1.1 WebQuest và ứng dụng của webquest trong dạy học
Cùng với việc ra đời và phổ biến của internet, ngày nay việc thu thập và xử lý thông tin trên mạng là một kỹ năng cần thiết trong nghiên cứu và học tập cũng như trong lao động nghề nghiệp. Việc ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng internet trong dạy học ngày càng trở nên quan trọng. Tuy nhiên, việc học sinh truy cập thông tin một cách tự do trên mạng internet trong dạy học có những nhược điểm chủ yếu là:
- Việc tìm kiếm thường kéo dài vì lượng thông tin trên mạng lớn, dễ bị chệch hướng khỏi bản thân đề tài
- Nhiều tài liệu được tìm ra với nội dung chuyên môn không chính xác, có thể dẫn đến “nhiễu thông tin”
- Chi phí quá lớn cho việc đánh giá và xử lý thông tin trong dạy học
- Việc tiếp thu kiến thức qua truy cập thông tin trên mạng có thể chỉ mang tính thụ động mà thiếu sự đánh giá, phê phán của người học.
39 trang |
Chia sẻ: lephuong6688 | Lượt xem: 605 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Giáo án môn Vật lý 10 - Chương I: Cơ sở lí luận của việc vận dụng kĩ thuật webquest vào dạy học vật lý, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC VẬN DỤNG KĨ THUẬT
WEBQUEST VÀO DẠY HỌC VẬT LÝ
1.1 WebQuest và ứng dụng của webquest trong dạy học
Cùng với việc ra đời và phổ biến của internet, ngày nay việc thu thập và xử lý thông tin trên mạng là một kỹ năng cần thiết trong nghiên cứu và học tập cũng như trong lao động nghề nghiệp. Việc ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng internet trong dạy học ngày càng trở nên quan trọng. Tuy nhiên, việc học sinh truy cập thông tin một cách tự do trên mạng internet trong dạy học có những nhược điểm chủ yếu là:
Việc tìm kiếm thường kéo dài vì lượng thông tin trên mạng lớn, dễ bị chệch hướng khỏi bản thân đề tài
Nhiều tài liệu được tìm ra với nội dung chuyên môn không chính xác, có thể dẫn đến “nhiễu thông tin”
Chi phí quá lớn cho việc đánh giá và xử lý thông tin trong dạy học
Việc tiếp thu kiến thức qua truy cập thông tin trên mạng có thể chỉ mang tính thụ động mà thiếu sự đánh giá, phê phán của người học.
Để khắc phục những nhược điểm trên người ta đã phát triển phương pháp WebQuest.
1.1.1 Khái niệm WebQuest
Ngày nay WebQuest được sử dụng rộng rãi trên thế giới, trong giáo dục phổ thông cũng như đại học. WebQuest được định nghĩa nguyên tác là một bài học có yêu cầu- định hướng, trong đó hầu hết các thông tin mà người học làm việc xuất phát từ web. Nó có thể được tạo ra bằng cách dùng các chương trình khác nhau, bao gồm một tài liệu cần xử lý được liên kết đến các trang web.Như vậy, WebQuest là một trang Web trợ giúp học tập, trong đó các nội dung học tập được đưa ra dưới dạng câu hỏi đồng thời cung cấp nguồn tài liệu tham khảo để học sinh có thể sử dụng trả lời các câu hỏi đó.[7]
Theo nghĩa hẹp, WebQuest được hiểu như một phương pháp dạy học (WebQuest - Method); theo nghĩa rộng, WebQuest được hiểu như một mô hình, một quan điểm về dạy học có sử dụng mạng internet.[8]
WebQuest cũng là bản thân đơn vị nội dung dạy học được xây dựng để sử dụng phương pháp này, và là trang WebQuest được đưa lên mạng. Khi gọi WebQuest là một phương pháp dạy học, cần hiểu đó là một phương pháp phức hợp, trong đó có thể sử dụng những phương pháp cụ thể khác nhau. Với tư cách là một phương pháp dạy học, có thể định nghĩa WebQuest như sau:
WebQuest là một phương pháp dạy học mới, được xây dựng trên cơ sở phương tiện dạy học mới là công nghệ thông tin và Internet. Trong tiếng Việt chưa có cách dịch hoặc dùng thuật ngữ thống nhất cho khái niệm này. Trong tiếng Anh, Web ở đây nghĩa là mạng, Quest nghĩa là tìm kiếm, khám phá. Dựa trên thuật ngữ và bản chất của khái niệm có thể gọi WebQuest là phương pháp “khám phá trên mạng”. WebQuest là một dạng đặc biệt của dạy học sử dụng truy cập mạng Internet.
Từ những phân tích trên, theo chúng tôi, WebQuest là một phương pháp dạy học, trong đó học sinh tự lực thực hiện trong nhóm một nhiệm vụ về một chủ đề phức hợp, gắn với tình huống thực tiễn. Những thông tin cơ bản về chủ đề được truy cập từ những trang liên kết (Internet links) do giáo viên chọn lọc từ trước. Việc học tập theo định hướng nghiên cứu và khám phá, kết quả học tập được học sinh trình bày và đánh giá.
1.1.2 Phân loại Webquest
WebQuest có thể chia thành các WebQuest lớn và các WebQuest nhỏ:
WebQuest lớn: xử lý một vần đề phức tạp trong một thời gian dài (ví dụ cho đến một tháng), có thể coi như một dự án dạy học.
WebQuest nhỏ: trong một vài tiết học (ví dụ 2 đến 4 tiết), học sinh xử lý một đề tài chuyên môn bằng cách tìm kiếm thông tin và xử lý chúng cho bài trình bày, tức là các thông tin chưa được sắp xếp sẽ được lập cấu trúc theo các tiêu chí và kết hợp vào kiến thức đã có trước của các em.
1.1.3 Ứng dụng của WebQuest trong dạy học
1.1.3.1 Các dạng ứng dụng của WebQuest
Có hai dạng WebQuest:
Loại ngắn hạn: được thiết kế để người học hoàn thành trong một thời gian ngắn (dưới một tuần) nhằm thu lượm kiến thức, tích hợp với kiến thức cữ và ứng dụng.
Loại dài hạn: được thiết kế để người học hoàn thành trong một thời gian dài (từ một đến bốn tuần) nhằm mở rộng, tinh lọc và tạo ra kiến thức mới.
1.1.3.2 Mục đích sử dụng WebQuest
WebQuest được thiết kế nhằm giúp người học sử dụng thông tin hơn là phải tốn thời gian tìm kiếm thông tin.
Giúp người học phát triển các kỹ năng phân tích, tổng hợp và đánh giá (các kỹ năng tư duy bậc cao theo phân loại của Bloom).
1.1.3.3 Lợi ích sử dụng WebQuest
Các dự đoán về cuộc sống và làm việc cho những thập niên mới, một vài đặc điểm được phổ quát:
- Ngày mai, người lao động cần thiết để làm việc theo nhóm.
- Cá nhân sẽ di chuyển qua một số ngành nghề trong quá trình làm việc.
- Các vấn đề phải đối mặt với công dân sẽ nhiều hơn và phức tạp hơn.
- Lượng thông tin có sẳn cho tất cả mọi người sẽ phát triển với tốc độ nhanh chóng, trong đó nhiều thông tin xuất phát từ nhiều nguồn mà chưa được sàng lọc, xác minh. Điều đó có nghĩa là, người lao động và công dân trong tương lai cần vật lộn với sự mơ hồ. Họ cần một quá trình học tập lâu dài, tôn vinh nhiều quan điểm và đánh giá được thông tin trước khi hành động trên nó. Công nhân và công dân của ngày mai là các học sinh đang ngồi trong lớp học của ngày hôm nay.
Sử dụng Webquest trong lớp học chúng ta có thể giúp xây dựng một nền tảng vững chắc chuẩn bị cho tương lai.
WebQuest có thể được sử dụng ở tất cả các loại hình trường học. Điều kiện cơ bản là học sinh phải có kỹ năng đọc cơ bản và có thể tiếp thu, xử lý các thông tin dạng văn bản. Bên cạnh đó, học sinh cũng phải có những kiến thức cơ bản trong thao tác với máy tính và Internet.
WebQuest có thể sử dụng cho mọi môn học. Ngoài ra, WebQuest rất thích hợp cho việc dạy liên môn.
1.1.3.4 Tự học và vai trò của Webquest trong tổ chức hoạt động tự học
Theo số liệu khoa học: Tỷ lệ trung bình về vai trò của các giác quan trong việc thu nhận tri thức: Vị giác – 1%, Xúc giác – 1,5%, Khứu giác – 3,5%, thính giác – 11%, Thị giác – 83% và tỷ lệ tri thức còn lưu lại trong trí nhớ sau khi thu nhận bằng từng giác quan, bằng sự kết hợp các giác quan hoặc qua việc tự trình bày hoặc qua việc thao tác tự thực hiện: Nghe – 20%, Nhìn – 30%, Nghe và nhìn – 50%, Tự trình bày–80%, Tự trình bày và làm – 90% [6]. Điều đó chứng tỏ rằng, tự học là một loại hình học tập mang lại hiệu quả học tập tốt nhất. Hoạt động tự học được coi là hoạt động tự tổ chức để chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo diễn ra dưới nhiều hình thức, cấp độ khác nhau.
Có 5 hình thức tự học cơ bản: Tự học trong một giai đoạn hay một khâu của quá trình học tập, tự học trong quá trình học tập ở trường có hướng dẫn của giáo viên, tự học qua phương tiện truyền thông, tự học có hướng dẫn qua tài liệu và tự học hoàn toàn. Như vậy, tự học không có nghĩa là học riêng một mình, cách tự học tốt nhất là học với nhóm. Khi người học đã tự tiếp nhận kiến thức thì vai trò người thầy (hướng dẫn, tác động...) là không thể thiếu. Bản chất của tự học là tự làm việc với chính mình trước, nghiên cứu tài liệu, trao đổi với bạn bè theo cách học với nhóm và được thầy khơi gợi, hướng dẫn. Như vậy, để tự học đạt hiệu quả cần phải có tài liệu đầy đủ, rõ ràng và có sự hướng dẫn của giáo viên lưu ý học sinh vào các nội dung trọng điểm, cơ bản của tài liệu. WebQuest làm tốt điều này.
Webquest có tác dụng định hướng nguồn thông tin . Trong Webquest người học tự lực thực hiện trong nhóm một nhiệm vụ về một chủ đề phức hợp, gắn với tình huống thực tiễn. Những thông tin cơ bản về chủ đề được truy cập từ những trang liên kết do giáo viên chọn lọc từ trước. Việc học tập theo định hướng nghiên cứu và khám phá, kết quả học tập được người học trình bày và đánh giá. Như vậy, quá trình học tập này là quá trình tự điều khiển, học sinh tự lực hoàn thành nhiệm vụ được giao, tự điều khiển và kiểm tra. Nhiệm vụ của học sinh trong WebQuest là tìm kiếm, đánh giá, hệ thống hóa, trình bày trong sự trao đổi với những học sinh khác. Học sinh thực hiện và từ đó phát triển những khả năng tư duy. Hơn nữa, trong WebQuest học sinh cần tìm, xử lý thông tin nhằm giải quyết một nhiệm vụ. học sinh cần có quan điểm riêng trên cơ sở lập luận để trả lời câu hỏi hoặc giải quyết vấn.
1.2 Cấu trúc của một WebQuest
Theo Bernie Dodge, cấu trúc của một WebQuest thường gồm các phần: giới thiệu (Introduction), nhiệm vụ (Task), tiến trình (Process), đánh giá (Evaluation), kết luận (Conclusion).
1.2.1 Giới thiệu (Introduction)
Phần này cung cấp thông tin cơ bản và các tình huống có vấn đề như đặt cho người học đóng một vai trò: “ Bạn là một nhà khoa học nghiên cứu dưới nước”, “ bạn là một phi hành gia lập kế hoạch một chuyến đi đến mặt trăng”. Phần này cũng cung cấp một cái nhìn tổng quan về mục tiêu học tập cho học sinh.
Mục tiêu của phần này là gây hứng thú, niềm vui cho học sinh. Khi một bài học có liên quan đến quyền lợi, ý tưởng của học sinh, kinh nghiệm trong quá khứ hay mục tiêu trong tương lai các em sẽ lý thú hơn.
Trong phần này, nên đưa ra một vấn đề chủ đạo, gợi ý, hướng dẫn. Về sau toàn bộ WebQuest xoay quanh vấn đề này.
1.2.2 Nhiệm vụ (Task)
Mô tả ngắn gọn, rõ ràng các kết quả mà học sinh phải đạt được:
- Vấn đề đưa ra phải được giải quyết.
- Sản phẩm phải được thiết kế hoàn tất.
- Các nhiệm vụ phức tạp phải nghiên cứu.
- Các ý kiến, nhận xét của cá nhân học sinh.
- Các bảng tổng kết.
- Các kết quả mang tính sáng tạo.
- Các nhiệm vụ yêu cầu học sinh phải biết xử lý và diễn đạt lại thông tin.
- Liệt kê tên các phần mềm sử dụng (nếu bắt buộc), không liệt kê các bước thực hiện (sẽ nêu ở trong phần tiến trình).
Có nhiều dạng nhiệm vụ trong WebQuest. Dodge phân biệt những loại nhiệm vụ sau:
Dạng nhiệm vụ
Giải thích
Tái hiện thông tin (bài tập tường thuật)
Học sinh tìm kiếm những thông tin, và xử lý để trả lời các câu hỏi riêng rẽ và chứng tỏ rằng họ hiểu những thông tin đó. Kết quả tìm kiếm thông tin sẽ được trình bày theo cách đa phương tiện (ví dụ bằng chương trình PowerPoint) hoặc thông qua các áp phích, các bài viết ngắn,... Nếu chỉ là “cắt dán thông tin” không xử lý các thông tin đã tìm được như tóm tắt, hệ thống hóa thì không phải WebQuest.
Tổng hợp thông tin
(bài tập
biên soạn)
Học sinh có nhiệm vụ lấy thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và liên kết, tổng hợp chúng trong một sản phẩm chung. Kết quả có thể được công bố trong internet, nhưng cũng có thể là một sản phẩm không phải thuộc dạng kỹ thuật số. Các thông tin được tập hợp phải được xử lý.
Giải điều bí ấn
Việc đưa vào một điều bí ẩn có thể là phương pháp thích hợp làm cho người học quan tâm đến đề tài. Trong khi đó vấn đề sẽ là thiết kế một bí ẩn mà người ta không thể tìm thấy lời giải của nó trên internet, để giải nó sẽ phải thu thập thông tin từ những nguồn khác nhau, lập ra các mối liên kết và rút ra các kết luận.
Bài tập báo chí
Học sinh được giao nhiệm vụ, với tư cách nhà báo tiến hành lập báo cáo về những hiện tượng hoặc những cuộc tranh luận hiện tại cùng với những bối cảnh nền và tác động của chúng. Để thực hiện nhiệm vụ này họ phải thu thập thông tin và xử lý chúng thành một bản tin, một bài phóng sự, một bài bình luận hoặc một dạng bài viết báo kiểu khác.
Lập kế hoạch và thiết kế (nhiệm vụ thiết kế)
Học sinh phải tạo ra một sản phẩm hoặc phác thảo kế hoạch cho một dự định. Những mục đích và hướng dẫn chỉ đạo sẽ được miêu tả trong đề bài.
Lập ra các sản phẩm sáng tạo (bài tập sáng tạo)
Nhiệm vụ của người học là chuyển đổi những thông tin đã xử lý thành một sản phẩm sáng tạo, ví dụ một bức tranh, một tiết mục kịch, một tác phẩm châm biếm, một tấm áp phích, một trò chơi, một nhật ký mô phỏng hoặc một bài hát.
Lập đề xuất thống nhất
(nhiệm vụ tạo lập sự đồng thuận)
Những đề tài nhất định sẽ được thảo luận theo cách tranh luận. Mọi người sẽ ủng hộ các quan điểm khác nhau trên cơ sở các hệ thống giá trị khác nhau, các hình dung khác nhau về những điều kiện và hiện tượng nhất định, dẫn đến sự phát triển một đề xuất chung cho một nhóm thính giả cụ thể (có thực hoặc mô phỏng).
Thuyết phục những người khác (bài tập thuyết phục)
Người học phải tìm kiếm những thông tin hỗ trợ cho quan điểm lựa chọn, phát triển những ví dụ có sức thuyết phục về quan điểm tương ứng. Ví dụ bài trình bày trước một ủy ban, bài thuyết trình trong phiên xử tại tòa án (mô phỏng), viết các bức thư, các bài bình luận hoặc các công bố báo chí, lập một áp phích hoặc một đoạn phim video, trong khi đó vấn đề sẽ luôn luôn là thuyết phục những người được đề cập.
Tự biết mình (bài tập tự biết mình)
Các bài tập kiểu này đòi hỏi người học xử lý những câu hỏi liên quan đến bản thân cá nhân mình mà đối với chúng không có những câu trả lời nhanh chóng. Các bài tập loại này có thể suy ra từ việc xem xét các mục tiêu cá nhân, những mong muốn về nghề nghiệp và các triển vọng của cuộc sống, các vấn đề tranh cãi về đạo lý và đạo đức, các quan điểm về các đổi mới kỹ thuật, về văn hoá và nghệ thuật
Phân tích các nội dung chuyên môn (bài tập phân tích)
Người học phải xử lý cụ thể hơn với một hoặc nhiều nội dung chuyên môn, để tìm ra những điểm tương đồng và các khác biệt cũng như các tác động của chúng.
Đề ra quyết định (bài tập quyết định)
Để có thể đưa ra quyết định, phải có thông tin về nội dung cụ thể và phát triển các tiêu chuẩn làm cơ sở cho sự quyết định.
Các tiêu chuẩn làm cơ sở cho sự quyết định có thể được cho trước, hoặc người học phải phát triển các tiêu chuẩn của chính mình
Điều tra và nghiên cứu (bài tập khoa học)
Học sinh tiến hành một nhiệm vụ nghiên cứu thông qua điều tra hay các PP nghiên cứu khác. Ở kiểu bài tập này cần tìm ra một nhiệm vụ với mức độ khó khăn phù hợp.
Khi giải bài tập cần lưu ý các bước sau :
Lập ra các giả thiết
Kiểm tra các giả thiết dựa trên các dữ liệu từ những nguồn lựa chọn.
1.2.3 Tiến trình (Process)
Nêu các bước cần thực hiện để hoàn thành nhiệm vụ ở trên.
Phần này viết dành cho học sinh đọc. Tuy nhiên nên viết rõ ràng, chi tiết phần này để giáo viên khác có thể đọc, theo dõi được tiến trình của bài học và vận dụng vào bài giảng của mình.
Ví dụ: 1. Trước tiên, các em chia thành từng nhóm 3 người
2. Sau đó, mỗi em chọn lấy một phần của mình
3. Kế tiếp, ...
Các liên kết đến trang web nên liệt kê ở đây theo trình tự thực hiện để học sinh truy cập (không nên tách thành một danh sách riêng).
Nếu chia nhóm thì các liên kết được liệt kê theo tiến trình của từng nhóm.
Ở phần này, chúng ta hướng dẫn cách tổ chức, sắp xếp lại các thông tin do các em tìm được: bảng tổng kết, đồ thị...
Hoặc nếu cần, đưa ra danh sách các câu hỏi hướng dẫn các em phân tích thông tin, hoặc viết thu hoạch cho bài học.
1.2.4 Đánh giá (Evaluation)
Việc đánh giá WebQuest để rút ra kinh nghiệm và sửa chữa cần có sự tham gia của học sinh, đặc biệt là những thông tin phản hồi của học sinh về việc trình bày cũng như quá trình thực hiện WebQuest. Có thể hỏi học sinh những câu hỏi sau:
Các em đã học được những gì?
Các em thích và không thích những gì?
Có những vấn đề kỹ thuật nào trong WebQuest ?
1.2.5 Kết luận (Conclusion)
Viết tóm tắt vài câu về những gì học sinh sẽ đạt được sau khi hoàn thành bài học này.
Nếu cần, đưa ra các câu hỏi, bài tập mở rộng.
Nên có lời cám ơn đến tác giả các trang web hoặc những nguồn tài liệu liên quan khác như sách, băng, tranh ảnh... mà chúng ta sử dụng trong bài giảng của mình.
Có thể tóm tắt cấu trúc của một WebQuest theo bảng sau:
Các bước
Mô tả
Nhập đề
GV giới thiệu về chủ đề. Thông thường, một WebQuest bắt đầu với việc đặt ra tình huống có vấn đề thực sự đối với
người học, tạo động cơ cho người học sao cho họ tự muốn quan tâm đến đề tài và muốn tìm ra một giải pháp cho vấn đề.
Xác định
nhiệm vụ
Học sinh được giao các nhiệm vụ cụ thể. Cần có sự thảo luận với Học sinh để Học sinh hiểu nhiệm vụ, xác định được mục tiêu riêng, cũng như có những bổ sung, điều chỉnh cần thiết. Tính phức tạp của nhiệm vụ phụ thuộc vào đề tài và trước tiên là vào nhóm đối tượng. Thông thường, các nhiệm vụ sẽ được xử lý trong các nhóm.
Hướng dẫn nguồn thông tin
GV hướng dẫn nguồn thông tin để xử lý nhiệm vụ, chủ yếu là những trang trong mạng internet đã được GV lựa chọn và liên kết, ngoài ra còn có những chỉ dẫn về các tài liệu khác.
Thực hiện
Học sinh thực hiện nhiệm vụ trong nhóm. GV đóng vai trò tư vấn.
Trong trang WebQuest có những chỉ dẫn, cung cấp cho người học những trợ giúp hành động, những hỗ trợ cụ thể để giải quyết nhiệm vụ.
Trình bày
Học sinh trình bày các kết quả của nhóm trước lớp, sử dụng PowerPoint hoặc tài liệu văn bản, có thể đưa lên mạng.
Đánh giá
Đánh giá kết quả, tài liệu, phương pháp và hành vi học tập trong WebQuest. Có thể sử dụng các biên bản đã ghi trong quá trình thực hiện để hỗ trợ, sử dụng đàm thoại, phiếu điều tra.
Học sinh cần được tạo cơ hội suy nghĩ và đánh giá một cách có phê phán. Việc đánh giá tiếp theo do GV thực hiện.
1.3 Quy trình thiết kế WebQuest
WebQuest được thiết kế theo các bước chọn và giới thiệu chủ đề, tìm nguồn tài liệu học tập, xác định mục đích, xác định nhiệm vụ, thiết kế tiến trình, trình bày trang Web, thực hiện WebQuest, đánh giá, sửa chữa.
Chọn và giới thiệu chủ đề
Tìm nguồn tài liệu học tập
Xác định mục đích
Xác định nhiệm vụ
Thiết kế tiến trình
Trình bày trang Web
Thực hiện WebQuest
Đánh giá, sửa chữa.
1.3.1 Chọn và giới thiệu chủ đề
Chủ đề cần phải có mối liên kết rõ ràng với những nội dung được xác định trong chương trình dạy học. Chủ đề có thể là một vấn đề quan trọng trong xã hội, đòi hỏi học sinh phải tỏ rõ quan điểm. Quan điểm đó không thể được thể hiện bằng những câu trả lời như “đúng” hoặc “sai” một cách đơn giản mà cần phải lập luận quan điểm trên cơ sở hiểu biết về chủ đề. Những câu hỏi sau đây cần trả lời khi quyết định chủ đề:
- Chủ đề có phù hợp với chương trình đào tạo không?
- Học sinh có hứng thú với chủ đề không?
- Chủ đề có gắn với tình huống, vấn đề thực tiễn không?
- Chủ đề có đủ lớn để tìm được tài liệu trên Internet không?
- Sau khi quyết định chọn chủ đề, cần mô tả chủ đề để giới thiệu với học sinh.
- Đề tài cần được giới thiệu ngắn gọn, dễ hiểu để học sinh có thể làm quen với một đề tài khó.
1.3.2 Tìm nguồn tài liệu học tập
Giáo viên tìm các trang web có liên quan đến chủ đề, lựa chọn những trang thích hợp để đưa vào liên kết trong WebQuest. Đối với từng nhóm bài tập riêng rẽ cần phải tìm hiểu, đánh giá và hệ thống hóa các nguồn đã lựa chọn thành dạng các địa chỉ Internet (URL). Giai đoạn này thường đòi hỏi nhiều công sức. Bằng cách đó, người học sẽ được cung cấp các nguồn trực tuyến để áp dụng vào việc xử lý và giải quyết vấn đề. Những nguồn thông tin này được kết hợp trong tài liệu WebQuest hoặc có sẵn ở dạng các siêu liên kết tới các trang web bên ngoài.
Ngoài các trang web, các nguồn thông tin tiếp theo có thể là các thông tin chuyên môn được cung cấp qua Email, CD hoặc các ngân hàng dữ liệu kỹ thuật số (ví dụ từ điển trực tuyến trong dạy học ngoại ngữ). Điều quan trọng là phải nêu rõ nguồn tin đối với từng nội dung công việc và trước đó các nguồn tin này phải được giáo viên kiểm tra về chất lượng để đảm bảo tài liệu đó là đáng tin cậy.
1.3.3 Xác định mục đích
- Cần xác định một cách rõ ràng những mục tiêu, yêu cầu đạt được trong việc thực hiện WebQuest.
- Các yêu cầu cần phù hợp với học sinh và có thể đạt được.
1.3.4 Xác định nhiệm vụ
Để đạt được mục đích của hoạt động học tập, học sinh cần phải giải quyết một nhiệm vụ hoặc một vấn đề có ý nghĩa và vừa sức. Vấn đề hoặc nhiệm vụ phải cụ thể hóa đề tài đã được giới thiệu. Nhiệm vụ học tập cho các nhóm là thành phần trung tâm của WebQuest. Nhiệm vụ định hướng cho hoạt động của học sinh, cần tránh những nhiệm vụ theo kiểu ôn tập, tái hiện thuần túy.
Như vậy, xuất phát từ một vấn đề chung cần phải phát biểu những nhiệm vụ riêng một cách ngắn gọn và rõ ràng. Nhiệm vụ cần phong phú về yêu cầu, về phương tiện có thể áp dụng, các dạng làm bài. Thông thường, chủ đề được chia thành các tiểu chủ đề nhỏ hơn để từ đó xác định nhiệm vụ cho các nhóm khác nhau. Các nhóm cũng có thể có nhiệm vụ giải quyết vấn đề từ những góc độ tiếp cận khác nhau.
1.3.5 Thiết kế tiến trình
Sau khi đã xác định nhiệm vụ của các nhóm học sinh, cần thiết kế tiến trình thực hiện WebQuest. Trong đó đưa ra những chỉ dẫn, hỗ trợ cho quá trình làm việc của học sinh. Tiến trình thực hiện WebQuest gồm các giai đoạn chính là: nhập đề, xác định nhiệm vụ, hướng dẫn nguồn thông tin, thực hiện, trình bày, đánh giá.
1.3.6 Trình bày trang Web
Các nội dung đã được chuẩn bị trên đây, bây giờ cần sử dụng để trình bày WebQuest. Để lập ra trang WebQuest, không đòi hỏi những kiến thức về lập trình và cũng không cần các công cụ phức tạp để thiết lập các trang HTML. Về cơ bản chỉ cần lập luận WebQuest, ví dụ trong chương trình Word và nhớ trong thư mục HTML, không phải như thư mục DOC. Có thể sử dụng các chương trình điều hành Web, ví dụ như FrontPage, tham khảo các mẫu WebQuest trên Internet hiện có. Trang WebQuest được đưa lên mạng nội bộ để sử dụng.
1.3.7 Thực hiện WebQuest
Sau khi đã đưa WebQuest lên mạng nội bộ, tiến hành thử với học sinh để đánh giá và sửa chữa.
1.3.8 Đánh giá, sửa chữa
Việc đánh giá WebQuest để rút ra kinh nghiệm và sửa chữa cần có sự tham gia của học sinh, đặc biệt là những thông tin phản hồi của học sinh về việc trình bày cũng như quá trình thực hiện WebQuest. Có thể hỏi học sinh những câu hỏi sau:
- Các em đã học được những gì?
- Các em thích và không thích những gì?
- Có những vấn đề kỹ thuật nào trong WebQuest?
...
1.4 Thực trạng việc dạy học chương “sóng ánh sáng” ở trường phổ thông
Trong những năm qua, ngành giáo dục được Đảng và các cấp chính quyền đặc biệt quan tâm thể hiện qua Nghi quyết đại hội Đảng toàn quốc lần IX, X; Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 của chính phủ; Luật giáo dục sửa đổi (2005) và ngân sách dành cho giáo dục. Tuy nhiên, chất lượng giáo dục nhìn chung còn thấp chưa đáp ứng yêu cầu của xã hội, yêu cầu hội nhập đòi hỏi chất lượng giáo dục phải tương ứng để đào tạo ra con người lao động “hòa nhập” được với thế giới và khu vực. Quan niệm học để biết, học để làm, học để khẳng định mình và học để chung sống với cộng đồng đang gặp phải vật cản lớn bởi cơ sở vật chất không đảm bảo nhất là thiết bị dạy học vừa thiếu, vừa kém chất lượng.
Chương “sóng ánh sáng” trong chương trình Vật lý 12 có nội dung hấp dẫn, lý thú, lại gần gũi, cần thiết cho cuộc sóng hiện đại. Dạy học chương này đòi hỏi thiết bị dạy học để làm thí nghiệm, tranh, video,... để hổ trợ cho kênh chữ. Kiến thức trong chương vận dụng vào thực tiễn rộng rãi. Tuy nhiên, cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy học không đáp ứng được, dụng cụ thí nghiệm vừa thiếu, chất lượng không tốt nên mau hỏng, kết quả làm thí nghiệm không chính xác. Nhiều kiến thức của chương được sách giáo khoa trình bày theo kiểu thông báo làm cho học sinh tiếp thu bị động. Con người lao động trong tương lai được đào tạo theo cách này thì không thể đáp ứng yêu cầu xã hội.
1.5 Kết luận chương
Kết thúc chương I, có thể khái quát những vấn đề đã được nghiên cứu như sau:
- WebQuest đã đáp ứng được những yêu cầu cơ bản của quá trình dạy học, tạo môi trường dạy học chủ động, tích cực, phù hợp với việc triển khai lý thuyết về các phương pháp dạy học hiện đại.
- Việc thiết kế WebQuest không đòi hỏi cao ở người thiết kế và kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực tin học.
- Tuy nhiên, việc thiết kế được WebQuest đáp ứng được các yêu cầu: đa dạng, cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết cho cả học sinh và giáo viên thì việc kết hợp được các yếu tố khoa học, sư phạm... là vấn đề quan trọng. Do đó, việc thiết kế WebQuest cần đảm bảo được tính cấu trúc, nguyên tắc và yêu cầu cơ bản xác định.
- Hiện nay, việc dạy học thông qua WebQuest chưa thực sự phát triển. Do đó, cùng với việc hình thành ý tưởng thiết kế WebQuest, ta phải đề cập đến một số điểm cần lưu ý và những hạn chế cần khắc phục khi sử dụng WebQuest.
Chương II. THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG WEBQUEST VÀO DẠY HỌC CHƯƠNG “SÓNG ÁNH SÁNG” VẬT LÝ 12 THPT (BAN CƠ BẢN)
2.1 Đặc điểm của chương “sóng ánh sáng”
Theo quan điểm hiện đại ánh sáng có lưỡng tính sóng-hạt. Tính chất này thể hiện khi có sự tương tác ánh sáng với chất. Tuy nhiên chương này, chúng ta chỉ nghiên cứu các hiện tượng đặc trưng của sóng ánh sáng và phổ của nó.
Hiện tượng tán sắc ánh sáng được hiểu theo nghĩa rộng là hiện tượng phân giải một chùm ánh sáng nhiều thành phần thành một phổ gồm nhiều thành phần đơn sắc khác nhau. Hiện tượng tán sắc có thể do khúc xạ, do giao thoa, do nhiễu xạ. Theo nghĩa hẹp, hiện tượng tán sắc ánh sáng là hiện tượng phụ thuộc của chiết suất tuyệt đối n của môi trường trong suốt vào tần số. Vì vậy, sách giáo khoa không đưa ra định nghĩa về hiện tượng tán sắc ánh sáng mà chỉ đưa ra một khái niệm sơ lược về hiện tượng này thông qua sự phân tích chùm ánh sáng trắng thành các chùm sáng đơn sắc nhờ lăng kính.
Hiện tượng nhiễu xạ cũng thể hiện bản chất sóng của ánh sáng, nó cũng nêu ra giới hạn của định luật truyền thẳng ánh sáng.
Giao thoa ánh sáng là hiện tượng chứng tỏ trực tiếp bản chất sóng của ánh sáng. Sách giáo khoa vật lý lớp 12 chỉ nghiên cứu hiện tượng giao thoa ánh sáng bằng thí nghiệm Iâng. Nó nêu ra giới hạn của định luật về tính độc lập của các chùm tia sáng. Khi nghiên cứu một bức xạ nào mà phát hiện được hiện tượng giao thoa của bức xạ đó, ta có thể kết luận ngay bức xạ có tính chất só
File đính kèm:
- Phuong phap day hoc vat li.docx