Nguyễn Du (1865 - 1820) – danh nhân văn hoá thế giới, một trong những đỉnh cao của nền văn học Việt Nam, cuộc đời và sự nghiệp của ông mang nhiều tâm tư sâu sắc, quy tụ được những vấn đề xã hội và dự báo nhiều điều cho mai sau. Việc nghiên cứu về Nguyễn Du không bao giờ kết thúc, đặc biệt là Truyện Kiều - tác phẩm bất hủ của ông, "tập đại thành" của văn học Việt Nam. Ngay từ khi mới ra đời Truyện Kiều đã là đối tượng trao đổi của nhiều nhà lí luận phê bình văn học, và từ đó đến nay việc nghiên cứu Truyện Kiều không bao giờ đứt đoạn , nó luôn phát triển cùng ngành văn bản học và ngữ văn học. Hơn nữa Nguyễn Du và Truyện Kiều chiếm vị trí không thể thiếu trong chương trình văn học ở trường phổ thông, tính cả chương trình văn THCS và THPT Nguyễn Du và Truyện Kiều chiếm một thời lượng lớn. Trong đó Truyện Kiều được học với tư cách tác phẩm và nhiều đoạn trích. Đoạn trích "Trao duyên" là màn đặc biệt, diễn tả sâu sắc bi kịch đầu tiên trong cuộc đời đầy bi kịch của Kiều, đồng thời thể hiện tập trung nghệ thuật miêu tả nội tâm và tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Vì thế "Trao duyên" là một đoạn trích hay nhưng cũng rất khó tiếp cận, nó thu hút những sự tìm tòi khám phá của các nhà nghiên cứu và của giáo viên giảng dạy môn văn. Qua nhiều năm giảng dạy, tích lũy chúng tôi mạnh dạn đề xuất một hướng tiếp cận đoạn trích này.
16 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2577 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tiếp cận và giảng dạy trích đoạn "Trao duyên" theo cái nhìn thời gian nghệ thuật - Phạm Viết Cương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiếp cận và giảng dạy trích đoạn "Trao duyên"
Theo cái nhìn thời gian nghệ thuật
I. Lý do chọn đề tài
Nguyễn Du (1865 - 1820) – danh nhân văn hoá thế giới, một trong những đỉnh cao của nền văn học Việt Nam, cuộc đời và sự nghiệp của ông mang nhiều tâm tư sâu sắc, quy tụ được những vấn đề xã hội và dự báo nhiều điều cho mai sau. Việc nghiên cứu về Nguyễn Du không bao giờ kết thúc, đặc biệt là Truyện Kiều - tác phẩm bất hủ của ông, "tập đại thành" của văn học Việt Nam. Ngay từ khi mới ra đời Truyện Kiều đã là đối tượng trao đổi của nhiều nhà lí luận phê bình văn học, và từ đó đến nay việc nghiên cứu Truyện Kiều không bao giờ đứt đoạn , nó luôn phát triển cùng ngành văn bản học và ngữ văn học. Hơn nữa Nguyễn Du và Truyện Kiều chiếm vị trí không thể thiếu trong chương trình văn học ở trường phổ thông, tính cả chương trình văn THCS và THPT Nguyễn Du và Truyện Kiều chiếm một thời lượng lớn. Trong đó Truyện Kiều được học với tư cách tác phẩm và nhiều đoạn trích. Đoạn trích "Trao duyên" là màn đặc biệt, diễn tả sâu sắc bi kịch đầu tiên trong cuộc đời đầy bi kịch của Kiều, đồng thời thể hiện tập trung nghệ thuật miêu tả nội tâm và tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Vì thế "Trao duyên" là một đoạn trích hay nhưng cũng rất khó tiếp cận, nó thu hút những sự tìm tòi khám phá của các nhà nghiên cứu và của giáo viên giảng dạy môn văn. Qua nhiều năm giảng dạy, tích lũy chúng tôi mạnh dạn đề xuất một hướng tiếp cận đoạn trích này.
II. Lịch sử vấn đề
Như đã nói ở trên, là một đoạn trích tiêu biểu cho ngòi bút của Nguyễn Du trong Truyện Kiều nên "Trao duyên" được nhiều nhà nghiên cứu phân tích và khám phá trên nhiều bình diện.
Đặng Thanh Lê trong “Giảng văn Truyện Kiều” – NXB Giáo dục Hà Nội – 1999 đã phân tích một cách đầy đủ diễn biến tâm lí của Kiều trong đem trao duyên cho Thuý Vân dựa trên nền là mâu thuẫn giằng xé trong tâm trạng giữa một bên là chữ Tình và một bên là chữ Hiếu. Nhấn mạnh con người bi kịch trong Kiều để rồi khẳng định : “Nhân vật của Nguyễn Du là con người được thức tỉnh, dù chỉ để khổ đau. Thuý Kiều là con người của bi kịch. Hạn chế và giá trị của tính cách nhân vật cũng đều bao hàm trong yếu tố đó”.
Trong Phân tích, bình giảng tác phẩm văn học 10 – NXB Giáo dục Hà Nội -1999, Lã Nhâm Thìn cũng đề cập đến yếu tố bi kịch và sự tự tự ý thức sâu sắc trước sự chà đạp của số phận đối với Kiều, coi đó là nền tảng để đi sâu vào phân tích diễn biến tâm trạng tác phẩm. Tuy vậy bài viết cũng mới dừng lại ở sự không thôi xót xa của Kiều bởi đó là nỗi đau đầu đời khi phải dứt một mối tình cũng đầu đời, có bi kịch thật đấy nhưng không thê lương, đen tối, trái lại vẫn ngời lên ánh ánh sáng, niềm tin vào tình yêu, vào con người. Điều đó vẫn khó cho việc giảng dạy nhất là khi thực hiện nội dung và chương trình sách giáo khoa mới.
Lê Trí Viễn với bài viết "Trao duyên" trong cuốn "Đến với thơ hay" - NXB Giáo dục Hà Nội 1998 đi sâu vào phân tích sâu sắc ngôn ngữ nhân vật, chỉ ra cách sử dụng từ ngữ độc đáo, ý nghĩa của các từ ngữ trong việc Kiều thuyết phục Vân thay mình trả nghĩa chàng Kim nhằm làm nổi bật cái "sắc sảo mặn mà" của nhân vật, nhưng cũng chính vì thế mà bài viết chưa làm nổi bật được diễn biến tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều.
Bài viết của Lê Bảo trong "Giảng văn văn học Việt Nam" – NXB Giáo dục Hà Nội -1997 - một bài viết rất công phu, khám phá sâu sắc về nhiều phương diện nghệ thuật của đoạn trích "Trao duyên" nhằm làm nổi rõ dòng tâm trạng của nhân vật như tác giả kết luận: “ý thức về thân phận của con người trong tác phẩm là kết quả của những yếu tố nghệ thuật kết hợp lại một cách nhuần thấm tự nhiên, trong đó có nhịp điệu, các thành ngữ, việc miêu tả thời gian tâm lý trong cái dòng phát triển biện chứng của những trạng huống tâm hồn" và tác giả Lê Bảo phân tích rất kỹ các yếu tố nghệ thuật như nhịp điệu, từ ngữ, thành ngữ - tác giả chú ý phân tích làm rõ thời gian tâm lý trong đoạn trích nhưng chỉ chú ý vào phần sau mà chưa chú ý dòng chảy thời gian tâm lý xuất hiện ngay từ đầu đoạn trích, chính nó tạo nên nhịp độ chung cho đọan trích cũng như quy định ngôn ngữ, hành động của nhân vật trong việc trao duyên. Hơn nữa đây là một bài viết chuyên sâu nên nếu áp dụng bài viết này vào bài giảng trong hai tiết ở lớp với trình độ của học sinh, giáo viên sẽ gặp nhiều khó khăn, lúng túng giữa việc cân bằng nội dung bài giảng với lượng thời gian lên lớp.
ở sách giáo viên một cuốn sách có tầm định hướng cụ thể chi tiết cho giáo viên trong soạn bài, lên lớp cũng viết bài nàykhá rõ ràng, chu đáo với mục đích "làm rõ" chủ đề "bi kịch tình yêu tan vỡ", khám phá lôgích trong diễn biến tâm trạng và ngôn ngữ biểu đạt. Bài viết này chia đoạn trích làm hai phần với ba nội dung chủ yếu : nội dung thứ nhất "Mâu thuẫn làm nền cho diễn biến tâm trạng nhân vật". Nội dung thứ hai: "Thúy Kiều nhờ em thay mình trả nghĩa Kim Trọng". Nội dung thứ ba: "Tâm trạng bi kịch của Thúy Kiều”. Như vậy tác giả Nguyễn Lộc chỉ tập trung khám phá tâm trạng nhân vật ở phần thứ hai còn phần đầu của đoạn trích tác giả chỉ tập trung phân tích sức thuyết phục trong lời lẽ của Thúy Kiều khi nhờ Thúy Vân trả nghĩa Kim Trọng. bài viết này phù hợp với nội dung câu hỏi hướng dẫn học bài ở sách giáo khoa. ở sách giáo, khoa có ba câu hỏi: Câu hỏi 1 và 2 đòi hỏi học sinh tìm hiểu ý nghĩa của một số từ ngữ, thành ngữ trong việc thuyết phục Vân cuả Thúy Kiều. Câu hỏi 3 đòi hỏi phân tích tâm trạng của Thúy Kiều từ câu: "Ngày xuân em hãy còn dài " đến hết đoạn trích
Như vậy chúng ta thấy rằng các bài viết đã có những thành công nhất định, nhưng về mặt nào đó vẫn có những hạn chế như việc tách riêng hai phần đoạn trích, để khám phá sức thuyết phục trong lời lẽ của nhân vật ở phần 1 và khám phá diễn biến tâm trạng ở phần 2. Chưa tác giả nào khám phá đoạn trích từ phía tìm hiểu dòng thời gian tâm lý. chính sự cảm nhận thời gian của nhân vật trong đoạn trích đã quy định cách thể hiện ngôn ngữ, hành động cũng như thể hiện diễn biến tâm trạng nhân vật.
Vì thế để khám phá sâu sắc diễn biến tâm lý nhân vật chúng tôi mạnh dạn đề xuất khám phá đoạn trích từ cái nhìn thời gian nghệ thuật.
III. Cơ sở của đề tài
1. Cơ sở lý luận
Cùng với sự phát triển của ngành thi pháp học các học giả nước ta đã mở rộng con đường tiếp cận tác phẩm văn học, họ đã có phương tiện hữu hiệu khám phá sự phong phú đa dạng và hấp dẫn của thế giới nghệ thuật trong tác phẩm và một trong những cách tiếp cận tác phẩm của thi pháp học là nghiên cứu thời gian nghệ thuật của tác giả xây dựng trong tác phẩm của mình. Không gian, thời gian là hai phương thức tồn tại của tất cả các sự vật khách quan vì thế thời gian nghệ thuật (cùng với không gian nghệ thuật) là yếu tố quan trọng mà nhà văn sử dụng để kiến tạo thế giới nghệ thuật trong tác phẩm của mình. Là phương thức tồn tại của thế giới vật chất thời gian cũng như không gian đi vào nghệ thuật cùng với cuộc sống được phản ánh như một hiện tượng của thế giới khách quan. Nhưng đồng thời thời gian còn là một yếu tố nghệ thuật được soi sáng bằng tư tưởng tình cảm, được nhào nặn và sáng tạo để giúp nhà văn mô tả nhân vật, phản ánh đời sống một cách chân thực nhất. Con người tùy theo tâm trạng, tư tưởng, tình cảm và ý thức mà cảm nhận thời gian một cách khác nhau cho nên các nhà văn tập trung xây dựng trong tác phẩm của mình một hình tượng thời gian với sự tập hợp các yếu tố thời gian cá biệt để tạo nên nhịp độ đời sống trong tác phẩm. vì thế khám phá được các biểu hiện của thời gian nghệ thuật trong tác phẩm chúng ta có thể giải mã được nhiều điều mà tác giả muốn gửi gắm. Việc tìm hiểu thời gian nghệ thuật là một trong những vấn đề hiện đại và hiệu quả của nghiên cứu văn học .
2. Cơ sở thực tiễn
Nghiên cứu Truyện Kiều của Nguyễn Du là một trong những vấn đề được các nhà khoa học chú trọng từ trước đến nay, trong đó có hai công trình lớn rất có giá trị là: "Phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều" của Phan Ngọc và "Thi pháp Truyện Kiều" của Trần Đình Sử; hai tác giả này đã nghiên cứu nhiều phương diện khác nhau của Truyện Kiều trong đó có sự tập trung khám phá thời gian nghệ thuật trong tác phẩm. Qua nghiên cứu, Phan Ngọc khẳng định, Truyện Kiều có “hai thời gian", "một thời gian khách quan của thế giới và một thời gian nội tâm trong lòng từng nhân vật”, ông còn nói "thời gian nghệ thuật này không được đo bằng kim đồng hồ mà được đo bằng xúc cảm con tim”. Ông còn chỉ ra sự cảm nhận thời gian cụ thể ở nhân vật Thúy Kiều: "Thế giới nội tâm tách ra thành ba thời gian: sững sờ trước hiện tại, hồi tưởng tới quá khứ và lo lắng cho tương lai". Trong "Thi pháp Truyện Kiều " Trần Đình Sử dành một mục lớn để khám phá nhiều phương diện của hình tượng thời gian ông đã chỉ ra Truyện Kiều có "một dòng thời gian tâm lý" đó là sáng tạo độc đáo vượt xa truyện nôm đương thời của Nguyễn Du. Dòng thời gian tâm lý xuất hiện ở tất cả các nhân vật nhưng rõ nhất ở Thúy Kiều: "thời gian của Kiều là do hoạt động có ý thức của Kiều tạo ra trong tương quan với hoàn cảnh”. Vì thế trước mỗi hoàn cảnh, cảnh ngộ Kiều lại có sự cảm nhận thời gian theo một cách riêng và dòng thời gian đó bộc lộ rõ thế giới nội tâm của Kiều. Sự cảm nhận thời gian của Kiều rất phong phú và đa dạng tùy vào sự biến thái, đổi thay tâm trạng của nàng trước mọi cảnh huống.
Như vậy chúng ta thấy các học giả đã khẳng định trong Truyện Kiều có một dòng thời gian tâm trạng, dòng thời gian đó được xây dựng trên sự cảm nhận, ý thức của nhân vật trong mối quan hệ với hoàn cảnh vì thế muốn khám phá thế giới nội tâm nhân vật ta có thể dựa vào khám phá hình tượng thời gian nghệ thuật mà tác giả xây dựng trong tác phẩm.
Những thành tựu của ngành thi pháp học cộng với những nghiên cứu cụ thể của các giáo sư trong hai công trình trên đã trang bị cho chúng tôi phương tiện để đi vào khám phá những biểu hiện của thời gian nghệ thuật trong đoạn trích "Trao duyên”. Qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy thế giới nội tâm của Kiều được bộc lộ rõ qua việc nhà thơ xây dựng một dòng thời gian một cách đặc biệt đó là một thời gian hiện tại dồn nén, thắt ngặt trong cảnh huống đầy bi kịch, một thời gian đồng hiện trong sự hoảng loạn của nội tâm vì tình yêu tan vỡ.
IV. Đề xuất hướng Tiếp cận và giảng dạy trích đoạn "Trao duyên" Theo cái nhìn mới
1. Lưu ý khi dạy phần tiểu dẫn:
Bên cạnh việc xác định vị trí đoạn trích trong toàn bộ bố cục kết cấu của tác phẩm như sách giáo khoa đã trình bày chúng tôi còn chú ý giúp học sinh xác định sự kiện trao duyên xảy ra trong giai đoạn nào của cuộc đời Kiều để xác định rõ tâm lý nhân vật lúc đó đồng thời định hướng cho học sinh thấy đoạn trích tập trung miêu tả tâm trạng nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại: Nhân vật tự suy ngẫm, tự nếm trải, giãi bày, cảm nhận trước thực tế phũ phàng nên thế giới nội tâm đó càng sâu sắc, chân thực. Từ những suy nghĩ đó, chúng tôi thử đề xuất hệ thống câu hỏi trong phần này:
Câu hỏi : Dựa vào phần tiểu dẫn ở SGK và những hiểu biết về Truyện Kiều em hãy nêu ngắn gọn vị trí đoạn trích?
Yêu cầu: Đoạn trích nằm phần đầu tác phẩm từ câu 724 đến câu 756 sau một loạt những biến cố lớn: Kiều phải chia tay để Kim Trọng về Liêu Dương hộ tang chú, gia đình Kiều bị vu oan, Kiều phải từ bỏ tình yêu, bán mình cho Mã Giám Sinh để chuộc cha và em, đây là đêm cuối cùng trước ngày ra đi Kiều tâm sự và nhờ Vân trả nghĩa chàng Kim.
Câu hỏi Những biến cố này xảy ra trong giai đoạn nào của đời Kiều?ở Kiều nảy sinh tâm lý gì?
Yêu cầu: Sự kiện này xảy ra khi Kiều chỉ mới "Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê" (khoảng 15, 16 tuổi) Kiều còn rất ngây thơ trong sáng chưa có va chạm trong cuộc đời, chưa hề có sự chuẩn bị chống đỡ những nghiệt ngã của số phận, tai họa lúc này tạo nên ở Kiều một cú sốc tâm lý lớn với những biến thái nội tâm vô cùng phức tạp.
Câu hỏi : Truyện Kiều là tác phẩm tự sự nhưng đoạn trích lại sử dụng ngôn ngữ độc thoại, dụng ý của tác giả ?
Yêu cầu: Để nhân vật tự độc thoại, tức là để cho nhân vật tự suy ngẫm, tự nếm trải, tự giãi bày thế giới nội tâm của mình thì thế giới nội tâm đó hiện lên một cách chân thực và sâu sắc nhất.
Từ đó chúng ta rút ra cho học sinh thấy đoạn trích "Trao duyên" chủ yếu thể hiện diễn biến tâm trạng của nhân vật, khám phá đoạn trích tức là đi sâu khám phá diễn biến tâm lý đó. Đồng thời để thấy rõ tấm lòng cũng như tài năng của Nguyễn Du trong việc miêu tả tâm lí nhân vật ở Truyện Kiều.
2. Phân tích đoạn trích :
Câu hỏi:Dựa vào sự tìm hiểu kết cấu và bố cục đoạn trích em hãy đề xuất cách phân đoạn để phân tích?
Theo dòng chảy tâm trạng của nhân vật trong đoạn trích chúng tôi chia đoạn trích làm hai phần để tìm hiểu, phần thứ nhất từ đầu cho đến câu: "Duyên này thì giữ vật này của chung", phần thứ hai: Tiếp đó cho đến hết.
a. Phần thứ nhất:
Có thể nói màn "Trao duyên" diễn ra toàn bộ ở phần này, ở đây tác giả đã xây dựng một bối cảnh thời gian đặc biệt. Bối cảnh thời gian làm nổi bật diễn biến tâm trạng của nhân vật vì thế để phân tích diễn biến tâm trạng của Kiều ở đây chúng tôi đề xuất những câu hỏi như sau:
Câu hỏi: Kiều tâm sự với Vân ở thời điểm nào? Thời điểm đó tác động gì đến nhân vật?
Yêu cầu : Kiều tâm sự với Vân vào đêm cuối cùng trước ngày Kiều theo Mã Giám Sinh từ bỏ gia đình, từ bỏ mối tình với chàng kim ra đi,đây là khoảng thời gian ngắn ngủi mà kiều còn được ở với gia đình. Sự thắt ngặt của thời gian đó tạo nên sự dồn nén cảm xúc đậm đặc, trong mỗi tích tắc của thời gian có sự vận động của nội tâm của ý thức với những biến hóa khôn lường, bởi chỉ có một thời điểm duy nhất, một con người duy nhất có khả năng nhận lời gửi gắm cái tài sản quý giá nhất, cái hi vọng cuối cùng của Kiều. Tính chất thắt ngặt, dồn nén của bối cảnh thời gian đó đã tạo nên một cơn lốc nhỏ làm cồn lên những suy nghĩ, những thổn thức, thúc đẩy nhân vật hành động. Sau những đắn đo: “Hở môi ra cũng ngượng ngùng/ để lòng thì phụ tấm lòng với ai” Kiều quyết định trao duyên cho em
Câu hỏi : Việc Kiều trao duyên cho em thể hiện rõ nhất ở những câu thơ nào trong đoạn trích?
Yêu cầu: màn trao duyên diễn ra trọn vẹn ở phần thứ nhất của đoạn trích và hoạt động trao duyên cũng chỉ diễn ra ở những câu thơ đầu và cho đến câu thơ "Duyên này thì giữ vật này của chung" Những câu thơ thể hiện một sự kiện có một không hai trong cuộc đời Kiều, bộc lộ sâu sắc nỗi đau của thân phận con người, thân phận tình yêu trong xã hội xưa.
Câu hỏi : Màn trao duyên diễn ra qua trình tự như thế nào?
Yêu cầu : Trong 4 câu thơ đầu ngôn từ và hành động của Kiều vô cùng đặc biệt
* Câu thơ mở đầu có hai từ em, cậy
* Có sự phi lý trong thái độ trân trọng quá đáng với Thúy Vân của Kiều ở hành động "lạy thưa " .
Câu hỏi: Em có nhận xét gì về lời lẽ, hành động của Kiều đối với Thúy Vân trong màn trao duyên? vì sao Kiều lại hành động như thế?
Yêu cầu: Lời nói, hành động được Kiều thể hiện liên tiếp dồn dập, vội vàng. Hành động vội vàng này của Kiều trước hết bắt nguồn từ việc Kiều ý thức sâu sắc hoàn cảnh của mình trong hiện tại: Tình yêu vô cùng mãnh liệt, khát khao hạnh phúc thì vô biên mà thời gian để yêu thương thì ngắn ngủi, chật hẹp. Sóng gió cuộc đời khủng khiếp ập tới bất cứ lúc nào. Chính ý thức thời gian này đã làm cho Kiều phải hành động vội vàng.
Kiều nói với em bằng những lời lẽ khẩn thiết nhất, cảm động nhất “Cậy em em có chịu lời''. Tất cả sự trông đợi, sự ký thác gửi cả vào từ “cậy”, nàng khẩn khoản van nài em bằng những hành động tôn kính quá mức : "lạy, thưa''...làm những điều đó Kiều muốn Vân không thể chối từ và Kiều có thể trả nghĩa chàng Kim trong muôn một.
Hơn nữa nhịp độ gấp gáp vội vàng trong những câu thơ còn thể hiện tinh thần tranh chấp với số mệnh của Kiều; bởi ngay trước đó Kiều đã có những kinh nghiệm xương máu về những phi lý của cuộc đời: vừa nhận lời yêu Kim Trọng “thề hoa chưa ráo chén vàng” Kim Trọng đã phải ra đi. Gia đình đang hạnh phúc “êm đềm trướng rủ màn che” cha mẹ đã : “rường cao rút ngược dây oan”, tai họa có thể ập tới bất cứ lúc nào con người không thể chống đỡ nổi. Kiều phải hành động tranh chấp với thời gian để cứu lấy tình yêu của mình và Kim Trọng.
Câu hỏi: em thử so sánh việc Kiều trao duyên với những việc làm khác của nàng trước và sau này?
Yêu cầu: Những quyết định trong cuộc đời đều được Kiều cân nhắc, suy nghĩ rất chín chắn. Khi quyết định bán mình nàng đã “để lời thệ hải minh sơn/làm con trước phải đền ơn sinh thành” sau những đắn đo, dằn vặt khủng khiếp và sau này cũng thế bao giờ kiều cũng phải suy nghĩ rất nhiều nhưng ở đây dường như Kiều không hề so đo, tính toán nàng nghĩ đến và làm rất mau chóng. Có lẽ nàng biết mình không thể dùng dằng được nữa, thời gian không cho phép, sáng ra nàng đã phải lên đường, phải từ bỏ tất cả.
Câu hỏi: Trong bốn câu cuối của phần thứ nhất Kiều đã thuyết phục em như thế nào? (Bốn câu cuối từ: "Ngày xuân em hãy còn dài” cho đến “ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây” )
Yêu cầu: Để thuyết phục em , Kiều đã dùng những lời lẽ thật đặc biệt. Trong lời của nàng có một loạt thành ngữ nói lên mối quan hệ thân thiết, ruột rà như:
tình máu mủ
lời nước non
Hay là những thành ngữ chỉ cái chết:
thịt nát xương mòn
ngậm cười chín suối
Đó là lời lẽ có sức mạnh lay động tình cảm, lòng trắc ẩn của con người nhất là những người thân. Kiều đã nói với em bằng tất cả sự đau đớn, chua xót cho thân phận mình. Lời của Kiều như là những lời trăng trối, nàng viện dẫn cả tình máu mủ ruột rà, cả cái chết thê thảm để thuyết phục em. Kiều hiểu, để Vân nhận lời cũng rất khó khăn bởi đây là một việc làm thay đổi cả đời Vân, là gánh nặng mà Vân phải mang suốt cả cuộc đời. Nàng vô cùng thông cảm cho em nhưng nàng cũng không còn cách nào khác nghĩa chàng Kim quá nặng mà hoàn cảnh của Kiều lúc này thì quán éo le.
Câu hỏi :Lời lẽ, thái độ và hành động của Kiều ở đây,cho ta thấy điều gì ?
Yêu cầu: Kiều đã quyết định dứt khoát, và tìm mọi cách để thuyết phục Thuý Vân thay mình trả nghĩa chàng Kim, bởi Kiều ý thức sâu sắc về hạn chót của thời gian, Kiều không thể làm gì khác để cứu tình yêu. Trong ý thức nàng đây là hành động duy nhất mà nàng có thể làm cho tình yêu, cho chàng Kim. Cho nên nàng đã dùng tất cả nỗi thống khổ của đời mình và những lời lẽ thuyết phục nhất để thuyết phục Vân.
Câu hỏi: bên cạnh việc thuyết phục Thuý Vân, lời nói của Kiều còn thể hiện điều gì?
Yêu cầu: Bên cạnh đó, lời của Kiều còn cho ta thấy sự cảm nhận của nàng về bi kịch số phận, bi kịch tình yêu, một cách sâu sắc. Trong từng câu, từng chữ nàng nói với em, có sự ý thức sâu sắc về thân phận của mình, đó là sự hiển diện của một "mệnh bạc" của cái chết "Thịt nát xương mòn". Nhưng đặc biệt nhất, ở đây lời của nàng thể hiện nỗi đớn đau tột cùng trước sự tan vỡ của tình yêu. Nàng nhắc lại kỷ niệm tình yêu thật tha thiết (ngay khi đang tìm cách trao duyên cho em). Nàng nhớ như in phút dây gặp gỡ, hẹn thề ''khi gặp chàng Kim, khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề "đó là phút dây đẹp nhất đời nàng. Thế mà tình yêu đó thật ngắn ngủi, những tai hoạ khủng khiếp đổ xuống bất ngờ không thể chống đỡ “sóng gió bất kì”, “giữa đường đứt gánh tương tư” tình yêu phút chốc nát tan.
Câu hỏi: để diễn tả nỗi đau này của Kiều tác giả sử dụng những phương tiện nghệ thuật nào?
Đoạn thơ có điệp ngữ “khi gặp, khi ngày, khi đêm”, âm điệu thơ luyến láy, nhịp điệu thơ gấp gáp, hình ảnh thơ tương phản gay gắt đã diễn giải ý thức sâu sắc của Kiều về sự ngắn ngủi mong manh của hạnh phúc tình yêu giữa cuộc đời dâu bể. Tất cả những điều này làm nổi bật cái bi kịch oan trái của cuộc đời Kiều: Khát khao hạnh phúc thì vô biên, hiện thực đời sống tàn nhẫn, khủng khiếp đã biến hạnh phúc thành chốc lát, tất cả chỉ còn là sự xót xa nuối tiếc khôn nguôi.
Câu hỏi: Sau những lời thuyết phục em việc làm tiếp theo của Kiều là gì?
Yêu cầu: việc làm tiếp theo của Kiều là trao kỉ vật cho em
Câu hỏi: cảm nhận của em khi nghe Kiều dặn dò Vân lúc trao kỷ vật?
Yêu cầu: Kiều trao kỷ vật cho em ''chiếc thoa, bức tờ mây'' những vật minh chứng cho tình yêu của Kim Kiều bây giờ nàng đưa lại cho em, thế là mọi việc đã kết thúc, Vân đã nhận lời việc đền ơn Kim Trọng đã xong. Thế mà, Kiều vẫn không thể thanh thản bởi duyên đã trao nhưng tình thì không thể dứt nên kỷ vật đã trao mà nàng vẫn cố níu kéo bằng lời dặn “vật này của chung”. Câu thơ không hề có một từ ngữ nào miêu tả trực tiếp nội tâm nhân vật, nhưng sự dùng giằng khi trao kỷ vật của Kiều lại gợi dậy cho người đọc những cảm nhận về tâm trạng tiếc nuối, vò xé của nàng.
Như vậy ở phần thứ nhất trong đoạn trích này tác giả không chỉ thể hiện sự "sắc sảo" của Kiều trong việc thuyết phục Thúy Vân trả nghĩa chàng Kim. Nếu chỉ là thuyết phục Vân thì bốn câu đầu đã hoàn thành viên mãn. ở đó có cả việc trao gửi, có người nhận lời gửi gắm, có cả hoàn cảnh éo le "giữa đường đứy gánh tương tư" buộc Kiều phải nhờ cậy nhưng ở đây Kiều giãi bày rất dài dòng, hành động, lời nói của Kiều không chỉ chịu sự chỉ đạo của lý trí mà còn do những cảm nhận về cảnh ngộ của bản thân trong hiện tại đã tạo ra những khủng hoảng nội tâm sâu sắc. Nên những nguồn cơn trong lòng nàng trào dâng không kìm giữ nổi. Chúng ta thấy trong đoạn thơ xuất hiện hai dòng chảy: một dòng chảy của lý trí và một dòng chảy của tâm trạng.
Mạch ngầm đầy dư ba đó biểu hiện sâu sắc cái nhìn cảm thông nhân đạo của Nguyễn Du trước bi kịch cuộc đời Kiều. Đồng thời việc khám phá được những rung động tinh vi trong tâm hồn nhân vật như thế, chứng tỏ nhà thơ là một kì tài trong việc phân tích nội tâm nhân vật.
b.Phần thứ hai:
Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh thấy được diễn biến tâm trạng của nhân vật từ phần thứ nhất đến phần thứ hai bằng câu hỏi có tính chất gợi ý như sau :
Câu hỏi : Nếu phần thứ nhất tâm trạng của Kiều chủ yếu được thể hiện qua sự cảm nhận cái hiện tại ngắn ngủi thì ở phần này tâm trạng của Kiều được biểu hiện qua dòng thời gian nghệ thuật như thế nào ?
Yêu cầu: ở phần thứ nhất Kiều phải dùng lý trí kìm nén cảm xúc để trao duyên cho em thì lúc này việc vì người đã xong, lý trí không còn đủ sức kìm giữ được cảm xúc Kiều rơi vào sự khủng hoảng tâm lý cực độ. Tâm trạng đó của Kiều được biểu hiện bằng những lời nói, hành động của Kiều trong sự cảm nhận thời gian đặc biệt đó là thời gian đồng hiện quá khứ, hiện tại, tương lai.
Câu hỏi : Từ sự kiện trao duyên Kiều cảm nhận hiện tại của mình như thế nào?
Yêu cầu : Khi duyên đã trao, tình yêu vĩnh viễn tan vỡ, hạnh phúc trở thành ảo vọng, hiện tại đã trở thành thời điểm phân chia, ngã ba đường của số phận để nhân vật quay nhìn vào quá khứ, soi rọi vào tương lai. Soi rọi vào tương lai Kiều nhìn thấy hạnh phúc của Thúy Vân khi đã "nên vợ nên chồng" với chàng Kim và Kiều cũng thấy thân phận mình đã trở thành kẻ "mệnh bạc", kẻ bị "mất người" vì thế trong Kiều trào lên niềm tự thương khắc khoải, xót xa.
Câu hỏi : Đồng thời với việc nhìn thấy tương lai đó trong Kiều có diễn biến tâm lý như thế nào? Bộc lộ tâm trạng gì ?
Yêu cầu : Từ hiện tại cay đắng ( mất tình yêu) hình dung một tương lai bất hạnh khi đối sánh số phận mình với duyên tình của Thuý Vân, Kiều quay về tìm đến với tình yêu bằng kỷ niệm của ngày gặp gỡ hẹn thề, "phím đàn với mảnh hương nguyền”nhưng tất cả đã không còn. Mọi việcđã trở thành quá khứ, hai từ "ngày xưa" đã đẩy lùi cái kỷ niệm êm đềm ngày nào vào quá khứ xa xôi, vời vợi (mặc dù tình yêu Kim - Kiều vừa mới ''thề hoa chưa ráo chén vàng”, những sự biến trong gia đình Vương ông xảy ra gần như đồng thời với việc Kim Trọng về Liêu Dương). Cái ngày nay phút chốc đã là cái ngày xưa cả "phím đàn", cả "lò hương " đêm thề thốt, những gì đẹp nhất, quý giá nhất đã hun hút xa xôi, chìm vào bóng tối. Kiều trở về quá khứ tưởng tìm được nơi an ủi nhưng kỷ niệm lại là nhát dao cứa mạnh vào tim, đẩy nàng tới sự hoảng loạn, nàng chạy trốn kỷ niệm tìm đến với tương lai.
Câu hỏi : Trước mắt Kiều hiện lên một tương lai như thế nào ?
Yêu cầu : Trước mắt Kiều hiện lên một tương lai thật hãi hùng, nàng nhìn thấy số phận của mình nơi mai hậu thật là thê thảm, nàng đã là người của thế giới bên kia, linh hồn nàng vật vờ theo lá cây ngọn cỏ trở về mang theo niềm tiếc nuối khắc khoải ''hồn còn mang nặng lời thề " nhưng tình yêu bất diệt của nàng không còn chỗ trong cuộc sống hiện thực. Cũng ''lò hương ấy",''tơ phím này" nhưng người so tơ, đốt lò không còn là Kiều cũng không còn là Kim của ngày xưa. Sự trở về của Kiều chỉ còn niềm hy vọng duy nhất là sự cảm thông của người ngày xưa “rưới xin chén nước cho người thác oan” Kiều ví mình như chàng Trương Chi thủa nào mang nặng khối tình xuống Tuyền đài, chỉ có sự thấu hiểu của người ngày xưa mới có thể hoá giải nỗi oan tình, nàng khẩn cầu niềm an ủi để xoa dịu nỗi đau. Vậy mặc dù duyên đã trao, nghĩa chàng Kim đã trả nhưng Kiều không hề thanh thản, sự tan vỡ oan khuất của tình yêu làm nàng đau đớn không cùng hồn nàng không thể về nơi siêu tịnh, nàng chỉ hy vọng mai hậu Kim Trọng cảm thông may ra nỗi oan thác này mới được giải tỏa.
Câu hỏi : Em có nhận xét gì về dòng thời gian ở đây?
Yêu cầu: Dòng thời gian ở đây không tuân theo sự chảy trôi của thời gian khách quan bên ngoài mà nó có những nhịp độ hoàn toàn khác: có sự hồi hoàn giữa thời gian hiện tại, quá khứ, tương lai trong một khoảnh khắc ngắn của cả cuộc đời. Giọng thơ cũng thay đổi, hình ảnh thơ chập chờn ma mị, thời điểm khôn
File đính kèm:
- Sang kien kinh nghiem Ngu van Truyen Kieu.doc