎng co bóp của tim yếu đi
Nước ta đang phấn đấu thoát khỏi tình trạng nghèo đói và suy dinh dưỡng, một công việc không phải là dễ dàng sau nhiều nǎm chiến tranh. Song việc giải quyết vấn đề dinh dưỡng ở nước ta không phải là việc phấn đấu đuổi kịp các nước về mức tiêu thụ các thực phẩm từ thịt, bơ sữa, dầu mỡ và chất béo. Mà chủ yếu là giải quyết vấn đề về đạm và protein cho người dân.Vì không hẳn một mẫu thực phẩm tiêu thụ của các nước phát triển không hẳn là tốt.
Nhiệm vụ của những người làm dinh dưỡng ở nước ta là phải xây dựng được bữa ǎn cân đối hợp lý, giải quyết tốt vấn đề an toàn lương thực thực phẩm, sớm thanh toán bệnh suy dinh dưỡng protein nǎng lượng và các bệnh có ý nghĩa cộng đồng liên quan đến thiếu các yếu tố vi chất.
II. Nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi:
II.1 Đặc điểm và vai trò của nhu cầu dinh dưỡng hợp lý cho trẻ tiểu học:
II.1.1 Đặc điểm
Năng lượng được xem là nhu cầu số 1: Năng lượng cần cho hoạt động cơ thể và cần đủ để tích luỹ tạo ra sự lớn của tổ chức cơ thể. Trẻ em mau lớn hay chậm lớn phụ thuộc vào năng lượng tích luỹ (ngoài năng lượng hoạt động). Cứ 6,2 calo tương đương với 1g thể trọng.
Năng lượng tiêu hao ở tuổi nhi đồng, thiếu niên gồm ba mặt:
+ Năng lượng trao đổi cơ sở
+ Năng lượng hoạt động và nhiệt năng đặc thù thức ăn
+ Năng lượng cung cấp cho quá trình sinh trưởng và phát dục.
Tỉ lệ phần trăm năng lượng cung cấp cho quá trình sinh trưởng và phát dục tùy vào các lứa tuổi khác nhau mà có những đặc điểm khác nhau:
Từ 3-6 tuổi là 15-16%
Từ 7-12 tuổi là 10%
Từ 13-17 tuổi là 13-15%
- Theo Tiêu Chuẩn Vệ Sinh Dinh Dưỡng của Tổ Chức Y Tế Thế Giới thì:
+ Từ 4 à 6 tuổi cần 91Kcal/ngày/kg thể trọng.
+ Từ 7 à 9 tuổi cần 78Kcal/ngày/kg thể trọng.
+ Từ 10 à 12 tuổi cần 66Kcal/ngày/kg thể trọng.
Riêng đối với nhóm em nghiên cứu dinh dưỡng cho trẻ từ 6=>11 tuổi thì cụ thể năng lượng dành cho mỗi ngày của trẻ là 1800-2200 calo/ngày (theo Viện dinh dưỡng đề nghị). Nếu trẻ hoạt động thể thao, trẻ cần phải tiếp nhận nhiều hơn 300 - 500 calo
II.1.2 Vai trò của bữa ăn cân đối:
Dinh dưỡng là một vấn đề quan trọng có thể nói là vào bậc nhất trong cuộc sống của mỗi con người. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng này lại quá thông dụng, đến mức hầu như người ta không còn chú ý đến vai trò của nó trong cuộc sống. Điều này có thể tạm chấp nhận trong thời gian trước đây, khi mà cuộc sống còn quá khó khăn, nhu cầu về dinh dưỡng của con người chỉ gói gọn trong tiêu chuẩn là có đủ thức ăn cần thiết để duy trì sự sống và làm việc. Còn trong điều kiện hiện nay, khi mà tình hình kinh tế xã hội ngày càng khả quan hơn, con người ngày càng có điều kiện hơn để tiếp cận với cuộc sống mới, trong đó việc ăn uống trở thành một thú vui hơn là một nhu cầu, thì việc trang bị những kiến thức tối thiểu về dinh dưỡng để có thể lựa chọn và áp dụng cho bản thân hoặc gia đình mình một chế độ ăn uống hợp lý, bảo đảm sức khỏe đang trở nên ngày càng cần thiết.Học sinh tiểu học là những đối tượng đặc biệt đối với những người làm công tác dinh dưỡng. Đây là lứa tuổi cơ thể và tâm lý trẻ bắt đầu chuyển qua một giai đoạn mới rất quan trọng cho việc phát triển thể chất và tinh thần của trẻ.
Về mặt thể chất, đây là giai đoạn mà bộ não đã hoàn thiện, trẻ có thể học hỏi được rất nhiều nên nhu cầu về năng lượng cung cấp cho việc học tập tăng lên. Cơ thể trẻ tuy phát triển chậm lại về mặt cân nặng và chiều cao, không còn phát triển một cách vượt bậc như trong những năm đầu đời, nhưng đây lại là giai đoạn mà cơ thể trẻ tích lũy những chất dinh dưỡng cần thiết chuẩn bị cho giai đoạn phát triển nhanh chóng thứ hai trong cuộc đời là lứa tuổi dậy thì, nên việc cung cấp chất dinh dưỡng cho trẻ cần được lưu ý cẩn thận.
Về mặt tâm lý, giai đoạn này trẻ bắt đầu xâm nhập vào cuộc sống xã hội dưới nhiều hình thức khác nhau (học hỏi, xem sách báo, TV.) Đồng thời ở giai đoạn này tâm lý trẻ thường có những chuyển biến quan trọng, phát sinh những nhận thức và hành động có thể ảnh hưởng quan trọng đến hành vi dinh dưỡng sau này.
Trong tình hình xã hội chung hiện nay, nền kinh tế thị trường tác động mạnh mẽ đến sự phân hóa xã hội, đã hình thành nên 2 thái độ dinh dưỡng trái ngược nhau và đều nguy hại như nhau: Bên cạnh tình trạng suy dinh dưỡng vẫn chiếm một tỉ lệ đáng kể cho dù đã cải thiện nhiều so với thời gian trước đây, đã thấy xuất hiện và đang ngày càng phát triển tình trạng dư thừa dinh dưỡng dẫn đến béo phì. Có thể nói "Dinh dưỡng hợp lý là một hành lang an toàn nhỏ hẹp nằm giữa hai bờ vực thẳm của thiếu thốn và dư thừa".
II.2. Đảm bảo sự phát triển tốt nhất cho trẻ ở giai doạn 6 đến 11 tuổi :
Ở độ tuổi lên sáu, trẻ cần được bổ sung đầy đủ dưỡng chất để cơ thể phát triển toàn diện hơn. Những thực phẩm không cung cấp đủ chất dinh dưỡng hoặc không thích hợp sẽ ảnh hưởng đến trí thông minh của trẻ.
Đặc biệt khi xây dựng chế độ ăn uống cho trẻ, chúng ta cần phải tính đến những nhu cầu của cơ thể gắn với sự phát triển chiều cao, sự thay đổi các điều kiện môi trường bên trong cơ thể, sự phát triển thể lực và trí tuệ. Do vậy, một chế độ ăn uống tối ưu cần phải có sự cân bằng giữa tiếp nhận và tiêu hao các chất dinh dưỡng cơ bản.
II.2.1. Các thành phần cần thiết cho sự phát triển của trẻ:
Protit: Cá và sữa là hai thực phẩm giàu protit tốt nhất cho cơ thể trẻ. Xếp ở vị trí thứ hai là protit từ thịt, vị trí thứ 3 là các loại protit có xuất xứ từ thực vật. Mỗi ngày, trẻ cần phải tiếp nhận 75 - 90g protit. Đối với những protit có xuất xứ từ động vật khoảng 40 - 45g.
Trong khẩu phần cùa trẻ ở lứa tuổi đến trường nhất thiết phải có một số loại thực phẩm sau: sữa hoặc sữa chua, cá, thịt, trứng.
Chất béo: Cần chú ý cung cấp đầy đủ lượng chất béo trong khẩu phần ăn hàng ngày đó là các chất béo có trong thịt, sữa và cá.
Chất béo động vật hấp thụ khó hơn các chất béo thực vật và không chứa các loại axit béo, các loại vitamin cần thiết cho cơ thể. Lượng chất béo cần thiết cho trẻ ở độ tuổi đi học là 80 - 90g / ngày, chiếm 30% khẩu phần ăn hàng ngày. Đồng thời trong khẩu phần hàng ngày của bé cũng cần phải bổ sung : dầu ooliu, dầu thực vật và thịt lợn.
Carbohydrat: Carbohydrat cần để cung cấp thêm năng lượng cho cơ thể. Các carbohydrat phức tạp rất có lợi cho cơ thể. Mỗi ngày, trong khẩu phần ăn của trẻ cần phải có 300 - 400g carbohydrat, trong đó lượng carbohydrat đơn giản chỉ cần dưới 100g.
Các thực phẩm cần thiết có chứa carbohydrat là: bánh mỳ, khoai tây, mật ong, hoa quả khô, đường
Tóm lại sự kết hợp của ba nhóm chất này cần tuân theo tỷ lệ P : L : G = 1:1:4
Glucose: Não có thể phát triển tùy vào lượng glucose (đường trong máu). Đây được xem như nguồn "nhiên liệu" cần thiết. Bỏ một bữa ăn sáng có thể gây ra thiếu hụt glucose, đồng thời làm suy giảm nhận biết, khó tập trung.
Gan của trẻ chỉ tồn trữ lượng glucose này khoảng 4 giờ. Do đó, bé cần được ăn uống đầy đủ trước khi đến trường. Ở nhà, các bữa ăn của trẻ nên cách nhau từ 4 đến 5 giờ để giữ lượng đường quân bình trong máu và đủ để não hoạt động đúng chức năng.
Đặc biệt trong bữa ăn của trẻ phải đảm bảo một lượng vitamin và khoáng chất nhất định để hình thành các chức năng cho cơ thể
Acid folic: Chất này đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển các hồng cầu và bạch cầu. Vì thế, nếu bé nào cơ thể thiếu quá nhiều acid folic sẽ nhanh chóng cảm thấy mệt mỏi hoặc mau quên, dễ bị kích động,... sau khi tập trung học trong một thời gian ngắn.
Vitamin B: Loại vitamin này đóng vai trò "giải mã" năng lượng trong glucose. Thiếu hụt vitamin B, trẻ dễ "đổi tính", trở nên hung hăng, hiếu chiến, dễ thất vọng, chán nản...
Không có loại thức ăn nào cung cấp đủ nhóm vitamin B, vì vậy, bạn phải chọn nhiều loại thức ăn khác nhau. Ngoài ra, có thể cho bé uống bổ sung vitamin B theo chỉ định của bác sĩ.
Vitamin A: Dưỡng chất này đóng góp một phần không nhỏ trong việc phát triển và củng cố hệ thần kinh. Vitamin A còn được tìm thấy dưới dạng beta-carotene trong các loại rau cải có lá màu xanh đậm, những loại trái cây có sắc vàng...
Kẽm: Sự thiếu hụt kẽm trong cơ thể bé có thể ảnh hưởng đến khả năng nhận biết hoặc có thể làm khả năng này suy kém đi. Thịt và hải sản là nguồn cung cấp kẽm rất lớn. Ngoài ra, bạn có thể cho trẻ dùng thêm các loại đậu, ngũ cốc nguyên hạt, bí đỏ...
Chất sắt: Tình trạng thiếu chất sắt chủ yếu ở trẻ em, sắt đóng vai trò vận chuyển oxy trong máu đến các tế bào. Thiếu chất này, trẻ sẽ giảm tập trung, mất nhiệt huyết để đối đầu với thử thách và giảm động lực học hỏi.
Có thể chọn ngũ cốc cho bữa điểm tâm để tăng cường chất sắt cho cơ thể trẻ. Ngoài ra, trong bữa chính, bé nên dùng nhiều thịt có màu đỏ, cá hồi, cá ngừ, thịt gà, rau cải có lá xanh đậm...
Calcium: Calcium là một khoáng chất đóng vai trò rất quan đối với sự phát triển của xương. Nguồn cung cấp calcium là sản phẩm từ sữa, bơ, yaourt, nước cam, rau xanh, sản phẩm đậu nành. 500-600ml sữa mỗi ngày là lượng thích hợp cung cấp đủ calcium cho trẻ.
Folate: Đây là một loại vitamin quan trọng đối với sự phát triển của cơ thể. Nguồn cung cấp: ngũ cốc, rau xanh và đậu các loại. Bữa ăn sáng với bột ngũ cốc là một con đường tốt để tăng cường folate.
II.2.2. Các thực phẩm liên quan cần thiết sử dụng trong thực đơn:
Một bữa ăn đầy đủ dinh dưỡng phải bao gồm đủ 4 nhóm thực phẩm chính gồm: đường bột, béo, đạm, vitamin và khoáng chất. Bữa ăn Viêt Nam thường cho trẻ ăn chủ yếu là bột các loại nên bột là nguồn năng lượng chính (70 - 80%) của nhiều gia đình. Muốn có 1000 Calo cho trẻ phải ăn đến 200 - 230g bột. Với trẻ em tuổi càng nhỏ việc ăn bột là một gánh nặng cho nên trong đảm bảo năng lượng cần chú ý đến Dầu - Mỡ. Đó là nguồn cung cấp năng lượng cao lại vừa là chất hoá tan các loại vitamin A, D, E,... rất cần cho trẻ.
Năng lượng khi cung cấp không đủ, dù bữa ăn có cân đối, trẻ cũng bị suy dinh dưỡng hoặc cấp tính, hoặc trường diễn
Tuy nhiên, việc thay đổi thực đơn giúp tạo cảm giác ngon miệng cũng quan trọng không kém việc cung cấp đủ dinh dưỡng. Dưới đây là các loại thực phẩm được phân chia theo các nhóm chính mà từ đây chúng ta có thể thay đổi thực đơn nhưng vẫn đảm bảo đủ dinh dưỡng giúp hoàn thiện sự phát triển cho trẻ
Nhóm
Giá trị dinh dưỡng
Các loại thực phẩm
Chất bột đường
Năng lượng, chất xơ, vitamin, khoáng chất
Bánh mì, bột ngũ cốc, gạo, mì sợi, khoai, bánh làm từ bột các loại
Chất béo
Protein, calcium, carbohydrate, vitamin và khoáng chất
Bơ, sữa, các sản phẩm từ bơ, sữa
Chất đạm
Protein, sắt, vitamin và khoáng chất
Thịt - cá các loại, trứng, các loại hạt, đậu
Vitamin và khoáng chất
Vitamin và khoáng chất, bao gồm cả vitamin A, C; chất xơ
Tất cả các loại rau, trái cây (bao gồm cả tươi, khô và nước ép)
Sau đây là một số thực phẩm có chứa rất nhiều vitamin và khoáng chất mà bạn có thể áp dụng để chế biến các món ăn trong thực đơn hàng ngày của trẻ.
- Thực phẩm giàu vitamin A: cà rốt, ớt đỏ, hành, rau bina, rau xanh.
- Thực phẩm giàu vitamin C: cà chua, khoai tây, rau mùi, rau thìa là, cam, quýt, quả phúc bồn tử.
- Thực phẩm chứa nhiều vitamin E: gan, trứng, gạo.
- Thực phẩm giàu vitamin B: sữa, váng sữa, gan, thịt, trứng, bắp cải, táo, cà chua, các loại cây họ đậu.
- Các loại muốn khoáng và vi chất: muối i ốt, sắt, flo, coban, đồng….
II.3. Một số hội chứng thường gặp ở lứa tuổi này và biện pháp phòng chống:
II.3.1 Hội chứng chán ăn
Nguyên nhân gây ra tính chán ăn của trẻ:
- Do bệnh tật.
- Do chế độ ăn không hợp lý.
- Do trẻ ăn không đúng bữa và ăn vặt.
- Do yếu tố tâm lý.
Cách khắc phục:
- Nguyên tắc thực hiện cần tinh tế và kiên trì.
- Tuyệt đối không nên tạo ra 1 sự thay đổi quá lớn về chế độ ăn mà cần tăng dần dần để đạt được lượng nhu cầu ở tuổi của trẻ.
- Không nên uống quá nhiều loại thuốc để điều trị triệu chứng lâm sàng. Bước đầu chỉ nên có sự can thiệp nhỏ, áp dụng các tiến trình chăm sóc và nuôi dưỡng tại nhà theo đúng chỉ dân của bác sĩ dinh dưỡng.
II.3.2 Béo phì
Nguyên nhân:
- Do yếu tố di truyền bẩm sinh.
- Sự thiếu hoặc ít hoạt động thể lực, gây ra sự tồn động các chất sinh nhiệt lượng carburants dư thừa, tích lai dưới dạng các khối mỡ.
- Thói quen ăn uống thiếu khoa học của gia đình đóng vai trò rất quan trọng.
- Ngoài ra, nguyên nhân ít gặp là do căn bệnh về nội tiết(Prader-Willi) như sự hoạt động không tốt của các tuyến thượng thận tuyến giáp…
Biện pháp ngăn ngừa:
- Cần có một chế độ ăn hợp lý, cố gắng giảm đậm độ năng lượng của thức ăn chứa nhiều chất béo (lipid), đường ngọt mà tăng cường ăn những loại thức ăn có nhiều glucid phức hợp và rau quả.
- Tăng cường hoạt động thể lực và lối sống năng động (chơi thể thao, tập thể dục, lao động).
- Nên thường xuyên theo dõi cân nặng của bản thân để tự điều chỉnh.
II.3.3 Suy dinh dưỡng
Nguyên nhân:
- Thiếu ăn, bữa ăn thiếu số lượng, thiếu các chất cần thiết để phát triển.
- Do người mẹ bị suy dinh dưỡng. Người mẹ trước và trong khi mang thai ăn uống không đầy đủ dẫn đến bị SDDà đứa trẻ sinh ra nhẹ cân,còi cọc…
- Các bệnh nhiễm khuẩn như: viêm đường hô hấp, tiêu chảy, các bệnh ký sinh trùng…
- Thiếu chăm sóc hay đứa trẻ bị bỏ rơi.
Biện pháp phòng chống SDD:
- Thực hiện tốt việc nuôi con bằng sữa mẹ.
- Cho trẻ ăn bổ sung hợp lý.
- Thực hiện chăm sóc dinh dưỡng tốt khi trẻ bị ốm.
- Theo dõi cân nặng của trẻ bằng biểu đồ tăng trường.
- Phòng chống nhiễm giun sán ở trẻ em.
- Chăm sóc dinh dưỡng cho bà mẹ mang thai.
- Đưa trẻ đi khám và tư vấn dinh dưỡng theo định kỳ.
Bảng tăng trưởng cân nặng và chiều cao ( theo tiêu chuẩn NCHS)
Tuổi
Cân nặng(kg)
Chiều cao(cm)
1
9,5
75
2
12
85
6
20
116-118
10
32
138-140
18
55-56
168-170
II.4. Chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ:
Từ 6 tuổi trẻ bắt đầu đi học, các chất dinh dưỡng cung cấp hàng ngày cho trẻ qua thức ǎn không chỉ để trẻ phát triển về thể chất, mà còn cung cấp nǎng lượng cho trẻ học tập. Trung bình trẻ từ 7-12 tuổi cần khoảng 35-50g protein / ngày. Vì vậy ǎn uống hợp lý ở lứa tuổi này giúp trẻ thông minh, khoẻ mạnh và phòng chống được bệnh tật.
Nhưng ở lứa tuổi này, nếu cho trẻ ǎn uống quá mức sẽ dẫn đến thừa cân và béo phì, tình trạng này đang có xu hướng gia tǎng trong những nǎm gần đây, nhất là ở các thành phố lớn. Ngược lại nếu ǎn không đủ trẻ sẽ bị còi cọc, hay ốm đau, bị thiếu máu hay buồn ngủ, ngủ gật trong giờ học dẫn đến học kém và chán học
Để cung cấp đầy đủ năng lượng trong ngày cho trẻ ta có thể bố trí bữa ăn của trẻ ra nhiều bữa nhỏ nhằm tránh tình trạng ăn vặt của ttrẻ, ăn quá no và giúp trẻ dễ tiêu hóa hơn.
Bảng 1: Nhu cầu dinh dưỡng của tuổi này
Lứa tuổi
Năng lượng (kcal)
Protein(g)
Chất khoáng
Vitamin
Ca(mg)
Fe(mg)
A(mcg)
B1(mg)
B2(mg)
PP(mg)
C(mg)
Trẻ em
4-6 tuổi
1600
36
500
7
400
1,1
1,1
12,1
45
7-9 tuổi
1800
40
500
12
400
1,3
1,3
14,5
55
Nam thiếu niên
10-12 tuổi
2200
50
700
12
500
1,0
1,6
17,2
65
Nữ thiếu niên
10-12 tuổi
2100
50
700
12
700
0,9
1,4
15,5
70
Cụ thể một ngày nhu cầu về các loại thực phẩm ở lứa tuổi này như sau:
Tên thực phẩm
Trẻ 6 – 9 tuổi
10 - 12 tuổi
1. Gạo
220 - 250g
300- 350g
2. Thịt
50g
70g
3. Cá(tôm)
100g
150g
4.Đậu phụ
100g
150g
5. Trứng
1/2 quả
1quả
6.Dầu(mỡ)
20g
25g
7.Sữa
400 – 500ml
400 – 500ml
8.Đường
10 – 15g
15 – 20 g
9.Rau xanh
250 – 300g
300 – 500g
10. Quả chín
150 – 200g
200 – 300g
Chú ý : Nếu không có điều kiện chế biến nhiều loại món ǎn trong một ngày thì có thể tính lượng đạm của trẻ như sau:
Cứ 100g thịt nạc tương đương với 150g cá hoặc tôm, 200g đậu phụ, 2 quả trứng vịt hoặc 3 quả trứng gà.
Nếu ǎn các loại bún, miến, phở, khoai, ngô, sắn thì phải giảm bớt lượng gạo đi
II.5. Một số điểm chú ý khi thiết kế thực đơn cho trẻ
Lứa tuổi này trẻ đã hoàn toàn ǎn cùng với gia đình. Tuy nhiên chúng ta cần lưu ý một số điểm sau
Cho trẻ ǎn no và nhiều vào bữa sáng(để tránh ǎn quà vặt ở đường phố, hoặc một số trẻ ǎn quá ít, nhịn sáng sẽ ảnh hưởng đến kết quả học tập, thậm chí hạ đường huyết trong giờ học).
Nên cho trẻ ǎn nhiều loại thực phẩm khác nhau, tránh ǎn một vài loại nhất định.
Khuyến khích trẻ ǎn nhiều rau, để tránh táo bón, đồng thời cung cấp nhiều vi chất dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển của trẻ.
Ǎn đúng bữa, không ǎn vặt, không ǎn bánh, kẹo, nước ngọt trước bữa ǎn
Không nên nấu thức ǎn quá mặn, tập thói quen ǎn nhạt.
Không nên ǎn quá nhiều bánh kẹo, nước ngọt vì dễ bị sâu rǎng.
Đến bữa ǎn nên chia suất ǎn riêng cho trẻ, để tránh ǎn quá ít hoặc quá nhiều.
Tập thói quen uống nước kể cả khi không khát, lượng nước nên uống một ngày 1 lit.
Giáo dục cho trẻ thói quen vệ sinh ǎn uống: rửa tay trước khi ǎn và sau khi đi đại tiện.
Số bữa ǎn : nên chia 4 bữa 1 ngày: 3 bữa chính một bữa
- Ngoài ra chúng ta cần biết nên hoặc không nên cho trẻ ăn những loại thực phẩm nào:
Nên cho trẻ ăn:
- Chuối: Nguồn cung cấp kali và vitamin B6.
- Chồi cải bắp: Có bêta-caroten, folacin (acid folic), vitamin C, sắt, calci, sulforafan (chất quan trọng trong kích thích sản xuất các enzym giúp bảo vệ cơ thể khỏi ung thư).
- Dưa hấu vàng: Có bêta-caroten và vitamin C.
- Ngũ cốc có cám: Giàu chất xơ.
- Rau bi-na: Cung cấp calci, vitamin B6, B2, bêta-caroten, sắt và folacin.
- Mầm lúa mạch: Cung cấp vitamin E.
- Hạt bí: Chất xơ, sắt, kẽm, magiê, đồng.
- Hạt hướng dương: Vitamin E.
- Dầu ôliu: Chất béo đơn chưa bão hòa.
- Sữa: Calci và vitamin D.
- Họ đậu: Sắt, kẽm, magiê, đồng, folacin, chất xơ.
- Cam: Giàu vitamin C.
- Bánh mì: Sắt, vitamin B1, B2, B3, B6, E, folacin, đồng, magiê, kẽm.
- Khoai lang ngọt: Bêta-caroten, đồng, vitamin C và B6.
- Cá: Acid béo omêga-3 và selen, chất chống oxy hóa.
- Sữa bột gạn kem: Calci và vitamin D.
- Thịt gà: Giàu protein, nghèo chất béo (khi không sử dụng da)
- Gạo lức: Là loại gạo duy nhất có vitamin E
- Gạo trồng tự nhiên: Nhiều chất kẽm hơn so với các loại gạo khác, nguồn magiê, chất xơ và vitamin B6.
- Cám yến mạch: Chứa chất xơ tan được giúp kiểm soát lượng đường trong máu
- Sữa chua: Hiệu quả trong phòng ngừa và điều trị chứng tiêu chảy.
20 loại thực phẩm trên đến từ nhiều nguồn khác nhau và là lý do tốt để đa dạng hóa chế độ dinh dưỡng. Trái cây và rau cung cấp chủ yếu chất xơ, khoáng chất và các vitamin trong đó có một số loại có tác dụng chống oxy hóa (phòng ngừa ung thư và củng cố hệ miễn dịch).
Không nên cho trẻ ăn
- Thịt lợn ướp: Chúng có nhiều chất béo bão hòa, muối và một số phụ gia không tốt cho sức khỏe.
- Đường cô đặc: Chỉ nên cho trẻ ăn chocolate, uống nước có gas… nếu có dịp, tránh sử dụng thường xuyên trong các bữa ăn. Hơn nữa, đường làm giảm sự thèm ăn trái cây vì thường trái cây không ngọt đậm. Ăn nhiều đường sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe răng miệng vì hầu hết các trẻ rất thích đồ ngọt.
- Muối: Các bà mẹ cần nếm kỹ món ăn của trẻ trước khi bỏ thêm muối vào, bởi vì ăn nhiều muối sẽ làm tăng nguy cơ tăng huyết áp động mạch ở người lớn và ngăn sự phát triển vị giác ở trẻ.
- Cafein: Có trong trà, cà phê, hạt cola, chocolate... Đây là những chất kích thích có thể làm tăng áp huyết động mạch, gây hồi hộp cũng như các chứng đau đầu. Các nguyên cứu cho thấy, nếu trẻ uống một tách nhỏ cola mỗi ngày thì tác dụng kích thích chưa đủ nhưng vượt quá lượng đó, trẻ sẽ trở nên bồn chồn hơn và rất khó ngủ.
- Snack: Trẻ nhỏ rất thích đồ ăn vặt giàu chất béo và muối, nhưng không nên cho ăn thường xuyên và quá nhiều bởi chúng làm mất cảm giác ngon miệng.
II.6. Xây dựng thực đơn cho trẻ:
Nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ trong 1 ngày
Trẻ ở độ tuổi 6-11tuổi có trọng lượng trung bình W= 27kg
Chiều cao trung bình H=127cm
Diện tích da S=0.0087.(W+H)-0.26
=0.0087.(27+127)-0.26
=1.0798
Vậy năng lượng chuyển hóa cơ bản trong một ngày
E1=1,0798x24x51=1321.68 Kc
File đính kèm:
- DINH DUONG 611.doc