I. Mục tiêu bài học
Sau bài này học sinh cần nắm được:
1. Về kiến thức
- Biết được Dương lịch là loại lịch được dùng phổ biến nhất trên thế giới hiện nay và được xây dựng trên cơ sở chu kì quay quanh Mặt trời của Trái Đất. Âm lịch là loại lịch theo Mặt Trăng được xây dựng trên cơ sở chu kì quay quanh Trái Đất của Mặt Trăng.
- Biết được cách tính năm nhuận trong dương lịch và âm lịch có sự khác nhau.
2. Về mặt kĩ năng
- Rèn luyện cho học sinh kĩ năng vận dụng kiến thức vào làm các bài tập cụ thể
- Rèn luyện kĩ năng sử dụng các kiến thức trong bài học để liên hệ thực tế với Việt Nam.
7 trang |
Chia sẻ: lephuong6688 | Lượt xem: 2024 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo án môn Địa lý lớp 10 - Tìm hiểu về âm lịch, dương lịch và năm nhuận (2 tiết), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ngày soạn: 16/10/2009
Ngày giảng: (10 Địa)
Chủ đề tự chọn:
TÌM HIỂU VỀ ÂM LỊCH, DƯƠNG LỊCH VÀ NĂM NHUẬN (2 tiết)
I. Mục tiêu bài học
Sau bài này học sinh cần nắm được:
1. Về kiến thức
- Biết được Dương lịch là loại lịch được dùng phổ biến nhất trên thế giới hiện nay và được xây dựng trên cơ sở chu kì quay quanh Mặt trời của Trái Đất. Âm lịch là loại lịch theo Mặt Trăng được xây dựng trên cơ sở chu kì quay quanh Trái Đất của Mặt Trăng.
- Biết được cách tính năm nhuận trong dương lịch và âm lịch có sự khác nhau.
2. Về mặt kĩ năng
- Rèn luyện cho học sinh kĩ năng vận dụng kiến thức vào làm các bài tập cụ thể
- Rèn luyện kĩ năng sử dụng các kiến thức trong bài học để liên hệ thực tế với Việt Nam.
3. Về thái độ
- Giáo dục cho học sinh ý thức tự học, tự tìm hiểu những vấn đề xung quanh.
II. Sự chuẩn bị của giáo viên và học sinh
1. Sự chuẩn bị của giáo viên
- Giáo án, tài liệu tham khảo về lịch và cách tính lịch trên thế giới ( các tài liệu tham khảo trên được trích dẫn trong một số sách như Địa lí tự nhiên đại cương 1 – Nguyễn Trọng Hiếu, Thiết kế bài giảng địa 10 nâng cao – Vũ Quốc Lịch, )
2. Sự chuẩn bị của học sinh
- Vở ghi, SGK, đồ dùng học tập
III. Tiến trình bài dạy
1. Kiểm tra bài cũ (5’)
GV yêu cầu học sinh nhắc lại về hệ quả các mùa trong năm của chuyển động xung quanh mặt trời của trái đất.
2. Dạy bài mới
* Đặt vấn đề (1’): Trong đời sống hàng ngày chúng ta vẫn có thói quen dùng lịch để xây dựng các kế hoạch làm việc và học tập. Cuốn lịch treo tường ko thể thiếu được trong mỗi một gia đình. Vậy lịch được xây dựng dựa trên những cơ sở nào, trên thế giới hiện nay đang dùng những loại lịch nào, tại sao lại có năm nhuận Đó chính là nội dung trong tiết chủ đề tự chọn của chúng ta hôm nay.
* Nội dung bài:
Hoạt động 1: Tìm hiểu về các loại lịch trên thế giới (25’)
GV: Hãy kể tên những loại lịch mà em biết? Ở Việt Nam hiện nay sử dụng loại lịch nào trong những loại vừa kể tên?
HS trả lời, giáo viên chuẩn kiến thức.
GV: Có 3 loại lịch phổ biến trên thế giới:
+ Dương lịch
+ Âm lịch
+ Âm dương lịch
GV: Giải thích về tên gọi của các loại lịch trên.
Hiện nay ở nước ta và một số nước khác trong khu vực Ðông Nam Á đang còn xuất bản và sử dụng hai loại lịch, đó là dương lịch và âm lịch.
+ Dương lịch là loại lịch theo Mặt trời, dùng đơn vị thời gian thiên nhiên là năm Mặt trời, tức là độ dài chu kỳ quay của Trái đất xung quanh Mặt trời.
+ Âm lịch là loại lịch theo Mặt trăng, dùng đơn vị thời gian thiên nhiên là tháng Mặt trăng, tức là độ dài chu kỳ quay của Mặt trăng xung quanh Trái đất.
Theo Hán - Việt thì Mặt trời là Thái Dương, Mặt trăng là Thái Âm. Do vậy, lịch theo Mặt trời gọi là dương lịch, lịch theo Mặt trăng gọi là âm lịch. Vì tồn tại hai loại lịch như vậy và cứ mỗi lần đón mừng xuân mới của năm âm lịch lại là một dịp bàn tán xôn xao về tên của năm ấy. Người ta cho rằng nếu năm nào có nhuận thì năm đó sẽ là một năm mất mùa, thiên tai lắm, địch họa khôn lường... Vậy sự thực tên năm âm lịch, nhuận có phải do thượng đế, thần thánh sinh linh gì tạo ra như một số học thuyết của chủ nghĩa duy tâm đã truyền bá trong nhân dân ta? Trong khuôn khổ của bài viết này, chỉ đề cập đến việc đặt tên năm âm lịch và thời tiết theo âm lịch hay theo dương lịch để cùng tham khảo. Từ thời xa xưa, con người vẫn tin rằng có một mối liên hệ huyền bí nào đó giữa vũ trụ và sự sống. Vì vậy, người thượng cổ đã xây dựng lên cả một kho tàng thần thoại lý thú về bầu trời sao ngoạn mục thể hiện trong các chuyện cổ Hy Lạp. Tất nhiên trong những chuyện hoang đường như vậy đã không thoát khỏi tư tưởng huyền bí mà vai trò thiêng liêng của thượng đế đã ngự trị trong các tôn giáo suốt thời gian dài. Từ thế kỷ XVI, khoa học thiên văn phát triển đã đánh dấu bước ngoặt lịch sử của con người trong nhận thức thế giới trời sao. Trong những thế kỷ gần đây, người ta biết rằng Mặt trời là nguyên nhân tồn tại của sự sống và phát triển của loài người. Nhờ sự hiểu biết về thuyết chuyển động tương đối trong vật lý cơ học, con người mới khẳng định rằng Trái đất cùng với các hành tinh khác quay xung quanh Mặt trời tạo thành hệ Mặt trời và gọi chuyển động ấy là chuyển động biểu kiến của Mặt trời xung quanh Trái đất hay còn gọi là đường Hoàng Ðạo. Người phương Ðông chia đường Hoàng Ðạo ra làm 12 cung kể từ điểm Xuân Phân, qua Hạ Chí, đến Thu Phân và đến Ðông Chí để biểu thị các mùa khí hậu nóng, lạnh khác nhau như: xuân, hạ, thu, đông.
Người phương Tây đặt tên ấy theo tên của các chòm sao như Ðại Hùng, Tiểu Vương, Thiên Vương, Tiên Nữ, Phi Mã... Các nhà cổ đại Trung Quốc lại đặt 12 cung trên theo chi, tượng trưng cho Trời là: Tý, Sửu, Dần, ...Tuất, Hợi. Họ kết hợp với 10 can, tượng trưng cho Ðất là: Giáp, Ất, Bính... Nhâm, Quý để đặt tên năm âm lịch theo nguyên tắc Can chi ký pháp, tức là ghép can với chi theo một trật tự thứ tự được thể hiện rõ trong thuật số tử vi. Thực ra tên năm âm lịch hàng năm chỉ là một quy ước của lịch pháp âm lịch mà nền văn minh cổ đại Trung Quốc đã dùng trong việc sắp xếp lịch trong các kỷ nguyên và được truyền sang nước ta trở thành lịch cổ truyền. Cho đến nay vẫn còn nhiều người cho rằng tên năm âm lịch có ảnh hưởng quyết định đến tương lai cuộc sống của mỗi con người, có năm ảnh hưởng đến chu kỳ thời tiết trong năm như: Năm Thìn nhiều bão, năm Mão mất mùa, năm Tý, năm Dần nhiều thiên tai, địch họa....
Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay còn một số vùng quen dùng âm lịch để tính toán chỉ đạo sản xuất nông nghiệp dẫn đến nhiều trường hợp bỏ lỡ thời vụ, đặc biệt vào những năm âm lịch có nhuận. Chính vì vậy, kể từ năm 1968, Chính phủ đã quyết định Nông lịch theo dương lịch và nước ta bắt đầu sử dụng loại âm lịch mới được tính toán theo múi giờ số 7 (Kinh độ 105 độ Ðông) đi qua Thủ đô Hà nội để thay thế cho loại âm lịch cũ được tính toán theo múi giờ số 8 (Kinh độ 120 độ Ðông) đi qua Thủ đô Bắc Kinh - Trung Quốc.
GV: Đưa ra khái niệm về lịch “Là hệ thống đếm những khoảng thời gian dài (năm). Mỗi một loại lịch kể tên trên lại được xây dựng trên những cơ sở khác nhau:
- Dương lịch (lịch Gơ-rê-goa): Cách đây 42 thế kỉ người Ai Cập đã căn cứ vào thời gian trái đất chuyển động xung quanh mặt trời để tính năm, tháng vì thế được gọi là dương lịch (tức là thuộc về mặt trời). Người Ai Cập đã quan sát bóng của kim tự tháp để tính thời gian trái đất chuyển động xung quanh mặt trời. Theo lịch ban đầu của người Ai Cập thì 1 năm có 12 tháng, một tháng có 30 ngày, 10 ngày là một tuần, còn lại 5 ngày thừa để làm lễ cuối năm. Đó chính là nguồn gốc của dương lịch. Thời gian trái đất chuyển động xung quanh mặt trời là 365,24198 ngày và gọi là năm thật hay năm thiên văn. Còn năm lịch được lấy là 365 ngày. Như vậy năm lịch và năm thiên văn có sự chênh lệch nhau. Cho đến nay đã có nhiều sự chỉnh sửa về dương lịch để thuận tiện cho đời sống hàng ngày mà vẫn đảm bảo được tính chính xác so với năm thiên văn.
- Âm lịch: là loại lịch theo Mặt trăng, là loại lịch cổ của các dân tộc sống chủ yếu bằng chăn nuôi. Người Babylon dùng lịch này đầu tiên từ mấy ngàn năm trước kỷ nguyên chúng ta. Những người dùng Âm lịch đầu tiên gồm người Ai Cập, Trung Hoa, Hébreux (Do Thái thời xưa). Hiện tại lịch Musulman (Hồi giáo) và một số dân Phi châu cũng dùng âm lịch.
Vì phải bắt đầu một tháng lúc trăng mới mọc và chu kỳ quay của Mặt trăng xung quanh Trái đất có độ dài bằng 29,5... , số ngày không chẵn, nên họ chia ra các tháng lẻ sẽ có 30 ngày và các tháng chẵn sẽ có 29 ngày. Như vậy năm âm lịch sẽ dài khoảng 354 ngày và ngắn hơn năm dương lịch.
- Âm dương lịch: Để khắc phục những nhược điểm của âm lịch, cách đây khoảng 2600 năm người Trung Quốc đã xây dựng âm dương lịch trên cơ sở kết hợp cả hai vận động (vận động của mặt trăng quanh trái đất và vận động của trái đất xung quanh mặt trời).Âm dượng lịch lấy thời gián biến đổi của một tuần trăng làm độ dài của tháng (tức là 29,5 ngày). Một năm âm dương lịch cũng có 12 tháng, mỗi tháng sẽ chia ra tháng đủ là 30 ngày, tháng thiếu là 29 ngày. Mỗi năm sẽ có 354 hoặc 355 ngày. Việt Nam ngoài dương lịch ra còn sử dụng loại lịch này.
Hoạt động 2: Tìm hiểu về cách tính mùa theo các loại lịch (15’)
GV: Do có sự chênh lệch về thời gian giữa âm dương lịch và dương lịch cho nên cách tính các mùa trong 2 loại lịch này cũng có sự khác nhau. Các nước vùng ôn đới ở BCB có 4 mùa rõ rệt, cụ thể như sau:
Mùa xuân (21/3 – 22/6)
Mùa hạ (22/6 – 23/9)
Mùa thu ( 23/9 – 22/12)
Mùa đông (22/12 – 21/3)
=> Vùng ôn đới ở bán cầu Nam các mùa hoàn toàn ngược lại với vùng ôn đới ở bán cầu Bắc. Những nước ở khu vực nội chí tuyến như nước ta do biểu hiện của các mùa không rõ rệt cho nên cách tính mùa cũng khác so với những nước ở khu vực ôn đới.
GV: Phát cho học sinh bảng phân định các mùa theo dương lịch như sau:
Phân định các mùa
Bắc bán cầu
Dương lịch
Nam bán cầu
Truyền thống
Khí tượng học
Thiên văn
Khí tượng học
Thiên văn
Mùa đông
Mùa đông
Mùa đông
Tháng 1
Mùa hè
Mùa hè
Mùa xuân
Tháng 2
Mùa xuân
Tháng 3
Mùa thu
Mùa xuân
Tháng 4
Mùa thu
Mùa hè
Tháng 5
Mùa hè
Tháng 6
Mùa đông
Mùa hè
Tháng 7
Mùa đông
Mùa thu
Tháng 8
Mùa thu
Tháng 9
Mùa xuân
Mùa thu
Tháng 10
Mùa xuân
Mùa đông
Tháng 11
Mùa đông
Tháng 12
Mùa hè
GV: Một số nước ở châu Á cũng chia ra 4 mùa nhưng ngày bắt đầu các mùa được tính sớm hơn các mùa của dương lịch khoảng 45 ngày.
GV: Treo sơ đồ “ Sự phân chia mùa theo dương lịch và âm dương lịch” để học sinh thấy được sự chênh lệch về cách tính mùa đối với 2 loại lịch trên.
GV: Cách tính mùa trong âm dương lịch phức tạp hơn so với dương lịch.Mỗi năm cũng được chia làm 4 mùa nhưng có thêm 24 tiết khí, mỗi tiết khí cách nhau 15 ngày phù hợp với một ví trí trên quỹ đạo của trái đất quanh mặt trời.
Hoạt động 3: Tìm hiểu về năm nhuận trong dương lịch và âm lịch (25’)
GV: Đưa ra cách quan niệm về năm nhuận:Nhuận là do chủ quan của người làm lịch đặt ra nhằm cho thời gian phù hợp với quy luật thiên nhiên. Dương lịch và âm lịch đều có nhuận.
GV : Dựa vào sự hiểu biết của mình hãy cho biết năm nhuận trong dương lịch và âm dương lịch được thể hiện như thế nào ?
HS trả lời dựa vào hiểu biết thực tế, GV chuẩn xác.
GV : Giải thích vì sao có năm nhuận :
Như chúng ta đã biết, quá trình phát triển của lịch sử loài người là quá trình tìm kiếm để chọn lọc những đơn vị thời gian đó thành những hệ đếm để phục vụ cho hoạt động xã hội. Lịch (âm lịch và dương lịch) là những bảng ghi thứ tự thời gian, chia chuỗi thời gian liên tục thành những đơn vị thời gian và sắp xếp thành một hệ đếm phù hợp với nhu cầu của con người. Ta biết rằng trong Thế giới trời sao có 3 đơn vị thời gian thiên nhiên quan trọng, nó gắn liền với thế giới trần gian - một thế giới của muôn loài động vật rất phong phú và đa dạng. Ba đơn vị thời gian đó là:
- Năm Mặt trời biểu thị chu kỳ thời tiết, tức là chu kỳ quay của Trái đất quanh Mặt trời có độ dài bằng 365,24198... ngày (gần 365,25 ngày).
- Tháng Mặt trăng biểu thị chu kỳ quay của Mặt trăng xung quanh Trái đất có độ dài bằng 29,5... ngày.
- Ngày là thời gian ánh sáng Mặt trời trở lại do nguyên nhân Trái đất tự quay quanh mình vừa tròn một vòng.
Ba đơn vị thời gian này là bộ máy chỉ thời gian trong thái dương hệ không phải do con người tự đặt ra. Các nhà thiên văn khí tượng đã nhận thấy 3 đơn vị thời gian thiên nhiên này không thông ước với nhau, nghĩa là không tìm được một số nào chia hết cho cả 3 đơn vị. Vì vậy, nếu lấy ngày làm đơn vị thì tháng Mặt trăng và năm Mặt trời không phải là số ngày nguyên, mà có vô số số lẻ. Người làm lịch thì phải tính năm, tháng có bao nhiêu ngày. Bởi vậy những phần lẻ trên đây đã làm cho bài toán tính lịch trở thành hắc búa. Nếu bỏ phần lẻ đi thì tháng không đúng với tuần trăng, năm đúng với mùa khí hậu; mà lịch thì phải lấy tròn. Do đó trong âm lịch phải có tháng thiếu (29 ngày), tháng đủ (30 ngày); trong dương lịch có tháng 30 ngày, tháng 31 ngày; riêng tháng hai là 28 ngày hoặc 29 ngày. Năm, phải có năm thường, năm nhuận (dài hơn). Ðây không phải là một quy luật thiên nhiên, mà là một quy luật chủ quan dùng thuật lấy thừa bù thiếu của người xếp lịch. Bởi vậy dương lịch và âm lịch đều có nhuận.
a. Nhuận của dương lịch
Là để khắc phục phần lẻ của năm Mặt trời (0,242198... ngày) do chưa đưa vào để xếp lịch. Vì vậy cứ 4 năm dư ra 1 ngày, một thế kỷ dư ra gần một tháng... Ðể tránh sai sót này, người làm lịch đã quy ước trung bình 4 năm thêm 1 ngày vào tháng 2, tức là năm đó có 366 ngày (năm Nhuận) và tháng hai có 29 ngày.
Tuy nhiên nếu theo cách tính này thì mỗi lần nhuận lịch lại sớm thêm 0,03120484 ngày cho nên người ta đã tiến hành điều chỉnh về cách tính năm nhuận như sau : Cứ 100 lần nhuận (trong vòng 400 năm) sẽ phải có 3 lần không nhuận. Đó là theo năm thiên văn còn theo năm lịch thì năm nhuận sẽ là những năm chia hết cho 4. Nhưng sau 400 năm thì lịch sẽ lại sớm hơn 3 ngày cho nên cứ 400 năm lại phải bỏ bớt 3 năm nhuận (giống như đối với năm thiên văn) cho nên cách tính như sau : năm nhuận là những năm con số của năm đó chia hết cho 4 nhưng đối với những năm chứa số nguyên thế kỉ thì phải chia hết cho 400.
b. Nhuận của âm lịch và âm dương lịch
Là để khắc phục sự sai khác tháng Mặt trăng (tháng âm lịch) với quy luật thời tiết - chu kỳ thời tiết (năm dương lịch). Bởi vì, tháng âm lịch chỉ có 29-30 ngày, nên dẫn đến năm âm lịch chỉ có 354-355 ngày, ngắn hơn năm dương lịch trung bình 11 ngày; hay nói cách khác là năm âm lịch đi nhanh hơn năm dương lịch là 11 ngày, 3 năm nhanh hơn 1 tháng, 9 năm nhanh hơn một mùa. Vì vậy, ngày đầu năm vào mùa Xuân thì 9 năm sau vào Hạ... Chính vì thế người đời xưa phải ăn Tết Nguyên Ðán vào đủ các loại hình thời tiết, không còn mang tính cổ truyền khí tiết của ngày tết đượm sắc Xuân mới. Ðể khắc phục tình trạng trên, người làm lịch đã phải tăng số ngày cho năm âm lịch bằng hình thức nhuận với quy ước là Thập cửu niên thất nhuận nghĩa là cứ 19 năm có 7 năm nhuận, năm nhuận âm lịch có 13 tháng.
Cách tính : Lấy năm dương lịch chia cho số 19 nếu như số dư là một trong các số sau đây thì năm đó sẽ là năm nhuận : 0,3,6,9,11,14,17.
VD : Ðể đảm bảo đúng vào tiết xuân ngày Mồng Một Tết chỉ ở trong khoảng từ tiết Lập Xuân đến tiết Vũ Thủy, tức là từ ngày 21.01 đến 20.02 dương lịch. Nếu năm âm lịch nào (khi chưa tính thêm tháng nhuận) có ngày Mồng Một Tết năm sau sớm hơn này 21.01 dương lịch thì năm đó phải là năm nhuận. Theo quy ước trên, qua năm 2001, ngày Mồng Một Tết Tân Tỵ nhằm vào ngày 24.01 dương lịch (hợp với quy ước). Do vậy, năm 2001 - Tân Tỵ là năm không có nhuận âm lịch (13 tháng).
- Tháng âm lịch nào trong năm nhuận không có ngày Trung khí thì tháng ấy gọi là tháng nhuận, nghĩa là tháng gọi tên của tháng trước kề liền.
- Nếu 1 hay 2 năm liền kề nhau có 2 tháng đều thiếu ngày Trung khí thì tháng trước là tháng nhuận, tháng sau không phải là tháng nhuận nữa.
Hoạt động 4 : Thực hành về cách tính lịch và nhận xét về thời tiết từng mùa theo dương lịch (15’)
Mục đích : Để cho học sinh hiểu rõ hơn về cách tính năm nhuận trong các loại lịch và biết được thời tiết các mùa theo dương lịch.
GV : Cho các năm sau : 1700, 1800, 1900, 2000, 2001, 2004, 2006, 2007, 2009. Hãy xác định năm nhuận theo dương lịch và theo âm dương lịch.
HS tính toán nhanh và trình bày kết quả, GV chuẩn xác kiến thức.
GV: Dựa vào sự hiểu biết của mình hãy nêu đặc điểm chung về thời tiết của 4 mùa: Xuân – hạ - thu – đông theo dương lịch ở bán cầu Bắc. Giải thích?
HS trả lời, GV chuẩn xác kiến thức.
Đặc điểm thời tiết các mùa như sau:
- Mùa xuân: Nhiệt độ chưa cao, thời tiết ấm dần lên so với mùa đông do mặt đất mới bắt đầu tích lũy nhiệt.
- Mùa hạ: Mặt đất nhận thêm lượng bức xạ lớn cho nên nhiệt độ không khí tăng cao, thời tiết nóng nực.
- Mùa thu: dự trữ nhiệt ở mặt đất giảm, thời tiết vẫn còn ấm áp.
- Mùa đông: mặt đất tiêu hao hết nhiệt dự trữ nên không khí trở nên lạnh.
GV: Chú ý học sinh về chuyển động của mặt trời theo thời gian 4 mùa để giải thích.
3. Củng cố, luyện tập (3’)
GV khái quát ngắn gọn các kiến thức đã học trong bài và nhấn mạnh về vai trò quan trọng của lịch trong đời sống của con người.
4. Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà (1’)
GV yêu cầu học sinh tìm hiểu về 24 tiết khí trong âm dương lịch và cách chia mùa cụ thể ở Việt Nam theo âm dương lịch (từ ngày nào đến ngày nào trong các tháng).
Đã kiểm tra ngày tháng năm 2009
Tổ trưởng chuyên môn
Lương Sơn Hà
File đính kèm:
- Chu de tu chon.doc