Phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ là mục tiêu của mọi xã hội.Nhân cách cúa con người được hình thành trong quá trình giáo dục.Vì vậy việc giáo dục trẻ ngay từ những ngày đầu tới trường là một việc làm hết sức cần thiết. Nó là nền tảng vững chắc ngay từ bước đầu để trẻ hoàn thiện và phát triển nhân cách một con người. Mọi trẻ em sinh ra đều có quyền được chăm sóc và bảo vệ, được giaó dục và học hành. Nghị quyết trung ương II của Đảng đã sáng suốt đưa nền giáo dục lên quốc sách hàng đầu.Chính vì vậyĐảng và nhân dân ta không ngừng quan tâm và từng bước đổi mới quá trình dạy học một cách rõ rệt, để tạo tiền đề đưa đất nước ta tiến vào thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Thời đại hiện nay, việc biết giải toán có lời văn đối với các em, đặc biệt với học sinh lớp 3 là rất quan trọng. Bước đầu các em biết vận dụng các kiến thức kỹ năng giải toán có lời văn (có không quá hai bước) trong đó có một số dạng bài toán như tìm một trong các phần bằng nhau của một số, gấp một số lên nhiều lần, so sánh số lớn gấp mấy lần số bé, so sánh số bé bằng một phần mấy số lớn, bài toán liên quan đến rút về đơn vị, bài toán có nội dung hình học
9 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 11748 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Giúp học sinh giải toán có lời văn lớp 3, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đặt vấn đề
I. Lời nói đầu:
Phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ là mục tiêu của mọi xã hội.Nhân cách cúa con người được hình thành trong quá trình giáo dục.Vì vậy việc giáo dục trẻ ngay từ những ngày đầu tới trường là một việc làm hết sức cần thiết. Nó là nền tảng vững chắc ngay từ bước đầu để trẻ hoàn thiện và phát triển nhân cách một con người. Mọi trẻ em sinh ra đều có quyền được chăm sóc và bảo vệ, được giaó dục và học hành. Nghị quyết trung ương II của Đảng đã sáng suốt đưa nền giáo dục lên quốc sách hàng đầu.Chính vì vậyĐảng và nhân dân ta không ngừng quan tâm và từng bước đổi mới quá trình dạy học một cách rõ rệt, để tạo tiền đề đưa đất nước ta tiến vào thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Thời đại hiện nay, việc biết giải toán có lời văn đối với các em, đặc biệt với học sinh lớp 3 là rất quan trọng. Bước đầu các em biết vận dụng các kiến thức kỹ năng giải toán có lời văn (có không quá hai bước) trong đó có một số dạng bài toán như tìm một trong các phần bằng nhau của một số, gấp một số lên nhiều lần, so sánh số lớn gấp mấy lần số bé, so sánh số bé bằng một phần mấy số lớn, bài toán liên quan đến rút về đơn vị, bài toán có nội dung hình học…
Trong dạy học toán, giải toán có một vị trí đặc biệt quan trọng đối với hình thành và phát triển nhân cách của học sinh tiểu học, giúp học sinh củng cố kiến thức , kỹ năng về toán. Đồng thời giáo viên dễ dàng phát hiện những ưu điểm thiếu sót trong kiến thức, kĩ năng của học sinh để giúp các em phát huy những ưu điểm, khắc phục thiếu sót, có thể coi việc dạy học giải toán là “Hòn đá thử vàng” của dạy học toán. Thông qua dạy học giải toán sẽ giúp học sinh hình thành và phát triển khả năng suy luận, lập luận và trình bày các kết quả theo một trình tự hợp lí làm cơ sở cho quá trình dạy học toán ở các lớp cao hơn ngày nay.
Dạy giải toán là giúp học sinh luyện được những đức tính và phong cách làm việc của người lao động như ý thức vượt khó, thói quen xét đoán, tính cẩn thận, chu đáo, cụ thể, làm việc có kế hoạch, có kiểm tra kết quả cuối cùng. Đồng thời từng bước hình thành và rèn luyện thói quen về khả năng suy nghĩ, tính toán độc lập, khắc phục được phép tính rập khuôn , xây dựng được tính ham thích tìm tòi, sáng tạo, phát triển tư duy… giải toán còn là hoạt động gồm những thao tác như xác lập được mối quan hệ giữa các dữ liệu, giữa cái đã cho và cái phải tìm trong điều kiện của bài toán. Chọn được phép tính thích hợp, trả lời đúng câu hỏi của bài toán.
II. Thực trạng của hai vấn đề nghiên cứu.
1.Thực trạng.
Trên cơ sở lý luận là như vậy, song qua thực tế giảng dạy ở trường tiểu học tôi nhận thấy tình hình thực tế học sinh của lớp 3. Bố mẹ các em đều là công nhân viên nông trường, có đời sống vất vả, khó khăn, sự quan tâm, động viên kịp thời đến việc học tập của con em ở gia đình không thường xuyên, kịp thời. Bên cạnh những khó khăn và đặc điểm của địa bàn trường tôi đóng, tôi còn nhận thấy giải toán ở học sinh còn nhiều hạn chế, nguyên nhân chính là do nhầm lẫn các bài toán giống nhau, rập khuôn theo mẫu hoặc theo mẫu học theo công thức tính mà không hiểu, không giải thích được cách làm, khả năng tư duy nhanh để hiểu và tính toán còn kém. Đặc biệt không nhận thấy được mối liên quan giữa các số liệu, dữ kiện cụ thể của bài toán dẫn đến hiểu sai nội dung bài toán lựa chọn phép tính không đúng.
Do tính cấp thiết của vấn đề cùng với thực tiễn của đơn vị công tác, tôi nhận thấy việc “ Giúp học sinh giải toán có lời văn lớp 3” là vấn đề hết sức cần thiết. Đây là một nội dung rất khó với học sinh giai đoạn đầu cấp. Vì vậy tự rút ra từ những năm công tác của bản thân, nhằm giúp cho việc dạy học giải toán cho học sinh lớp 3 đạt kết quả cao.
2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng.
Qua tìm hiểu thực trạng học sinh lớp 3 Trường tiểu học Thống Nhất. Khi dạy giải toán cho các em tôi thấy khả năng phép tính đề bài của các em còn kém, trong trình bày bài giải các câu lời giải chưa đúng, chưa phù hợp với câu hỏi của bài, với phép tính. Học sinh còn lúng túng làm sai khi gặp những bài toán có cấu trúc giống nhau về nội dung những câu hỏi khác nhau.
Sau khi tôi tiến hành khảo sát để phân loại đối tượng học sinh nhằm biết từng em để tiện theo dõi và giúp đỡ.
Tổng số học sinh tham gia kiểm tra em.
Khả năng
Xếp loại
Khả năng
phân tích đề
Khả năng thiết lập các dữ kiện để xây dựng quy trình
Khả năng nêu
lời giải đúng
Khả năng
trình bày bài
toán
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Từ thực trạng trên để công việc dạy học đạt kết quả tốt hơn, tôi mạnh dạn đổi mới phương pháp, đưa ra một số giải đáp trong công tác giảng dạy để phù hợp với đối tượng học sinh.
B. Giải pháp vấn đề.
I. Các giải pháp thực hiện:
Với những trăn trở trên, tôi đã học hỏi đồng nghiệp, tìm một số giải pháp tối ưu nhất góp phần nâng cao hiệu quả dạy giải toán có lời văn lớp 3. Được sự hướng dẫn tận tình của Ban giám hiệu nhà trường, tôi đã tiến hành giảng dạy và hướng dẫn học sinh giải toán thông qua các trình tự sau:
- Đọc và nghiên cứu kĩ đề bài
- Phân tích và nhận dạng bài toán
- Tìm phương pháp giải
- Tóm tắt đề bằng phương pháp thích hợp.
- Thiết lập trình tự và thực hiện bước tính.
II. Các biện pháp để tổ chức dạy thực hiện:
1. Một số biện pháp hướng dẫn học sinh giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị dạng a: b x c
Dạng bài toán liên quan đến rút về đơn vị đã cho biết giá trị của hai đại lượng và phải tìm một giá trị của một đại lượng trong hai đại lượng đó. Vì vậy việc so sánh và củng cố kiến thức cũ cho học sinh là việc làm mà giáo viên cần chú ý để học sinh nắm được hai bước giải toán.
Ví dụ: Bài 2(trang 128, tiết 122 – SGK toán 3)
*Có 28 kg gạo đựng đều trong 7 bao. Hỏi 5 năm bao đó có bao nhiêu ki lô gam gạo. Đây là bài toán tương đối khó do tính lắt léo của bài toán và cũng do học sinh mới được làm quen với dạng “ Bài toán liên quan đến rút về đơn vị”.
Để giúp học sinh giải được bài toán này giáo viên cần gợi ý cho học sinh xuất phát từ bài toán đơn giản bằng hai phép tính.
Gọi học sinh tóm tắt và giải bài toán theo cachs đã được hướng dẫn:
Tóm tắt:
7 bao: 28kg
5 bao: … kg?
- Lập kế hoạch giải bài toán
* Tìm số kg gạo trong mỗi bao( 7 bao có 28 kg)
(1 bao có ……..kg?)
+ Tìm số kg gạo trong 5 bao?
- Thực hiện lập kế hoạch giải bài toán.
+ Biết 7 bao đựng 28 kg gạo, muốn tìm mỗi bao đựng bao nhiêu kg gạo phải làm phép tính gì: (phép chia)
28 : 7 = 4(kg)
+ Biết mỗi bao đựng 4 kg gạo , muốn tìm 5 bao đựng được bao nhiêu ki lô gam gạo ta làm phép tính gì? (phép nhân)
4 x 5 = 20(kg)
- Trình bày bài giải:
Bài toán giải theo hai bước:
Số ki lô gam gạo đựng trong mỗi bao là:
28 : 7 = 4(kg)
Số gạo đựng trong 5 bao là:
4 x 5 = 20(kg)
Đáp số: 20 kg gạo.
Sau khi gợi ý và hướng dẫn cho học sinh cách giải giáo viên cần đặt câu hỏi khắc sâu kiến thức nhận biết bài toán đơn và toán hợp, mối liên quan giữa các giữ kiện trong bài toán và so sánh cách giải với nhau để các em nắm chắc dạng bài và phương pháp giải, giúp học sinh tự đặt vấn đề toán tương tự và giải.
Ví dụ: Bài 2(trang 129 tiết 132 – SGK toán 3)
“ Có 2135 quyển vở được xếp vào 7 thùng. Hỏi 5 thùng đó có bao nhiêu quyển vở”
Vẫn là bài toán trên giáo viên có thể hướng dẫn học sinh chuyển đề toán trả lời hai câu hỏi như sau:
Có 2135 quyển vở được xếp vào 7 thùng. Hỏi:
- 1 thùng có bao nhiêu quyển vở?
- 5 thùng có bao nhiêu quyển vở?
Từ đó khắc sâu cho học sinh phương pháp giải : Khi giải dạng toán này thường tiến hành 2 bước.
Bước 1: Tìm giá trị một phần (thực hiện phép chia)
Bước 2: Tìm giá trị nhiều phần (thực hiện phép nhân)
Đây là dạng toán không chỉ hướng dẫn cho học sinh ở phần bài mới mà cần phải thường xuyên củng cố cho học sinh ở các tiết luyện tập để hình thành kĩ năng, kĩ xảo tính toán cho học sinh.
Ví dụ: Bài 3(trang 129 tiết 123 SGK toán 3)
Tóm tắt: 4 xe: 8520 viên gạch.
3 xe: …… viên gạch?
Khi học sinh đã làm quen và biết cách giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị qua hai bước tính, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh lập đề toán và giải gộp hai bước tính thành một dãy tính và trả lời câu hỏi như sau:
“ Có 8520 viên gạch được xếp đều vào 4 xe cải tiến. Hỏi 3 xe đó xếp được bao nhiêu viên gạch? ”
Bài giải
Số viên gạch trong 3 xe là:
8520 : 4 x 3 = 6390 (viên)
Đáp số: 6390 viên gạch
Để khắc sâu loại bài này giáo viên đưa bài toán về dạng tổng quát:
Gọi số viên gạch xếp vào 4 xe là: a
Gọi 4 xe chở gạch là : b
Và 3 xe chở gạch là : c
Bài toán có dạng: a : b x c
Cho học sinh nắm được dạng tổng quát của bài toán, giáo viên cần đặt câu hỏi:
- Bài toán có dạng gì? ( a : b x c)
- Bài toán được giải bằng mấy phép tính? (2 phép tính)
Đó là phép tính gì? (phép chia và phép nhân)
- Có thể giải bài toán theo mấy cách?
Hướng dẫn như vậy học sinh sẽ khắc sâu kiến thức và không bị nhầm lẫn giữa các dạng bài toán. Qua đó giúp các em quan sát và phân tích bài tốt hơn.
Trên đây là trình tự quy tắc giải toán hợp giáo viên cần dần dần cho học sinh làm quen và nhận dạng trong suốt quá trình học tập:
1. Dạng toán có nội dung hình học:
Khi dạy dạng toán giải có nội dung hình học, đây là dạng toán tương đối khó mà mới đối với học sinh lớp 3. Vì vậy khi dạy, giáo viên chú ý cho học đến biểu tượng, hiểu rõ vấn đề cần giải quyết để ngay từ bước đầu học sinh hiểu đúng về biểu tượng và khắc sâu kiến thức đó.
Chẳng hạn khi dạy về chu vi hình chữ nhật “ hoặc chu vi hình vuông” giáo viên cần cho học sinh hiểu tính chu vi là tính tổng độ dài các cạnh của một hình và nhớ lại đặc điểm của hình đó sau đó mới hình thành kiến thức (quy tắc tính chu vi) của hình đó.
Ví dụ 1: Tính chu vi hình chữ nhật có:
Chiều dài 10cm, chiều rộng 5cm.
Sau khi học sinh đã nắm được bản chất của vấn đề và nắm được quy tắc rồi thì có thể vận dụng vào làm bài tập.
Bài giải
Chu vi hình chữ nhật là:
(10 + 5) x 2 = 30cm
Lúc này giáo viên có thể gợi ý để học sịnh vận dụng kiến thức mới học vào thực tế.
Ví dụ: Em hãy đo và tính chu vi của cái bàn học của em.
Cho các em khắc sâu kiến thức , để đến khi học về diện tích “ Hình chữ nhật” hoặc diện tích “ hình vuông” học sinh không nhầm lẫn quy tắc tính và đơn vị đo giữa diện tích và chu vi.
Ví dụ: Bài 1 trang 153- SGK toán 3.
Tính diện tích và chu vi hình chữ nhật có chiều dài 4dm, chiều rộng 8cm.
Để giải bài toán này giáo viên nên cho học sinh nêu lai quy tắc tính diện tích và chu vi hình chữ nhật. Sau đó cho học sinh tự lập kế hoạch và giải bài toán dựa theo những dữ kiện của bài toán.
Bài giải
Đổi 4dm = 40cm
Chu vi hình chữ nhật là:
(40 + 8) x 2 = 96(cm)
Diện tích hình chữ nhật là:
40 x 8 = 320(cm2)
Đáp số: 96cm
320cm2
Sau khi gợi ý và hướng dẫn cho học sinh cách giải, giáo viên nên đặt câu hỏi để khắc sâu kiến thức và nhận ra sự khác nhau giữa cách tính chu vi và diện tích của một hình chẳng hạn: muốn tính chu vi và diện tích của hình chữ nhật ta phải biết gì?
( Biết chiều dài và chiều rộng ). Nêu lại cách tính chu vi và diện tích hình chữ nhật?
2. Những phương pháp sử dụng trong giải các bài toán có lời văn lớp 3.
2.1. Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán:
- Đọc kĩ đề bài:
Đây là bước nghiên cứu đầu tiên giúp học sinh có suy nghĩ ban đầu về ý nghĩa bài toán. Nắm được nội dung bài toán và đặ biệt cần chú ý đến các câu hỏi của bài. Do đó tôi đã yêu cầu học sinh cầm bút chì và thước gạch chân dưới những dữ kiện quan trọng của bài toán.
- Xây dựng, thiết lập mối quan hệ giữa các số đã cho bài toán:
Tìm cách diễn đạt nội dung của bài bằng ngôn ngữ kí hiệu toán học:
Tóm tắt đầu bài toán hoặc minh hoạ với sơ đồ hình vẽ bằng cách ghi dữ kiện, điều kiện và câu hỏi của bài toán dưới dạng cô đọng , ngắn gọn nhất.
Ví dụ: Bài1 (trang 128 tiết 122 “ Bài toán có liên quan đến rút về đơn vị”
“ Có 24 viên thuốc chứa đều trong 4 vỉ. Hỏi 3 vỉ thuốc đó có bao nhiêu viên thuốc?”
- Phân tích nội dung:
+ Học sinh đọc đề toán.
+ Giáo viên làm 2 câu lệnh làm việc:
+ Hãy gạch 1 gạch dưới cái đã cho
+ Hãy gạch 2 gạch dưới câu hỏi của bài toán.
+ Sau khi học sinh đã thực hiện theo hai câu lệnh làm việc của giáo viên, giáo viên yêu cầu một số học sinh trình bày phân tích nội dung để hiểu rõ nội dung đề toán.
4 vỉ thuốc có 24 viên
3 vỉ thuốc như vậy có bao nhiêu viên?
- Lập kế hoạch giải:
Suy luận để tìm cách trả lời các câu của bài toán, cần biết gì? dùng phép tính gì? Suy luận các số , điều kiện đã có, có thể biết gì? có thể sử dụng phép tính gì? Phép tính đó trả lời câu hỏi của bài hay không? trên cơ sở đó lập kế hoạch trình tự để giải toán.
+ Thực hiện các phép tính theo kế hoạch để tìm ra kết quả đúng của bài toán.
Mỗi bước giải của phép tính đều phải được kiểm tra lại cho đúng, thử lại đáp số tìm được, xem cách giải, lời giải, đáp số có trả lời đúng câu hỏi của bài hay đã phù hợp với điều kiện của bài toán hay chưa? Trình bày giải.
Cũng như ở ví dụ của bài 1: Trang 128 trên, giáo viên cho học sinh tự đặt thêm câu hỏi “ Mỗi vỉ thuốc chứa bao nhiêu viên thuốc?”
Bài giải
24 : 4 = 6 (viên)
Số viên thuốc trong 3 vỉ là:
6 x 3 = 18 (viên)
Đáp số: 18 viên thuốc.
2.2. Hướng dẫn học sinh giải bằng nhiều phương pháp khác nhau:
Nhằm giúp học sinh chọn được phương pháp hay nhất, hiểu sâu cấu trúc của bài. Giải một bài toán bằng nhiều phương pháp có tác dụng rèn luyện óc sáng tạo, hứng thú tìm tòi học tập, giáo dục cho các em ý thức tiết kiệm thời gian, biết tìm con đường ngắn nhất để đi tới đích. Vì vậy, cần tổ chức cho học sinh giải theo nhiều cách khác nhau ( đặc biệt là đối với học sinh khá giỏi) và giúp cho tất cả các em hiểu được cơ sở lý luận của phương pháp đó.
Ví dụ: Bài3 trang 171, tiết 164 SGK toán 3.
“ Một kho hàng có 80.000 bóng đèn, lần đầu chuyển đi 38.000 bóng đèn, lần sau chuyển đi 26.000 bóng đèn. Hỏi trong kho còn lại bao nhiêu bóng đèn”
(Giải bằng hai cách khác nhau)
Trước tiên giáo viên cho học sinh nêu tóm tắt bài toán rồi giải bài toán bằng nhiều cách khác nhau.
- Lập kế hoạch giải:
+ Cách 1: Tìm số bóng đèn còn lại trong kho sau lần chuyển đầu tiên?
(Kho hàng có 80.000 bóng đèn, lần sau chuyển 38.000 bóng đèn)
(Trong kho còn … bóng đèn)
Tìm số bóng đèn còn lại sau khi chuyển lần 2?
- Thực hiên kế hoạch giải:
Trong đó có 80.000 bóng đèn, lần đầu chuyển 38.000 bóng đèn, muốn biết sau lần chuyển đầu tiên trong kho còn bao nhiêu bóng đèn làm phép tính gì? (phép trừ)
Trình bày bài giải:
Số bóng đèn còn lại sau khi chuyển lần đầu là:
80.000 – 38.000 = 42.000 (bóng đèn)
Trong khi còn lại số bóng đèn là:
42.000 – 26.000 = 16.000 (bóng đèn)
Đáp số: 16.000 bóng đèn
+ Cách 2: Lập kế hoạch giải:
Tìm số bóng đèn, lần 2 chuyển đi ở cả 2 lần
( Lần 1 chuyển 38.000 bóng đèn, lần 2 chuyển 26.000 bóng đèn)
(Số bóng đèn còn lại trong kho sau 2 lần chuyển?
- Thực hiện kế hoạch giải:
Muốn biết số bóng đèn đã chuyển đi tất cả bao nhiêu ta làm tính gì? (tính cộng)
Muốn tìm số bóng đèn còn lại trong kho sau 2 lần chuyển đi làm tính gì? (tính trừ)
Trình bày bài giải:
Số bóng đèn đã chuyển đi tất cả là:
38.000 + 26.000 = 64.000 (bóng đèn)
Số bóng đèn trong kho là:
80.000 – 64.000 = 16.000 (bóng đèn)
Đáp số: 16.000 bóng đèn
2.3. Hướng dẫn học sinh xây dựng một đề toán mới:
Việc cho học sinh tự xây dựng đề toán vừa giúp các em phát triển tư duy độc lập, vừa giúp phát triển tính năng động sáng tạo của tư duy. Đây là biện pháp gây chú ý và hứng thú hoặc tập giúp các em hiểu rõ cấu trúc, cách ghi nhớ dạng bài, đi sâu tìm hiểu thực tế và phát triển ngôn ngữ thông qua việc tự nêu và giải quyết vấn đề, phát huy tính tích cực, vai trò trung tâm của các em trong quá trình dạy học. Có nhiều cách để giúp học sinh tự xây dựng một đề toán, giáo viên cần nêu vấn đề, yêu cầu và định hướng từ thấp đến cao, từ dễ đến khó.
2.3.1. Đề toán đưa ra thiếu số liệu.
Học sinh tìm số liệu trên điền vào rồi giải.
Ví dụ: Đội một có …. người, đội hai có …. người. Hỏi cả hai đội có tất cả bao nhiêu người?
2.3.2. Đề toán không đưa ra câu hỏi.
Học sinh tự đặt câu hỏi cho bài toán và giải.
Ví dụ: “ Có 35.000 đồng mua được 5 quyển sổ”
Em hãy đặt câu hỏi để bài toán có liên quan đến rút về đơn vị rồi giải.
2.3.3. Đặt đề toán dựa vào tóm tắt bằng sơ đồ, hình vẽ.
Ví dụ: Nêu bài toán rồi giải bài toán theo tóm tắt sau:
17kg
Con:
? kg
Mẹ:
2.3.4. Cho biết cách giải bài toán:
Học sinh tự suy nghĩ ra đề toán:
Ví dụ: 18 + 9 x 3 = 15 (cái)
Hãy đặt đề toán có cách giải như trên.
2.3.5. Đặt một bài toán tương tự với bài mẫu.
Trong phương pháp học sinh tự xây dựng đề toán các em thường mắc các khiếm khuyết như: Các số liệu chọn thiếu chính xác, xa thực tế. Giáo viên cần giúp các em sứa chữa những lỗi đó để giúp các em rèn luyện tư duy tính thực tế.
Ví dụ: Hãy đặt một đề toán tương tự như bài dưới đây và giải.
“ Một sân vận động hình chữ nhật có chiều rộng 95cm và chiều dài gấp 3 lần chiều rộng. Tính chu vi sân vận động đó”
3. Một số đề kiểm tra 15 phút.
Trong dạy học, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh là một việc làm hết sức quan trọng bởi từ kết quả đó mà giáo viên có thể tự điều chỉnh phương pháp, cách tổ chức dạy học và nắm bắt cụ thể từng đối tượng học sinh nhằm giúp các em học tốt hơn. Các đề kiểm tra phải mang tính vừa sức.
Ví dụ:
+ Đề 1: Có 35 lít dầu hoả đựng đều trong 7 can: hỏi 9 can đó đựng bao nhiêu lít dầu hoả?
+ Đề 2: Lập đề toán theo tóm tắt sau và giải bài toán đó:
5 thùng có: 1020 gói mì
8 thùng có: ….. gói mì?
+ Đề 3: Có 3 ô tô mỗi ô tô chở 2205. Người ta chuyển xuống được 400kg rau từ ô tô đó.
Hỏi còn bao nhiêu kg rau chưa chuyển xuống.
C. Kết luận
1. Kết quả thực hiện:
Sau một quá trình dạy học trên thực tế tôi đã khảo sát kiểm tra lại chất lượng học tập của học sinh. Kết quả thu được như sau:
Tổng số học sinh tham gia kiểm tra: em
Khả năng
Xếp loại
Khả năng
phân tích đề
Khả năng thiết lập các dữ kiện để xây dựng quy trình
Khả năng nêu
lời giải đúng
Khả năng
trình bày bài
toán
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Qua các bài kiểm tra và luyện kiểm tra việc học, làm bài tập của học sinh tôi thấy rằng: Việc đưa phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, vai trò của giáo viên là người hướng dẫn đã mang lại kết quả khá tốt. Đa số học sinh của lớp hiểi được cách giải và biết tự trình bày bài giải một cách hợp lý, đặc biệt phương pháp giúp khắc phục được chất lượng, hạ thấp tỉ lệ học sinh yếu kém.
2. Kết luận:
Qua quá trình áp dụng những phương pháp cùng với những kinh nghiệm của bản thân vào quả trình dạy học môn toán nói chung và giải các bài toán có lời văn nói riêng. Đặc biệt là hướng dẫn học sinh giải các bài toán có liên quan đến rút về đơn vị dạng a: b x c ( là nền tảng cho học sinh học giải các bài toán về đại lượng tỉ lệ thuận ở lớp 4)
Tôi đã rút ra một số bài học cho mình để tích cực góp phần trong việc nâng cao hiệu quả dạy toán, đối với giáo viên cần làm tốt các vấn đề:
Khi lập kế hoạch phải dự tính trước được lỗi học sinh thường mắc phải, từ đó có cách sửa lỗi . Trong giờ dạy không nên áp đặt nặng nề , không nên gay gắt đối với những em thường mắc lỗi mà phải nhẹ nhàng để học sinh thấy yên tâm.
Đối với những bài toán có cấu trúc giống nhau trong quá trình giải, học sinh dễ nhầm lẫn máy móc giữa các bài này với bài khác . Vì vậy phải giúp các em so sánh và phân biệt từng dạng toán. ở lớp 3 cần tập cho các em so sánh các bài toán mà nội dung có điểm giống nhau, những câu hỏi khác nhau nên phải giải bằng số lượng phép tính khác nhau.
Phải giúp học sinh hiểu bài bằng cách giao việc cho các em thông qua gợi ý hoặc thiết lập hệ thống câu hỏi. Do đó yêu cầu giáo viên phải nắm chắc các dữ kiện của đề bài, phải tóm tắt đề bài theo cách gọn, dễ hiểu đưa ra nhiều cách giải bài toán và trình tự các bước, các phép tính giải phải chính xác, khoa học. Chú ý kiểm tra kết quả của học sinh và chỉ hướng dẫn khi các em thật sự khó khăn, tuyệt đối không được làm thay học sinh.
Cần nghiên cứu kỹ chương trình để nắm bắt được ý đồ của sách giáo khoa, cấu trúc nội dung sách để có sự so sánh giữa các dạng toán nhằm giúp học sinh tìm đúng cách giải và để giáo viên tìm đúng phương pháp dạy tốt hơn.
Vì vậy qua những bài toán giải có lời văn trong chương trình lớp 3 ở trường tiểu học, nó không những rèn luyện cho học sinh ý thức vượt khó, tính cẩn thận, chu đáo, cụ thể, làm việc có kế hoạch, mà nó rèn luyện thói quen về khả năng suy nghĩ, tính toán độc lập, phát triển tư duy … cho học sinh nên tôi đã chọn đề tài nghiên cứu này.
Cần kết hợp vận động linh hoạt hệ thống phương pháp. Khi dạy nội dung kiến thức mới, giáo viên nên đặt ra các tình huống có vấn đề để học sinh tự phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức mới.
Giáo viên phải là người nắm rõ và phân loại chính xác từng đối tượng học sinh của lớp mình để có định hướng đúng đắn giúp học sinh giải quyeets yêu cầu bài học, chiếm lĩnh kiến thức một cách chủ động, sáng tạo và có hứng thú trong học tập.
3. Đề xuất:
Đề nghị phòng giáo dục cũng như các ban ngành tạo điều kiện về cơ sở vật chất hơn nữa để giáo viên yên tâm giảng dạy.
Mong các đồng chí góp ý để sáng kiến này ngày càng hoàn thiện hơn.
File đính kèm:
- kinh nghiem giup hoc sinh giai toan co loi van.doc