Đề tài Đổi mới phương pháp dạy- học toán chuyển động đều lớp 5A

Công cuộc đổi mới kinh tế xã hội đang diễn ra từng ngày, từng giờ trên khắp đất nước. Nó đòi hỏi phải có những lớp người lao động mới, có bản lĩnh, có năng lực, chủ động sáng tạo, dám nghĩ dám làm, thích ứng được với thực tiễn xã hội luôn đổi thay và phát triển. Nhu cầu này đòi hỏi giáo dục phải có sự thay đổi cho phù hợp với tình hình đất nước và thực sự ngành giáo dục đã từng bước thay đổi, thể hiện qua việc xác định mục đích giáo dục đào tạo hay nói đúng hơn là phát triển toàn diện về nhân cách con người.

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 4374 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đổi mới phương pháp dạy- học toán chuyển động đều lớp 5A, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đổi mới phương pháp dạy- học toán chuyển động đều lớp 5A 1.Lý do chọn đề tài: -Công cuộc đổi mới kinh tế xã hội đang diễn ra từng ngày, từng giờ trên khắp đất nước. Nó đòi hỏi phải có những lớp người lao động mới, có bản lĩnh, có năng lực, chủ động sáng tạo, dám nghĩ dám làm, thích ứng được với thực tiễn xã hội luôn đổi thay và phát triển. Nhu cầu này đòi hỏi giáo dục phải có sự thay đổi cho phù hợp với tình hình đất nước và thực sự ngành giáo dục đã từng bước thay đổi, thể hiện qua việc xác định mục đích giáo dục đào tạo hay nói đúng hơn là phát triển toàn diện về nhân cách con người. 2.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu: Đổi mới phương pháp dạy- học toán chuyển động đều lớp 5A Trường tiểu học - Khách thể nghiên cứu: Tập thể học sinh lớp 5A Trường Tiểu Học . 3/.Đề tài đưa ra giải pháp mới: -Đề cao vai trò chủ thể của người học ,tăng cường tính tự giác,tích cực và sáng tạo của hoạt động học tập. -Dạy tự học cho học sinh -Đưa cái mới vào dạy học một cách hợp lí để tạo ra sự phát triển mới để nâng cao hiệu quả đào tạo mà vẫn giữ được ổn định 4/. Hiệu quả áp dụng: Khi áp dụng các giải pháp mới tôi thu được kết quả rất cao . Học sinh biết được mối quan hệ giữa vận tốc , quãng đường, thời gian. Học sinh biết đổi đơn vị đo độ dài,đơn vị đo thời gian ,đơn vị đo vận tốc. -Học sinh độc lập làm việc hoặc hợp tác với nhóm là những thành viên trong lớp để tìm ra kiến thức mới. 5/.Phạm vi áp dụng: - Đề tài này trước mắt tôi chỉ áp dụng trong phạm vi trường Tiểu học trong năm học 2007-2008. ĐẶT VẤN ĐỀ I/ Lý do chọn đề tài: -Công cuộc đổi mới kinh tế xã hội đang diễn ra từng ngày, từng giờ trên khắp đất nước. Nó đòi hỏi phải có những lớp người lao động mới, có bản lĩnh, có năng lực, chủ động sáng tạo, dám nghĩ dám làm, thích ứng được với thực tiễn xã hội luôn đổi thay và phát triển. Nhu cầu này đòi hỏi giáo dục phải có sự thay đổi cho phù hợp với tình hình đất nước và thực sự ngành giáo dục đã từng bước thay đổi, thể hiện qua việc xác định mục đích giáo dục đào tạo hay nói đúng hơn là phát triển toàn diện về nhân cách con người. -Sự bùng nổ về thông tin và những thay đổi diễn ra hằng ngày trong đời sống do sự phát triển quá nhanh chóng của khoa học và công nghệ làm cho nội dung giáo dục của nhà trường luôn luôn bị tụt hậu.Mặc dù nhà trường đã chồng chất lên đôi vai non nớt của học sinh những gánh nặng của tri thức khoa học.Để giải quyết vấn đề này phải lựa chọn một trong hai con đường: 1.Thứ nhất tiếp tục tạo ra sự “quá tải” đối với nội dung dạy học mặc dù đã hiện đại hoá các nội dung dạy học đó.Trước gánh nặng của tri thức qui định trong chương trình giảng dạy,giáo viên chỉ có thể là người truyền đạt và áp đặt,học sinh cũng chỉ thụ động tiếp nhận.Người ta ví cách dạy học này như việc chất đầy kiến thức vào một cái thùng rỗng.Rõ ràng cách dạy này nổi lên hoạt động của giáo viên còn vai trò của người học thì lu mờ, thụ động. 2. Thứ hai,đổi mới cách lựa chọn nội dung dạy học sao cho chọn ra được một khối lượng tối thiểu kiến thức cơ bản nhất, cập nhật nhất,cần thiết nhất cho mọi học sinh,tích hợp chúng lại nâng cao chất lượng của nội dung bắt buộc cho mỗi học sinh.Mặt khác,dạy cho học sinh phương pháp tự học,tự phát hiện vấn đề mới,tự tìm cách giải quyết vấn đề đó và ứng dụng chúng theo năng lực của mỗi học sinh.Làm được như vậy sẽ vừa có thể ổn định nội dung dạy học,vừa tạo cho học sinh năng lực và nhu cầu học tập thường xuyên để thích ứng với yêu cầu luôn biến động của cuộc sống,vừa cá thể hoá hoạt động dạy học để phát triển năng lực,sở trường của mỗi học sinh. -Con đường thứ hai đòi hỏi giáo viên phải lựa chọn nội dung và phương pháp dạy học theo từng đối tượng học sinh,phải dạy xuất phát từ trình độ, năng lực điều kiện cụ thể của từng học sinh, do đó phải cá thể hoá dạy học.Như thế giáo viên không phụ thuộc vào các tài liệu sẵn có; cũng không thể dạy học theo kiểu bình quân, đồng loạt áp đặt;không thể chỉ thuyết giảng, làm mẫu như trước mà là người tổ chức, hướng dẫn quá trình học tập của học sinh.Sự thay đổi kiểu hoạt động của giáo viên không làm giảm mà thực chất làm tăng vị trí và vai trò chủ động sáng tạo của giáo viên, kéo theo sự thay đổi hoạt động của học sinh làm cho mỗi học sinh học tập chủ động, tích cực và sáng tạo theo khả năng của mình ở từng lĩnh vực của nội dung dạy học và giáo dục.Chính vì vậy, cách dạy học này gọi là dạy học cách phát huy tính tích cực học tập của mỗi học sinh, dạy học tập trung vào người học. -Đổi mới phương pháp góp phần rất quan trọng vào đổi mới nội dung dạy học, đổi mới chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội hiện đại và đáp ứng yêu cầu tự làm hoàn thiện của con người trước những đòi hỏi của kinh tế và xã hội. -Đổi mới phương pháp dạy học sẽ thúc đẩy đổi mới giáo dục tiểu học về mục tiêu, nội dung,cơ sở vật chất và thiết bị, đánh giá đào tạo và bồi dưỡng giáo viên. -Qua nhiều năm dạy học,tôi đã nghiên cứu và đúc kết một số kinh nghiệm về đổi mới phương pháp dạy học toán chuyển động đều,kết quả rất thiết thực các em nắm vững kiến thức, biết nhận dạng bài toán, định hướng giải quyết bài toán, và biết chọn phương pháp tốt nhất để giải. -Thực tiễn cho thấy, những bước chuyển tiếp theo lên bậc trung học cơ sở, học sinh rất cần một nền móng vững vàng, cơ bản cho việc chuyển giao ấy. Chính vì thế, lớp 5 là lớp cuối bậc tiểu học nên việc đòi hỏi kiến thức sâu rộng ở môn toán là rất quan trọng và hết sức cấn thiết. -Hơn nữa, việc học tập của học sinh đa số là được học từ thầy giáo, còn phụ huynh chỉ có vai trò động viên, nhắc nhở các em trong việc học tập ở nhà, chứ chưa có phương pháp giúp các em tự học. Đa số phần kiến thức ở sách giáo khoa liên tục đổi mới về nội dung kiến thức nên các bậc phụ huynh không nắm bắt được rõ ràng vì vậy có phần hạn chế trong việc giúp đỡ các em học tập ở nhà được tốt hơn. -Điều đáng nói ở đây là học sinh rất chậm về các bài toán dạng chuyển động đều. Các em ít hứng thú trong học tập, không hình dung ra hướng giải quyết, học sinh có định hướng được thì cũng không biết cách trình bày như thế nào cho đúng, rõ ràng, mạch lạc, lô gic. -Qua thực trạng, thực tiễn dạy học kết hợp nội dung chương trình sách giáo khoa mới và trình độ của đối tượng học sinh ngay từ đầu năm nên tôi đã quyết định chọn đề tài “Đổi mới phương pháp - dạy học toán chuyển động đều ở lớp 5A” để nghiên cứu và rút kinh nghiệm cho bản thân trong quá trình dạy học. II-Đối tượng nghiên cứu: -Đối tượng nghiên cứu của đề tài là giáo viên và học sinh lớp 5A Trường Tiểu Học năm học 2007-2008 III-Phạm vi nghiên cứu: -Do điều kiện thời gian và bản thân bận công tác nên phạm vi nghiên cứu của đề tài tôi chỉ tìm hiểu trong phạm vi lớp 5A và học sinh khối 5 Trường Tiểu Học năm học 2007-2008 IV-Phương pháp nghiên cứu: 1-Thực hiện đề tài này tôi đã kết hợp sử dụng các phương pháp sau : Phương pháp đọc , phân tích tổng hợp tài liệu : -Tôi đã tìm đọc và phân tích tổng hợp các tài liệu có liên quan đến đề tài để tìm hiểu cơ sở lý luận và lịch sử của đề tài như: +Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy học các môn học lớp 5 –Tập 2. + Sách giáo khoa Toán 5 +Sách giáo viên Toán 5 +Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kì III. +Tạp chí thế giới trong ta. b- Phương pháp trò chuyện : *Đối với phụ huynh: -Trò chuyện với cha mẹ học sinh qua các buổi họp phụ huynh học sinh đầu năm và giữa kì để nắm rõ hoàn cảnh của mỗi học sinh.Từ đó động viên an ủi, phân tích cho phụ huynh thấy được tầm quan trọng của việc học như thế nào, để từ đó có hướng khắc phục cho con em mình. *Đối với học sinh: -Trong những ngày đầu làm quen với các em, tôi cố gắng tạo được bầu không khí vui tươi ấm áp của ngôi nhà thứ hai, mà tôi là người mẹ mẫu mực để các em yêu thương tin tưởng.Từ đó sẽ gặp nhiều thuận lợi trong việc giảng dạy. -Tôi tìm hiểu từng em nắm được tâm tư tình cảm và giúp đỡ các em khắc phục khó khăn mà các em đang gặp. -Tôi giúp các em bao bìa dán nhãn, đồng thời mua sắm thêm những dụng cụ học tập cho các em trong khả năng của mình để các em đủ điều kiện học tập tốt hơn. -Tôi luôn nhắc nhở mình nếu có quyết tâm với nghề thì phải yêu thương các em như con em của mình thì mới đạt kết quả như ý muốn. -Muốn có một mái nhà thứ hai tuyệt vời thì phải có nề nếp quy cũ mà mình đề ra.Đồng thời luôn động viên, đôn đốc các em thực hiện tốt theo nề nếp của lớp mình. *Đối với bản thân: -Tôi luôn luôn tiếp thu những ý kiến đóng góp của phụ huynh. Sửa chữa kịp thời những sai sót của bản thân.Học hỏi thêm kinh nghiệm ở đồng nghiệp.Tham dự đầy đủ các buổi học tập chuyên đề do trường và Phòng tổ chức. Đồng thời tham khảo thêm những tài liệu về chuyên môn để cung cấp thêm cho mình một vốn kiến thức về phương pháp giảng dạy tốt hơn. c. Điều tra: - Dự giờ lớp 5 để tìm hiểu và quan sát cách dạy của giáo viên và cách học của học sinh…… - Thực nghiệm vận dụng đề tài ở lớp 5A và đối chứng ở các lớp còn lại. - Phát phiếu học tập cho học sinh làm những bài tập trắc nghiệm để nắm bắt thông tin. - Đàm thoại với giáo viên và học sinh để tìm hiểu về tình hình học tập và thực trạng học Toán ở từng lớp. - Cho học sinh làm bài tập hoặc bài kiểm tra để tìm hiểu chất lượng học tập của từng lớp khi học toán chuyển động đều . d. Phương pháp giảng giải, minh họa: Sử dụng phương pháp này, giáo viên dùng lời nói để giải thích kết hợp với các phương tiện trực quan, hổ trợ cho việc giải thích. Giáo viên nói gọn, rõ ràng, nói ít nhưng minh họa nhiều để học sinh khắc sâu kiến thức. B-NỘI DUNG I-Cơ sở lí luận: -Đối với đề tài“Đổi mới phương pháp dạy- học toán chuyển động đều lớp 5A Trường tiểu học ”. có lẻ đã có nhiều người nghiên cứu. Nhưng đối với tôi đó là điều mới mẽ cấp bách và cần thiết. Xuất phát từ thực tế trong việc giảng dạy,tôi thấy rằng việc nghiên cứu đề tài này giúp ích nhiều cho tôi trong công việc giảng dạy. II-Cơ sở thực tiễn: a-Thực trạng ở lớp: -Học sinh lớp 5A trường tiểu học là môi trường thuộc vùng nông thôn sâu của xã . Đa số học sinh là con nông dân , đời sống kinh tế người dân ở đây còn rất thấp ngoài giờ học các em còn phải làm công việc phụ giúp cha mẹ. Nhìn chung hoàn cảnh sống của học sinh lớp tôi phần đông chỉ đủ ăn đủ mặc. Các em tự học là chính, chưa được sự quan tâm giúp đỡ của gia đình. b-Thực trạng giáo viên: -Hiện nay,một số giáo viên vẫn còn dạy toán chuyển động đều lớp 5 với phương pháp dạy học truyền thống, thiên về chủ yếu truyền đạt thông tin, coi giáo viên là trung tâm của quá trình dạy học.Nhiều giáo viên còn dạy “chay” áp đặt, chỉ đưa ra quy tắc, công thức rồi cho học sinh áp dụng vào bài tập mà không tổ chức, hướng dẫn các em từng bước hình thành kiến thức mới. Kết quả là học sinh học tập thụ động, chủ yếu chỉ nghe theo, suy nghĩ và làm theo thầy giáo , ít có sự sáng tạo; việc học của học sinh vì thế diễn ra nặng nề, đơn điệu. Học sinh không hứng thú học tập. -Mặt khác chương trình toán chuyển động đều lại không có đồ dùng trực quan, nên rất dễ gây nhàm chán cho các em. -Tâm lí học cho rằng: Học tập là một quá trình, trong đó người học xây dựng kiến thức cho mình bằng cách liên hệ những cảm nghiệm mới với những kiến thức và kinh nghiệm sẵn có, thông thường ở mỗi học sinh đã có một quan niệm, kinh nghiệm nào đó gần gũi hoặc liên quan tới kiến thức mới, chúng có thể tạo thuận lợi cho quá trình nhận thức mới của các em. Trong thực tế, một số giáo viên ít quan tâm đến vấn đề này, tự cho mình quyền áp đặt kiến thức, làm hạn chế rất nhiều đến việc phát huy tính chủ động, sáng tạo của mỗi học sinh. III/ Nội dung vấn đề: -Trong quá trình thực hiện giải pháp trên, điều tôi suy nghĩ trước tiên là làm sao để học sinh thực sự yêu thích môn Toán . Để làm tốt những vấn đề trên cần tổ chức thực hiện những yêu cầu sau: 1.Đổi mới phương pháp dạy học toán chuyển động đều lớp 5A: -Những phương pháp giáo dục phổ thông phải biết phát huy tính tích cực tự giác,chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với từng đặc điểm của từng lớp học; bồi dưỡng phương pháp tự học ,rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Để thực hiện điều đó, việc đổi mới phương pháp dạy học toán chuyển động đều phải chú ý các định hướng: a.Đề cao vai trò chủ thể của người học tập,tăng cường tính tự giác,tích cực và sáng tạo của hoạt động học tập: -Cần phải thực sự coi học sinh là chủ thể nắm tri thức, rèn luyện kỹ năng; các em không phải hoàn toàn thụ động làm theo những điều bắt buộc của thầy giáo. Để làm được điều này trong dạy học, thay cho thuyết trình, đọc,… nói theo tài liệu, giáo viên huy động tối đa kinh nghiệm và vốn tri thức có sẵn của học sinh vào việc dẫn dắt các em tự phát triển tri thức mới của bài học. Giáo viên thiết kế hệ thống câu hỏi, bài tập giao cho học sinh thực hiện với sự hướng dẫn cần thiết; tổ chức các hoạt động như quan sát, thực hành trò chơi học tập…động viên các em tham gia tích cực nhằm qua đó lĩnh hội kiến thức. -Dạy học nhưng thực chất là việc tổ chức cho học sinh học trong hoạt động và bằng hoạt động tự giác, tích cực sáng tạo để học sinh tự phát hiện và tự chiếm lĩnh tri thức mới, vận dụng linh hoạt vào các tình huống khác nhau của cuộc sống . Đó là dạy học đề cao vai trò chủ thể nhận thức của học sinh. b.Dạy tự học cho học sinh -Trong nhà trường học sinh không thể học hết khối lượng tri thức nhân loại ngày càng tăng lên nhanh chóng trong mọi lĩnh vực.Việc học cần phải diễn ra suốt đời của mỗi một người. Giáo viên cần rèn luyện cho các em tự học ngay trong quá trình học tập ở trên ghế nhà trường.Vì vậy quá trình dạy học bao gồm cả dạy tự học. Đề cao vai trò chủ thể của học sinh trong học tập chính là điều kiện quan trọng trong việc dạy tự học. Bởi vì các em là “sự biến đổi bản thân mình trở nên có giá trị, bằng nổ lực của chính mình để chiếm lĩnh những giá trị mới lấy từ bên ngoài là một hành trình nội tại, được cắm mốc bởi kiến thức, phương pháp tư duy là sự thực hiện tự phê bình, để tự tìm hiểu bản thân mình.” c. Đưa cái mới vào dạy học một cách hợp lí để tạo ra sự phát triển mới để nâng cao hiệu quả đào tạo mà vẫn giữ được ổn định. -Đổi mới phương pháp dạy học trên cơ sở phát huy mặt tích cực của các phương pháp dạy học truyền thống. -Các phương pháp dạy học truyền thống gồm: quan sát, hỏi –đáp, thuyết trình….trong khi sử dụng các phương pháp này, giáo viên phải sử dụng nó theo quan điểm phát triển, kích thích và phát huy vai trò chủ động ,tích cực nhận thức của người học. Giáo viên không nên làm bài thay tất cả cho học sinh mà nên tăng cường tối đa sự tham gia của học sinh và giảm đến mức tối thiểu sự áp đặt của giáo viên trong quá trình dạy học. -Liên quan đến việc đổi mới phương pháp dạy học, đòi hỏi phải được cải tiến thiết bị dạy học,hình thức dạy học và kiểm tra đánh giá trong dạy học. 2.Phương pháp dạy học bài mới: a. Giúp học sinh tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề của bài học: -Giúp học sinh huy động những kiến thức và kinh nghiệm đã được tích luỹ để tự mình (hoặc cùng các bạn trong từng nhóm nhỏ) tìm mối quan hệ của vấn đề đó với các kiến thức đã biết (đã được học ở các lớp, giáo viên hướng dẫn học sinh tự phát hiện vấn đề của bài học rồi trước hoặc đã có trong vốn sống của bản thân….) rồi tự tìm cách giải quyết vấn đề. b.Tạo điều kiện cho học sinh củng cố và vận dụng kiến thức mới học ngay trong tiết học của bài mới để học sinh bước đầu tự chiếm lĩnh kiến thức mới -Trong sách giáo khoa toán 5, sau phần học bài mới thường có 3 bài tập để học sinh củng cố kiến thức mới học qua thực hành và bước đầu vận dụng kiến thức mới học để giải quyết vấn đề liên quan trong học tập và trong đời sống.Giáo viên nên chọn trong số bài tập này một số bài tập cho học sinh làm và chữa ngay tại lớp. Học sinh có thể làm tiếp tục bài tập còn lại ngay tại lớp (nếu còn thời gian) hoặc có thể làm bài khi tự học. -Quá trình tự phát hiện , tự giải quyết vấn đề của bài học, bước đầu vận dụng kiến thức mới, thực hiện “ học qua hoạt động”. 3. Phương pháp dạy học các bài luyện tập, luyện tập chung. -Cũng như sách giáo khoa toán ở các lớp 1, 2, 3, 4 , sách giáo khoa toán 5 dành một thời lượng thích đáng để dạy học các bài luyện tập, luyện tập chung ( gọi chung là các bài luyện tập, thực hành). Mục tiêu chung của dạy học các bài luyện tập thực hành là củng cố nhiều lượt các kiến thức học sinh mới chiếm lĩnh được, hình thành và phát triển các kĩ năng cơ bản, hệ thống hoá các kiến thức đã học, góp phần phát triển khả năng diễn đạt và trình độ tư duy của học sinh khuyến khích học sinh phát triển năng lực học tập toán. -Các bài tập trong các bài luyện tập, thực hành thường sắp xếp theo thứ tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ thực hành và luyện tập trực tiếp đến vận dụng một cách tổng hợp và linh hoạt hơn. Giáo viên có thể tổ chức dạy học các bài tập.Thực hành như sau: a/ Hướng dẫn học sinh nhận ra các kiến thức đã học,trong đó có các dạng bài tương tự trong các bài tập đa dạng và phong phú của toán 5. -Nếu học sinh tự đọc (đọc thành tiếng hoặc đọc thầm ) đề tài và tự nhận ra được dạng bài tương tự hoặc các kiến thức đã học trong mối quan hệ cụ thể của nội dung bài tập tự học sinh sẽ biết cách làm bài và trình bày bài làm. Nếu học sinh nào chưa tự nhận ra được bài làm tương tự hoặc các kiến thức đã chọn trong bài tập thì giáo viên nên giúp học sinh bằng cách hướng dẫn, gợi ý (hoặc tổ chức cho học sinh khác giúp bạn ) để tự học sinh nhớ lại kiến thức, cách làm, … Giáo viên không nên làm thay những gì học sinh có thể tự làm được. b. Giúp học sinh tự làm bài theo khả năng của từng học sinh. -Giáo viên nên yêu cầu học sinh làm lần lượt các bài tập theo thứ tự đã có trong sách giáo khoa ( hoặc do giáo viên lựa chọn rồi sắp xếp lại) , không tự ý bỏ qua bài tập nào kể cả các bài tập học sinh cho là dễ. Cần lưu ý học sinh, các bài tập củng cố trực tiếp kiến thức mới học cũng quan trọng cho mọi đối tượng học sinh . -Không nên bắt học sinh phải chờ đợi nhau trong quá trình làm bài, học sinh đã làm xong bài tập nào nên tự kiểm tra ( hoặc nhờ các bạn trong nhóm hoặc nhờ giáo viên kiểm tra) rồi chuyển sang làm bài tập tiếp theo. -Giáo viên nên chấp nhận trong cùng một khoảng thời gian, có học sinh làm nhiều bài tập hơn học sinh khác. Giáo viên nên trực tiếp hổ trợ hoặc tổ chức cho học sinh khá, giỏi hỗ trợ học sinh yếu cách làm bài, không làm thay học sinh. Giáo viên nên khuyến khích học sinh khá giỏi hoàn thành các bài tập trong sách giáo khoa ngay trong tiết học và giúp các bạn làm bài chậm hơn khi đã chữa bài trong nhóm, trong lớp. Nói chung ở trên lớp giáo viên nên có kế hoạch tổ chức cho học sinh làm hết các bài tập do giáo viên đã lựa chọn trong sách giáo khoa, khuyến khích học sinh làm bài đúng, trình bày gọn, rõ ràng và tìm được cách giải quyết hợp lý. c/ Tạo ra sự hỗ trợ , giúp đỡ lẫn nhau giữa các đối tượng học sinh: -Nên cho học sinh trao đổi ý kiến (trong nhóm nhỏ, trong cả lớp) về cách giải và các cách giải (nếu có) của một bài tập. Nên khuyến khích học sinh nêu nhận xét về cách giải của bạn, tự rút kinh nhiệm để hoàn chỉnh cách giải của mình. -Sự hỗ trợ giữa các học sinh trong nhóm, trong lớp phải giúp học sinh tự tin vào khả năng của bản thân; tự rút kinh nghiệm về cách học, cách làm bài của mình và tự điều chỉnh sửa chữa những thiếu sót (nếu có) của bản thân. -Cần giúp học sinh nhận ra rằng: hỗ trợ giúp đỡ bạn, học sinh càng có nhiều điều kiện nắm chắc, hiểu sâu kiến thức của bài học, càng có điều kiện hoàn thiện các năng lực của bản thân. d/ Tập cho học sinh có thói quen tự kiểm tra, đánh giá kết quả luyện tập, thực hành. -Giáo viên nên khuyến khích học sinh tự kiểm tra bài đã làm để phát hiện, điều chỉnh sửa chữa những sai sót (nếu có). -Khi có điều kiện nên hướng dẫn học sinh tự đánh giá bài làm của mình của bạn bằng điểm rồi báo lại với giáo viên. -Động viên học sinh tự nêu những hạn chế (nếu có) trong bài làm của mình hoặc của bạn và tự đề xuất phương án điều chỉnh. e/ Tập cho học sinh có thói quen tìm nhiều phương án và lựa chọn phương án hợp lý nhất để giải quyết vấn đề của bài tập, không nên thoả mãn với các kết quả đã đạt được. -Khi học sinh chữa xong bài hoặc khi giáo viên nhận xét bài làm của học sinh. Giáo viên nên động viên, nêu gương những học sinh đã hoàn thành nhiệm vụ hoặc đó có cố gắng trong luyện tập, thực hành, tạo cho học sinh niềm tin vào sự tiến bộ của bản thân, tạo cho các em niềm vui vì những kết quả đã đạt được của mình, của bạn. -Khuyến khích học sinh không chỉ hoàn thành nhiệm vụ khi luyện tập, thực hành mà còn tìm các cách giải quyết khác nhau, lựa chọn phương án hợp lý nhất để giải bài toán hoặc để giải quyết một số vấn đề trong học tập; khuyến khích học sinh giải thích trình bày bằng lời nói phương pháp giải bài tập, … Dần dần học sinh sẽ có thói quen không bằng lòng với kết quả đạt được và có mong muốn tìm giải pháp tốt nhất cho bài làm của mình, tìm được cách diễn đạt hợp lý nhất cho phương pháp làm bài của mình. -Với cách học như thế, giáo viên không nhất thiết phải lo liệu chọn thêm bài tập cho đối tượng học sinh có nhu cầu làm thêm bài tập mà có thể giúp học sinh khai thác sâu trong quá trình thực hiện một số bài thực hành có sẵn trong sách giáo khoa. Đồng thời, cách dạy học như vậy sẽ tạo cho học sinh có thói quen không thỏa mãn với kết quả đã đạt được, tạo cho học sinh có hứng thú tìm tòi, sáng tạo trong học toán, nói chung và toán chuyển động đều nói riêng. 4. Dạng toán chuyển động đều- loại đơn giản:(dành cho các tiết dạy học bài mới) a. Dạng 1: Tính vận tốc của một chuyển động. -Có quãng đường ,thời gian . Tính vận tốc. -Cách làm: lấy quãng đường chia cho thời gian. -Công thức : v = s : t Lưu ý : Đơn vị vận tốc km/giờ, m/phút, m/giây. b. Dạng 2: Tìm quãng đường. -Có vận tốc , thời gian . tính quãng đường. -Cách làm : lấy vận tốc nhân với thời gian. -Công thức: s = v x t -Lưu ý :Đơn vị quãng đường là : km, m. c. Dạng 3: Tìm thời gian. -Có quãng đường và vận tốc. Tính thời gian. -Cách làm: lấy quãng đường chia vận tốc. -Công thức: t = s : v -Lưu ý : Đơn vị thời gian là: giờ ,phút, giây. -Từ ba dạng cơ bản trên một số học sinh trung bình, yếu vẫn chưa nắm vững cách giải nên thường giải sai. Tôi thường xuyên kiểm tra các em về quy tắc, công thức tính và các thành phần trong từng công thức của mỗi dạng toán. Khi học sinh nắm vững công thức, quy tắc tôi tiến hành cho học sinh vận dụng làm nhiều bài tập để khắc sâu kiến thức cơ bản của dạng toán chuyển động đều. Rồi từ đó mới chuyển sang học tiếp loại toán chuyển động đều dạng phức tạp hơn. 5. Dạng toán chuyển động đều-loại phức tạp: (dành cho các tiết luyện tập ,thực hành) Từ các bài toán cơ bản trên ta có các bài toán phức tạp sau: Dạng 1: Chuyển động ngược chiều, cùng lúc: -Hai động tử cách nhau quãng đường s, khởi hành cùng lúc với vận tốc tương ứng là v1 và v2, đi ngược chiều nhau. Tìm thời gian đi để gặp nhau và vị trí gặp nhau ? Hướng dẫn giải Công thức giải: Thời gian đi để gặp nhau là : t = s : (v1 + v2) Quãng đường đến chổ gặp nhau là : s1 = v1 x t s2 = v2 x t Ví dụ :Bài toán 1a,b (tiết luyện tập chung SGK trang 144,145) Xe máy v2 =36 km/giờ O tô v1=54km/giờ 1a) Tóm tắt B A 180km Bài giải Sau mỗi giờ cả ô tô và xe máy đi được quãng đường là: 54 + 36 = 90(Km) Thời gian đi để ô tô gặp xe máy là: : 90 = 2(giờ) Đáp số : 2 giờ 1b.Tóm tắt Otô v1=42km/giờ Otô v2 =50km/giờ A B 276km Bài giải Sau mỗi giờ cả hai ô tô đi được quãng đường là: + 50 = 92(km) Thời gian đi để 2 ô tô gặp nhau là: : 92 = 3(giờ) Đáp số: 3giờ Dạng 2: Chuyển động ngược chiều ,không cùng lúc: -Hai động tử cách nhau quãng đường s,khởi hành không cùng lúc với vận tốc tương ứng là v1 và v2, đi ngược chiều nhau. Tìm thời gian đi để gặp nhau và vị trí gặp nhau ? Công thức giải: -Chuyển về dạng 1, xem đó là chuyển động ngược chiều khởi hành cùng lúc với động tử thứ hai. Dạng 3: Chuyển động cùng chiều ,cùng lúc , đuổi nhau: -Hai động tử cách nhau quãng đường s, khởi hành cùng lúc với vận tốc tương ứng là v1 và v2, đi cùng chiều ,đuổi nhau. Tìm thời gian đi để đuổi kịp nhau và vị trí gặp nhau ? -Công thức giải: Thời gian đi để gặp nhau là : t = s : (v1 - v2) (v1 > v2 ) Quãng đường đến chổ gặp nhau là : s1 = v1 x t s2 = v2 x t Ví dụ : Bài toán 1a,b (tiết luyện tập chung ,SGK trang 145,146) Tóm tắt bài 1a Xe đạp v2 =12km/giờ Xe máy v1 = 36 km/giờ C A B 48 km Bài giải Sau mỗi giờ xe máy gần xe đạp là: - 12 = 24(km) Thời gian đi để xe máy đuổi kịp xe đạp là: : 24 = 2(giờ ) Đáp số: 2 giờ Tóm tắt 1b Xe máy v1 = 36 km/giờ A B 36 km Xe đạp v2 =12km/giờ Bài giải Quãng đường xe đạp đi trong 3 giờ là: x 3 = 36(km) Sau mỗi giờ xe máy gần xe đạp là: - 12 = 24(km) Thời gian để xe máy đổi kịp xe đạp là: 36 : 24 = 1,5 (giờ) Đáp số: 1,5 giờ Dạng 4: Chuyển động cùng chiều , không cùng lúc , đuổi nhau: -Hai động tử xuất phát cùng một chỗ, động tử khởi hành trước với vận tốc là v1, động tử khởi hành sau với vận tốc là v2 ,đuổi theo để gặp nhau. Tìm thời gian đi để đuổi kịp nhau và vị trí gặp nhau ? Công thức giải: -Chuyển về dạng 3, xem đó là chuyển động cùng chiều khởi hành cùng lúc

File đính kèm:

  • docSKKN(3).doc