1 - Đặt vấn đề:
- “Sự tăng cường sức đề kháng của sâu bọ và vi khuẩn” là phần kiến thức trọng tâm không những của bài mà còn là một trong những kiến thức trọng tâm của chương. Qua phần này học sinh hiểu được, giải thích được quá trình hình thành các đặc điểm thích nghi theo quan điểm hiện đại. Đây cũng là một trong những vấn đề cốt lõi của thuyết tiến hoá.
- Hướng giải quyết:
+ Xây dựng kiến thức bài dạy thành hệ thống các tình huống có vấn đề để phát huy trí lực học sinh.
+ Nghiên cứu sâu kết hợp hệ thống câu hỏi và sự dẫn giải của giáo viên để học sinh hiểu thấu đáo bản chất và cơ chế của quá trình hình thành các đặc điểm thích nghi.
+ Đưa ra các tình huống thực tiễn để rèn luyện kĩ năng vận dụng cho học sinh giải thích một cách khoa học các hiện tượng tự nhiên.
3 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1462 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Sử dụng phương pháp nêu vấn đề khi dạy về “sự tăng cường sức đề kháng của sâu bọ và vi khuẩn”, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sử dụng phương pháp nêu vấn đề khi dạy về
“sự tăng cường sức đề kháng của sâu bọ và vi khuẩn”
Nguyễn Lương Phùng.
Trường THPT Chuyên Phan Bội Châu.
1 - Đặt vấn đề:
- “Sự tăng cường sức đề kháng của sâu bọ và vi khuẩn” là phần kiến thức trọng tâm không những của bài mà còn là một trong những kiến thức trọng tâm của chương. Qua phần này học sinh hiểu được, giải thích được quá trình hình thành các đặc điểm thích nghi theo quan điểm hiện đại. Đây cũng là một trong những vấn đề cốt lõi của thuyết tiến hoá.
- Hướng giải quyết:
+ Xây dựng kiến thức bài dạy thành hệ thống các tình huống có vấn đề để phát huy trí lực học sinh.
+ Nghiên cứu sâu kết hợp hệ thống câu hỏi và sự dẫn giải của giáo viên để học sinh hiểu thấu đáo bản chất và cơ chế của quá trình hình thành các đặc điểm thích nghi.
+ Đưa ra các tình huống thực tiễn để rèn luyện kĩ năng vận dụng cho học sinh giải thích một cách khoa học các hiện tượng tự nhiên.
2 - Giải pháp cụ thể:
Trước hết giáo viên nêu ví dụ SGK.
- Ví dụ:Một thành phố ở Nga năm 1950 lần đầu tiên sử dụng DDT diệt được 95% số ruồi.
- Giáo viên nêu vấn đề:Em có nhận xét thế nào về hiệu lực của thuốc và sự sống sót của 5% số ruồi phản ánh khả năng gì của ruồi?
(Yêu cầu học sinh trả lời: Hiệu lực của thuốc rất cao và sự sống sót của ruồi chứng tỏ chúng có khả năng kháng thuốc).
- Giáo viên nêu vấn đề tiếp:Khả năng kháng thuốc của sâu bọ là tính trạng bình thường hay đột biến? Vì sao?
(Học sinh: Khả năng kháng thuốc DDT là tính trạng đột biến vì chúng chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong quần thể).
- Giáo viên nêu ví dụ tiếp: - Đến năm 1953 dùng DDT chỉ diệt được 5-10% số ruồi.
- Giáo viên nêu vấn đề: Như vậy chỉ sau 3 năm sử dụng, đại bộ phận ruồi khi tiếp xúc với DDT không bị tiêu diệt theo các em do đâu, có phải do bản chất của thuốc thay đổi hay không?
(Học sinh:Trong quá trình tiếp xúc với thuốc khả năng đề kháng của sâu bọ tăng lên còn bản chất của thuốc không đổi.)
- Ví dụ 2: Giáo viên nêu ví dụ: Người ta tạo ra các dòng ruồi giấm trong phòng thí nghiệm và xử lí DDT lần đầu nhận thấy tỉ lệ sống sót biến thiên rất nhiều từ 0-100% tuỳ từng dòng.
- Giáo viên nêu vấn đề: Như vậy khi xử lí DDT lần đầu có dòng ruồi giấm sống sót 100% nghĩa là hoàn toàn không bị tiêu diệt.Như vậy đột biến kháng DDT xuất hiện trước khi tiếp xúc hay là do tiếp xúc với DDT?
(Học sinh:Đột biến kháng DDT xuất hiện trước khi tiếp xúc với DDT)
- Giáo viên nêu vấn đề tiếp:Xử lí DDT nhận thấy khả năng sống sót của ruồi giao động rất nhiều: có dòng sống sót 100%,có dòng sống sót ít, có dòng không có cá thể nào sống sót. Theo em, khả năng kháng thuốc DDT của ruồi là đột biến đa gen hay đơn gen?
(Học sinh: Đột biến đa gen).
- Giáo viên nêu vấn đề tiếp:Nếu đột biến đơn gen sẽ có mấy khả năng về sống và chết?
(Học sinh: 2 khả năng hoặc sống hoặc chết).
- Giáo viên: Như vậy rõ ràng khả năng kháng thuốc của sâu bọ là đột biến đa gen. Giả sử tính kháng thuốc của ruồi do 4 gen lặn a, b, c, d tác động bổ sung (giải thích thêm tác động bổ sung có nghĩa là trong kiểu gen càng có nhiều cặp gen đồng hợp lặn thì khả năng kháng thuốc càng cao).
- Giáo viên nêu vấn đề: Em hãy nêu các kiểu gen có khả năng kháng thuốc theo chiều hướng tăng dần?
(Học sinh: aaBBCCDD đ aabbCCDD đ aabbccDD đ aabbccdd)
- Giáo viên: để học sinh hiểu một cách đơn giản giáo viên có thể cho học sinh tạm hiểu về khả năng kháng thuốc:
Không có gen kháng thuốc đ một đơn vị thuốc là bị tiêu diệt
1 cặp gen kháng thuốc đ 2 đơn vị thuốc mới bị tiêu diệt
2 cặp gen kháng thuốc đ3 đơn vị thuốc mới bị tiêu diệt
3 cặp gen kháng thuốc đ 4 đơn vị thuốc mới bị tiêu diệt
4 cặp gen kháng thuốc đ 5 đơn vị thuốc mới bị tiêu diệt.
Như vậy kiểu gen có khả năng kháng thuốc càng cao, liều lượng thuốc phun phải càng nhiều mới tiêu diệt được,nếu liều thấp không có tác dụng.
- Giáo viên nêu vấn đề: Nếu việc sử dụng thuốc với liều lượng ngày càng tăng thì tỉ lệ các kiểu gen trong quần thể và hiệu lực của thuốc thay đổi theo chiều hướng nào?
(Học sinh: Kiểu gen có khả năng kháng thuốc càng cao chiếm tỉ lệ ngày càng tăng trong quần thể và hiệu lực thuốc ngày càng giảm)
- Giáo viên kết luận: Như vậy việc sử dụng thuốc với liều lượng ngày càng nhiều thì áp lực của việc chọn lọc ngày càng mạnh đã làm tăng cường sức đề kháng của sâu bọ.
- Giáo viên nêu vấn đề: Để tăng hiệu quả của việc diệt sâu bệnh theo các em cần lưu ý gì trong quá trình sử dụng thuốc?
(Học sinh: Liều lượng thuốc phải phù hợp với từng lần phun)
- Giáo viên bổ sung thêm:Ngoài ra phải khéo kết hợp với các loại thuốc khác.Vì một cá thể có thể có đột biến kháng với loại thuốc này song không có đột biến kháng với loại thuốc khác.
- Giáo viên nêu vấn đề:Các loại thuốc kháng sinh như Pênixilin lúc mới sử dụng chỉ cần một liều nhỏ đã có hiệu lực.Vì sao?
(Học sinh: Khi chưa dùng thuốc đột biến kháng thuốc là có hại, những cá thể mang đột biến kháng thuốc sinh trưởng và sinh sản chậm hơn dạng bình thường, chúng chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong quần thể, do đó khi sử dụng thuốc lần đầu chỉ cần một liều nhỏ đại bộ phận cá thể trong quần thể không mang đột biến bị tiêu diêt hiệu lực của thuốc rất cao).
- Giáo viên nêu vấn đề tiếp: Vậy tại sao sau một số lần chúng ta sử dụng thuốc kháng sinh nhiều loại vi khuẩn đã tỏ ra “quen thuốc”.
(HS: Khi việc sủ dụng thuốc ngày càng nhiều thì áp lực của việc chọn lọc càng mạnh làm tăng tỷ lệ các kiểu gen có khả năng kháng thuốc cao trong quần thể làm giảm khả năng điều trị bệnh của thuốc người ta gọi đó là sự “quen thuốc”)
- GV nêu vấn đề tiếp:Tại sao đối với những người đã nhiều lần dùng thuốc kháng sinh bác sĩ đồng thời dùng vài ba loại thuốc kháng sinh cho 1 loại bệnh.
(HS: Đột biến xuất hiện với tấn số rất thấp vì vậy một cá thể vi khuẩn thường chỉ có đột biến kháng với một loại thuốc. Điều trị bằng vài ba loại thuốc làm cho vi khuẩn không bị tiêu diệt bởi loại thuốc này thì lại bị tiêu diệt bởi loại thuốc khác . Nhờ đó mà hiệu quả điều trị bệnh tăng lên.
File đính kèm:
- SKKN giang day mon SH cua TG Nguyen Luong Phung.doc