Năm học 2008 – 2009 là năm học tiếp tục triển khai đại trà chương trình giáo dục phổ thông mới theo tinh thần nghị quyết 40 - 41 Quốc hội khoá X của Đảng cũng đã nhấn mạnh về công tác giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ như : “đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức cơ chế quản lý để tạo dược chuyển biến cơ bản và toàn diện nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực và thế giới; khắc phục cách đổi mới chắp vá,
17 trang |
Chia sẻ: shironeko | Lượt xem: 4694 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Một vài kinh nghiệm dạy học phần Di truyền và Biến dị trong Sinh học 9 theo phương pháp dạy học tích cực, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu cùng tập thể Thầy cô giáo trong nhà trường đã tạo điều kiện về thời gian, cung cấp tài liệu tham khảo, đóng góp một số kinh nghiệm trong giảng dạy cũng như việc áp dụng lý thuyết vào thực tế giảng dạy của bộ môn sinh học 9. Nhằm giúp tôi hoàn thành đề tài này.
Trong quá trình thực hiện không tránh khỏi những mặt hạn chế .
Rất mong nhận được sự góp ý của Ban Giám Hiệu cùng các bạn đồng nghiệp …
Xin trân trọng cảm ơn !
A . PHẦN MỞ ĐẦU
I . LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Năm học 2008 – 2009 là năm học tiếp tục triển khai đại trà chương trình giáo dục phổ thông mới theo tinh thần nghị quyết 40 - 41 Quốc hội khoá X của Đảng cũng đã nhấn mạnh về công tác giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ như : “đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức cơ chế quản lý để tạo dược chuyển biến cơ bản và toàn diện nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực và thế giới; khắc phục cách đổi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ. Xây dựng nền giáo dục của dân, do dân, vì dân; bảo đảm công bằng về cơ hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời …”; cũng là năm tiếp theo triển khai thực hiện kết luận của hội nghị Trung ương VI ( khoá IX ) về tiếp tục thực hiện nghị quyết Trung ương II ( khoá VIII ) “ Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của ngươì học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh”
Định hướng này đã được pháp chế hoá trong luật giáo dục, Điều 24, 25/: “phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học ; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”
Năm học 2006 – 2007 là năm học đầu tiên thực hiện cuộc vận động :
“ nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” đó cũng là một động lực, là chủ trương sát đúng trong đánh giá chất lượng học tập của học sinh và đó cũng là trách nhiệm của người giáo viên trong tình hình giáo dục luôn đổi mới và phát triển .
Hiện nay, trong thực tế giảng dạy vẫn tồn tại phương pháp truyền thụ kiến thức có sẵn, giáo viên lên lớp chủ yếu là giảng giải, thuyết trình . Học sinh chủ yếu là nghe, ghi, trả lời một số câu hỏi của thầy và học thuộc lòng những điều thầy, cô truyền thụ
Trong những năm qua, cùng với sự đổi mới phương pháp dạy học trên cả nước. Mỗi thầy, cô giáo chúng ta phải có nhiệm vụ xây dựng cho mình một phương pháp giảng dạy tích cực để khắc phục phương pháp giảng dạy thụ động truyền thụ kiến thức một chiều
Với những lý do trên tôi suy nghĩ và đã mạnh dạn đưa ra: “Một vài kinh nghiệm dạy học phần Di truyền và Biến dị trong Sinh học 9 theo phương pháp dạy học tích cực”, đây là nội dung tôi đã nghiên cứu từ năm học 2005 – 2006 đến nay.
II . MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
Của cấp THCS. Tuy nhiên đối với học sinh lớp 9 khi học đến phần Di truyền và Biến dị, đa phần học sinh như bị chững lại, vì đây là loại kiến thức vừa mới, vừa trừu tượng rất khó đối với học sinh.Với kết cấu chương trình Sinh học từ lớp 6 đến lớp 9 là phù hợp với mục tiêu giáo dục cạnh đó giáo viên còn gặp khó khăn về cơ sở vật chất, phương tiện dạy học, tài liệu tham khảo … Như vậy, bằng phương pháp dạy học tích cực để phần nào giúp học sinh vượt qua khó khăn dần khắc phục và rút kinh nghiệm trong phương pháp dạy học để đạt được kết quả trong năm học này và những năm học tiếp theo.
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU :
1. Nghiên cứu cơ sở lý luận phương pháp dạy học tích cực :
2.Nghiên cứu tình hình thực trạng của địa phương, giáo viên, học sinh, thực tế của nhà trường.
3, Nhiệm vụ vận dụng các biện vào đề tài: Nhằm giúp học sinh về :
Kĩ năng làm việc với sách giáo khoa .
Kĩ năng quan sát, phân tích
Kĩ năng thực hành
Kĩ năng làm việc độc lập, tư duy, khả năng phán đoán,
Kĩ năng hoạt động nhóm ….
Như vậy để giúp học sinh nắm được nội dung kiến thức bài học một cách chủ động và chắc chắn hơn .
ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU :
1. Đối tượng nghiên cứu
Đổi mới phương pháp dạy học là trọng tâm của đổi mới giáo dục hiện nay. Với “Một vài kinh nghiệm dạy học phần Di truyền và Biến dị trong Sinh học 9 theo phương pháp dạy học tích cực”
2. Khách thể nghiên cứu
Bộ môn sinh học 9, trình độ học sinh của địa phương nơi nhà trường đứng chân.
V . PHẠM VI NGHIÊN CỨU :
Đề tài này được vận dụng vào chương trình Sinh học lớp 9 của cấp học Trung học cơ sở
VI . PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
Để thực hiện đề tài này tôi đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu chính như sau :
1 . Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục :
Qua dạy môn sinh học 6, đây là năm thứ 7 thực hiện thay sách giáo khoa áp dụng phương pháp dạy học mới , với bản thân tôi và đồng nghiệp đã áp dụng phương pháp dạy học tích cực, kết quả học tập của học sinh được nâng cao rõ rệt , như khi dạy mục : “ các loại rễ” ( Sinh học 6 ), được tiến hành như sau :
Giáo viên yêu cầu học sinh đặt lên bàn các loại rễ đã chuẩn bị, để quan sát,
Học sinh trao đổi thảo luận nhóm để sắp xếp các loại rễ theo đặc điểm của chúng.
Các nhóm báo cáo kết quả, cho biết rễ phân thành mấy loại. Sau đó các nhóm bổ sung.
Giáo viên kết luận chung, rồi minh hoạ qua tranh
Với phương pháp dạy học này, học sinh nắm kiến thức một cách chủ động hơn, chắc chắn hơn.
2. Phương pháp điều tra :
Để tìm hiểu về sở thích học bộ môn ở học sinh, tôi đã cho các em trả lời câu hỏi sau :
Em có suy nghĩ gì khi học bộ môn sinh học ?
a, thích ; b , không thích ; c, học được ; d, khó học
Qua kết quả điều tra cho thấy :
Truyền thụ kiến thức theo phương pháp thụ động: số học sinh không thích học bộ môn Sinh chiếm tỉ lệ khá cao.
Truyền thụ kiến thức theo phương pháp tích cực: số học sinh yêu thích bộ môn Sinh chiếm tỉ lệ cao hơn.
3. Phương pháp thống kê toán học.
Ngoài ra tôi còn sử dụng một số phương pháp bổ trợ như phương pháp trò chuyện, bằng phương pháp này giúp tôi hiểu học sinh hơn về mọi phương diện, đây cũng là điểm để gắn chặt tình cảm thầy trò gần gũi nhau hơn để cùng nhau dạy và học tốt hơn.
VII . CƠ SỞ NGHIÊN CỨU :
Đề tài này được thực hiện ở các lớp của khối 9
VIII. GIẢ THIẾT KHOA HỌC:
Nếu đề tài này được áp dụng trong khối lớp 9 của trường một cách đồng bộ, khoa học, và có sự đầu tư nhiệt tình của giáo viên bộ môn sinh học thì tôi tin chắc rằng chất lượng học tập của bộ môn sẽ đạt được những kết quả như mong muốn.
IX. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI:
Đề tài này gồm 03 phần chính
Phần mở đầu
Phần nội dung
Phần kết kuận chung
B. PHẦN NỘI DUNG ĐỀ TÀI :
1, Phương pháp luận :
Phương pháp tích cực là một thuật ngữ rút gọn được dùng ở nhiều nước, để chỉ những phương pháp giáo dục / dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. “ Tích cực” trong phương pháp tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động, trái nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái với tiêu cực.
Phương pháp tích cực hướng tới việc hoạt động hoá, tích cực hoá hoạt động nhận thức của người học nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy. Hình thành và phát triển tích cực là một điều kiện, đồng thời là kết quả của sự phát triển nhân cách trong quá trình giáo dục.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Rõ ràng là cách dạy chỉ đạo cách học nhưng ngược lại thói quen học tập của trò có ảnh hưởng tới cách dạy của thầy ..….
Trong đổi mới phương pháp phải có sự hợp tác của thầy và trò, có sự phối hợp hoạt động dạy với hoạt đôïng học thì mới thành công. Thuật ngữ :
“ phương pháp tích cực”hàm chứa cả phương pháp dạy và phương pháp học
Phương pháp dạy học tích cực được nêu ra những đặc trưng sau :
Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. Trong phương pháp tích cực, người học – đối tượng của hoạt động dạy, đồng thời là chủ thể của hoạt động học – được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải tự động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó vừa nắm được kiến thức, kĩ năng mới, vừa nắm được phương pháp “làm ra” kiến thức kĩ năng đó, không rập theo khuôn mẫu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo .
Dạy theo cách này thì giáo viên không chỉ đơn giản truyền đạt kiến thức mà còn hướng dẫn hành động.
Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học, phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học.
Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh – với sự bùng nổ thông tin, khoa học kĩ thuật công nghệ phát triển như vũ bão – thì không thể nhồi nhét vào đầu trẻ khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải quan tâm dạy cho trẻ phương pháp học ngay từ bậc tiểu học và càng lên bậc học cao hơn càng phải được chú trọn .
Trong phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng , thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi người , kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội .
Vì vậy ngày nay, người ta nhấn mạnh mọi hoạt động học trong quá trình dạy – học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ thông, không chỉ tự học ở nhà sau bài học trên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn trực tiếp của thầy .
Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác. Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không thể đồng đều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự phân hoá về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập.
Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò. Trong dạy học việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định hiện trạng học và điều chỉnh hoạt động dạy của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng học và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
Trước đây thường quan niệm giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh . Trong phương pháp tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Liên quan đến điều này, giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau – tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là một năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường cần phải trang bị cho học sinh.
Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con người năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội thì việc kiểm tra đánh giá không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống thực tế .
Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực chiếm lĩnh kiến thức nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng,thái độ theo yêu cầu của chương trình.
Trên lớp, học sinh hoạt động là chính, giáo viên có vẻ nhàn nhã hơn nhưng hiểu được khi soạn giáo án, giáo viên đã phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới có thể thực hiện bài lên lớp với vai tròlà người gợi mở, xúc tác, động viên , cố vấn , trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng, tranh luận sôi nổi của học sinh. Giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên .
2, Thực trạng dạy và học trước khi thực hiện đề tài :
Qua nhiều năm giảng dạy bộ môn sinh học ở cấp THCS và qua những năm thực hiện thay sách đại trà từ lớp 6 đến lớp 9, tôi có những nhận xét như sau :
Đối với các lớp thay sách 6,7,8,9 đã phát huy tính tích cực của học sinh . Tuy nhiên tính tích cực chưa thể hiện đồng bộ đối với học sinh trong lớp học . Điều này do việc học và chuẩn bị bài ở nhà của học sinh chưa chu đáo , học sinh khi trả lời câu hỏi còn dựa vào tóm tắt sách giáo khoa để trả lời. Hoạt động thảo luận nhóm chưa bảo đảm tính trật tự, nghiêm túc, các thành viên trong nhóm chưa thật sự cùng nhau bàn bạc mà còn dựa dẫm vào những học sinh khá, giỏi …. Nhìn chung chưa phát huy được tính hoạt động tập thể.
Riêng lớp 9 khi tiếp xúc chương trình thay sách giáo khoa , học sinh phải đối mặt với một khối kiến thức hoàn toàn mới , riêng phần Di truyền và Biến dị kiến thức rất trừu tượng , đây là điểm bế tắc nhất của các em trong học sinh học lớp 9 . Vì vậy, để phát huy tính tích cực học tập của học sinh gặp nhiều khó khăn .
Những tồn tại trên được lý giải như sau :
Về ý thức, hiện nay còn một số học sinh có động cơ, thái độ học tập chưa tốt. Địa bàn nơi trường đóng thuộc vùng nông thôn, mặt bằng dân trí chưa đồng đều, kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, đời sống của người dân còn nhiều khó khăn, việc chăm sóc và quan tâm đến học hành của con cái chưa thật đúng mức ….
Về đội ngũ giáo viên : bề mặt kinh nghiệm trong giảng dạy còn mỏng , đời sống kinh tế vẫn còn khó khăn, tài liệu tham khảo dành cho giáo viên bộ môn còn thiếu thốn, việc bồi dưỡng, tiếp thu chuyên đề còn hạn chế ….
Ngoài ra việc đánh giá và thi cử thực hiện chưa thật đều tay và nghiêm túc cũng ảnh hưởng đến thái độ và động cơ học tập của học sinh .
Vậy việc áp dụng “Một vài kinh nghiệm dạy học phần Di truyền và Biến dị trong sinh học 9 theo phương pháp dạy học tích cực” nhằm góp phần vào việc nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường .
3, Việc áp dụng đề tài vào thực tiễn :
- Để thực hiện biện pháp của mình , ngay đầu năm học tôi đã tiến hành điều tra tình hình học tập bộ môn sinh học của các em học sinh ở khối lớp 9 như sau :
Em hãy cho biết suy nghĩ của em khi học bộ môn sinh học ?
Thích
Không thích
Học được
Khó học
20%
40%
30%
10%
Kết quả học tập của bộ môn sinh học 9 qua những năm gần đây như sau :
Thời gian
Dưới trung bình
Trên trung bình
Khá , giỏi
2004 – 2005
40 %
48 %
12 %
2005 – 2006
37 %
45 %
18 %
2006 – 2007
33 %
46 %
21 %
2007 - 2008
18%
38%
44%
Qua điều tra sơ bộ cho thấy chất lượng học tập của học sinh có tiến bộ hơn, tuy nhiên con số dưới trung bình còn chiếm với tỉ lệ khá cao. Với trách nhiệm của người dạy học tôi cần phải sử dụng phương pháp dạy học tích cực để nâng dần chất lượng dạy và học hầu đáp ứng được yêu cầu giáo dục hiện tại và lâu dài .
Đối với phần Di truyền và Biến dị của môn sinh học 9, đây là loại kiến thức vừa mới vừa trừu tượng, rất khó đối với học sinh. Để giúp học sinh nắm được kiến thức phần này tôi đã chuẩn bị vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy như :
Xác định mục tiêu của bài học. Lựa chọn phương pháp phù hợp cho từng bài học, thiết kế hệ thống câu hỏi nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh, chuẩn bị dụng cụ dạy học theo yêu cầu bài học, tổ chức hoạt động nhóm,kiểm tra việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh, . …. Đó là yếu tố bên ngoài tác động đến sự thành công của tiết dạy và liên quan đến chất lượng học tập của học sinh .
Bằng phương pháp dạy học tích cực, tôi đã áp dụng để dạy bài : “ Lai một cặp tính trạng” như sau :
Mục tiêu bài học : học sinh phải hiểu được nội dung, mục đích và ứng dụng của phép lai phân tích, phân biệt được hiện tượng di truyền trội hoàn toàn và trội không hoàn toàn .
Tiến trình bài dạy :
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh
1, Lai phân tích :
GV : yêu cầu HS nghiên cứu khái niệm
Kiểu gen ở sgk, nêu điểm giống nhau và khác nhau của các kiểu gen sau : AA,Aa, aa
GV: em hiểu thể đồng hợp trội, thể đồng
hợp lặn ,thể dị hợp là gì ?
GV: hãy xác định kiểu hình (KH)và kiểu
gen (KG) ở thế hệ F1 trong 2 phép lai sau
a, P: Hoa đỏ x Hoa trắng
AA aa
b, P: Hoa đỏ x Hoa trắng
Aa aa
GV: em có nhận xét gì về KG của cây
hoa đỏ trong 2 phép lai trên ?
Làm cách nào để xác định được KG
của cơ thể mang tính trạng trội là đồng
hợp hay dị hợp ?
GV kết luận : 2 phép lai trên gọi là phép
lai phân tích , em hãy cho biết : Thế nào
là lai phân tích? lai phân tích nhằm mục
đích gì ?
GV: để cũng cố nội dung kiến thức này,
cho HS làm bài tập điền từ ở cuối mục III
SGK
2, Ý nghĩa của tương quan trội – lặn :
Trong phần này , HS cần hiểu được tương
quan trội – lặn là hiện tượng phổ biến ở
thế giới sinh vật, việc xác định tương
quan này trong chọn giống vật nuôi , cây
trồng là cần thiết , từ đó thấy được ứng
dụng của lai phân tích
GV có thể sử dụng câu hỏi :
a, Tương quan trội – lặn được xác định
bằng cách nào ?
b, Việc xác định dược tương quan trội –lặn trong chọn giống vật nuôi và cây trồng cóý nghĩa gì ?
c, Xác định độ thuần chủng của giống
bằng cách nào ?
3, Trội không hoàn toàn,GV nêu phép lai
P: Hoa đỏ x Hoa trắng
AA aa
Hãy xác định KG và KH ở F1 và F2 .
Gv nêu vấn đề : thực tế, người ta thu được kết quả ở F1: 100%hoa hồng, F2 có tỉ lệ :
1hoa đỏ : 2hoa hồng : 1hoa trắng, vậy :
a, Hãy xác định KG của các cơ thể mang
tính trạng hoa đỏ, hoa hồng, hoa trắng .
b, So sánh KG và KH ở F1và F2 trong 2
trường hợp trên
GV nêu câu hỏi để rèn kĩ năng suy luận ,
Nguyên nhân nào dẫn đến sự khác nhau
về KH ở F1và F2 trong 2 trường hợp trên?
GV kết luận về trường hợp trội hoàn toàn
và trội không hoàn toàn .
GV :trường hợp trội không hoàn toàn có
cần dùng lai phân tích để kiểm tra KG của cơ thể mang tính trạng trội không? Tại sao ?
GV củng cố bằng cách cho HS làm bài
tập 3 trang 13 SGK .
HS nêu được :
kiểu gen AA, aa gồm :
2gen giống nhau ;
kiểu gen : Aa gồm : 2 gen khác nhau
HS nêu được : đồng hợp trội : AA
đồng hợp lặn : aa
dị hợp : Aa
HS xác định được kết quả của phép lai
a, P: Hoa đỏ x Hoa trắng
AA aa
G : A a
F1: Tỉ lệ KG: Aa
Tỉ lệ KH : 100 % Hoa đỏ
b, P: Hoa đỏ x Hoa trắng
Aa aa
G : A, a a
F1: Tỉ lệ KG : 1Aa : 1aa
Tỉ lệ KH : 1Hoa đỏ : 1 Hoa trắng
HS: KG AA và Aa đều biểu hiện ra
KH hoa đỏ
HS nêu được : cho tiến hành phép lai
như trên và dựa vào kết quả của phép
lai để xác định
HS nêu được nội dung của lai phân tích
và mục đích của phép lai là xác định
KG ở cơ thể mang tính trạng trội là
đồng hợp hay dị hợp
HS nêu được :
a, Muốn xác định tương quan
trội – lặn phải sử dụng phương pháp
phân tích cơ thể lai ( của Men đen )
b, Trong chọn giống, vận dụng tương
quan trội – lặn, người ta có thể xác
định được các tính trạng trội và tập
trung nhiều gen trội quí vào một kiểu
gen để tạo ra giống có giá trị kinh tế
cao
c, Trong sản xuất, để tránh có sự phân li tính trạng (xuất hiện tính trạng xấu) người ta phải tiến hành lai phân tích để kiểm tra độ thuần chủng của giống.
HS nêu được :
P: Hoa đỏ x Hoa trắng
AA aa
G: A a
F1: Aa (100% hoa đỏ)
Aa x Aa
G: A , a A , a
F2: 1AA : 2Aa : 1aa
Tỉ lệ kiểu hình : 3 hoa đỏ : 1 hoa trắng
a, HS : dựa vào tỉ lệ KG ở F2 trong sơ đồ lai : AA :hoa đỏ; Aa: hoa hồng;
aa; hoa trắng .
b,Trội hoàn toàn Trội không h/ toàn
Giống :
KG: F1: Aa Aa
F2:1AA:2Aa:1aa 1AA:2Aa:1aa
Khác :
KH:F1:100%hoa 100%hoa hồng
đỏ
F2:3 hoa đỏ: 1hoa đỏ: 2hoa
1hoa trắng hồng:1hoa trắng
HS:nguyên nhân trội không hoàn toàn do sự di truyền kiểu hình của cơ thể F1 biểu hiện tính trạng trung gian giữa bố và mẹ
HS nêu được : chỉ dùng lai phân tích
trong trường hợp trội hoàn toàn .
Cũng bằng phương pháp dạy học tích cực tôi đã áp dụng để dạy bài : “Di truyền liên kết”. Đây là bài học khó đối với học sinh mà kiến thức có liên quan đến mục “ lai phân tích” trong bài : “ lai một cặp tính trạng” của Men đen .
Trọng tâm của bài này là HS tìm hiểu được mối quan hệ về vị trí giữa gen và nhiễm sắc thể ( NST).
Tiến trình bài dạy :
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh
1,Thí nghiệm của Moocgan :
Dựa vào bài 4 và 5(SH9), GV yêu cầu HS giải bài tập : xác định kết quả của phép lai phân tích (LPT) cây đậu Hà lan F1 hạt vàng trơn (AaBb).
GV cho học sinh nhắc lại khái niệm lai
phân tích và phải xác định được kết quả
của phép lai
Dựa vào các bài đã học ở chương 2,GV
nhấn mạnh 2 cặp gen Aa và Bb nằm trên
2 cặp NST và giải thích cơ sở tế bào học
của phép lai trên thông qua việc treo bảng phụ để minh hoạ :
Pa: AaBb x aabb
G : AB , Ab , Ab , ab ab
Fa: 1AaBb : 1Aabb : 1 aaBb : 1 aabb
Như vậy, sự phân li độc lập của các cặp
NST tương đồng trong phát sinh giao tử
và sự tổ hợp tự do của chúng qua thụ tinh
đã đưa đến sự phân li độc lập và tổ hợp tự do của các cặp gen. Đây là kiến thức
quan trọng để HS tiếp cận với di truyền
liên kết sẽ được học tiếp sau đây
GV nêu ưu thế của ruồi giấm trong nghiên cứu di truyền học và thông báo về chức năng của từng gen B,b ; V ,v
( như SGK)
GV nêu kết quả thí nghiệm của Moocgan một cách tóm tắt bằng sơ đồ viết trên bảng
P : xám, dài x đen, cụt
F1: 100% xám, dài
Lai phân tích : xám, dài (F1) x đen,cụt
Fa: 1xá
File đính kèm:
- giaoan(2).doc