Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam có tầm quan trọng đặc biệt nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo những người lao động có trình độ cao phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế và xã hội chung và đáp ứng nhu cầu phát triển cho chính hệ thống giáo dục.
Việc đổi mới có đạt được kết quả như mong muốn hay không phụ thuộc rất lớn vào năng lực dạy học của đội ngũ giảng viên trong các trường đại học. Điều đáng tiếc là không ít người trong số các giảng viên dạy đại học không được trang bị những kiến thức và kỹ năng dạy học ở bậc đại học. Điều đó đã hạn chế chất lượng cũng như hiệu quả của việc dạy học. Tình hình trên cũng diễn ra ở nhiều quốc gia phát triển và đang phát triển.
Để giúp các giảng viên tự nghiên cứu nâng cao năng lực dạy học ở bậc đại học, nhóm các tác giả dịch thuật sưu tầm và biên dịch tài liệu có nhan đề “ Hướng dẫn Dạy và Học trong Giáo dục đại học” từ nguyên bản tiếng Anh có tiêu đề “ Guide to Teaching and Learning in Higher Education” tại Website có địa chỉ do các tác giả: Pai Obanya, Juma Shabani, Peter Okebukola với sự giúp đỡ của Văn phòng UNESCO vùng của Châu Phi.
Nội dung tài liệu này bao trùm hầu hết các lĩnh vực liên quan đến hoạt động của giảng viên đại học và những kinh nghiệm giảng dạy của các chuyên gia giáo dục đại học của thế giới.
273 trang |
Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 1158 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Hướng dẫn dạy và học trong giáo dục đại học, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HƯỚNG DẪN
DẠY VÀ HỌC TRONG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
(Tài liệu tham khảo cho giảng viên và sinh viên)
HÀ NỘI 2007
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam có tầm quan trọng đặc biệt nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo những người lao động có trình độ cao phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế và xã hội chung và đáp ứng nhu cầu phát triển cho chính hệ thống giáo dục..
Việc đổi mới có đạt được kết quả như mong muốn hay không phụ thuộc rất lớn vào năng lực dạy học của đội ngũ giảng viên trong các trường đại học. Điều đáng tiếc là không ít người trong số các giảng viên dạy đại học không được trang bị những kiến thức và kỹ năng dạy học ở bậc đại học. Điều đó đã hạn chế chất lượng cũng như hiệu quả của việc dạy học. Tình hình trên cũng diễn ra ở nhiều quốc gia phát triển và đang phát triển.
Để giúp các giảng viên tự nghiên cứu nâng cao năng lực dạy học ở bậc đại học, nhóm các tác giả dịch thuật sưu tầm và biên dịch tài liệu có nhan đề “ Hướng dẫn Dạy và Học trong Giáo dục đại học” từ nguyên bản tiếng Anh có tiêu đề “ Guide to Teaching and Learning in Higher Education” tại Website có địa chỉ do các tác giả: Pai Obanya, Juma Shabani, Peter Okebukola với sự giúp đỡ của Văn phòng UNESCO vùng của Châu Phi.
Nội dung tài liệu này bao trùm hầu hết các lĩnh vực liên quan đến hoạt động của giảng viên đại học và những kinh nghiệm giảng dạy của các chuyên gia giáo dục đại học của thế giới.
Chịu trách nhiệm dịch thuật gồm các giảng viên đại học có kinh nghiệm của trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội.
TS. Hoàng Ngọc Vinh - Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm biên tập và hiệu đính chung.
Trong quá trình dịch thuật và biên tập, nhóm tác giả nhận được sự hỗ trợ tích cực và góp ý của TS. Lê Viết Khuyến, Vụ Đại học và Sau đại học.
Tuy nhiên, do trình độ có hạn, trong quá trình dịch thuật và biên tập chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Thay mặt nhóm tác giả, mong nhận được góp ý từ các đồng nghiệp.
Mọi góp ý xin gửi về theo địa chỉ: Hoàng Ngọc Vinh, Bộ GD&ĐT, 49 Đại Cồ Việt, Hà Nội hoặc theo e-mail: hnvinh@moet.gov.vn .
TM. Nhóm tác giả
Hoàng Ngọc Vinh
MODULE 1. HIỂU VỀ SINH VIÊN ĐẠI HỌC
Diễn đàn của hiệp hội sinh viên châu Phi đã đưa ra quan điểm của sinh viên về vai trò giáo dục đại học trong việc xây dựng xã hội mới.
Cải thiện tính thích ứng của giáo dục
Diễn đàn yêu cầu các quốc gia thành viên thiết lập những chương trình giáo dục không những đáp ứng có hiệu quả với thay đổi không ngừng trong thị trường lao động mà còn có thể dự báo được những thay đổi hơn là phải cam chịu những thay đổi đó.
Đề cập đến sự bão hoà của các cơ hội việc làm trong dịch vụ công và tình trạng thất nghiệp đang gia tăng đối với những người đã tốt nghiệp, diễn đàn đề nghị thành lập các hệ thống giáo dục đại học thích hợp để đào tạo những người đã tốt nghiệp đại học và giúp họ không ngừng cập nhật và nâng cao trình độ cũng như tạo ra việc làm.
Diễn đàn cũng đề nghị các quốc gia thành viên có những giải pháp cần thiết để khuyến khích những sinh viên đã tốt nghiệp tạo việc làm và đảm bảo tài trợ cho các dự án của họ.
Diễn đàn cho rằng, trong khi thực hiện sứ mệnh cung cấp dịch vụ cho cộng đồng, các trường đại học cần thể hiện rõ hơn nữa tầm quan trọng trong việc giáo dục cộng đồng sao cho nâng cao được các quyền con người, lòng khoan dung, và một nền văn hoá hoà bình, dân chủ.
Diễn đàn đề nghị thiết lập sự hợp tác giữa các giảng viên, nhà trường và các doanh nghiệp để tạo khả năng cho trường đại học nắm bắt được nhu cầu của các doanh nghiệp đồng thời tạo cho sinh viên có những cơ hội nghiên cứu, và thực tập tay nghề tại các doanh nghiệp.
Diễn đàn đề nghị các trường đại học tổ chức những cuộc điều tra định kỳ việc làm của sinh viên sau tốt nghiệp - điều tra theo dấu vết (tracer studies) và tiến hành những cuộc khảo sát các chủ doanh nghiệp để đảm bảo cho chương trình đào tạo luôn được cập nhật thích nghi với việc mở mang kiến thức và nhu cầu biến động trong thị trường việc làm.
Diễn đàn nhấn mạnh rằng trường đại học cần phải hỗ trợ tài chính cho sinh viên để nghiên cứu cũng như tiếp cận với các công nghệ thông tin và truyền thông mới (ICT).
Diễn đàn cho rằng cần phải thành lập những cơ chế thích hợp để giám sát và đánh giá việc thực hiện sứ mệnh được đặt ra cho các trường đại học.
Nâng cao chất lượng giáo dục
Diễn đàn đề nghị mỗi một quốc gia thành lập và/hoặc tăng cường các thể chế để giám sát và đánh giá chất lượng của các dịch vụ mà các trường đại học phải cung cấp như là một trong các chức năng của nhà trường.
Diễn đàn đề nghị các trường đại học thành lập những cơ chế để sinh viên đánh giá đội ngũ giảng viên của trường.
Diễn đàn đề nghị nhà nước có những biện pháp cần thiết đảm bảo cho toàn bộ cộng đồng đại học, kể cả sinh viên , cảm thấy hứng thú hơn với những điều kiện sống và làm việc thuận lợi.
Điều 10. Cán bộ, giảng viên và sinh viên ở trường đại học là các thành viên chính.
Những người làm chính sách của trường đại học và của quốc gia nên coi sinh viên và nhu cầu của họ là cốt lõi của mọi việc có liên quan, và nên coi họ như là đối tác chính và là người “ cổ đông”đầy trách nhiệm trong việc đổi mới giáo dục đại học. Các sinh viên cần được tham gia trong các hoạt động mà ảnh hưởng đến trình độ giáo dục tương ứng, trong việc đánh giá, đổi mới chương trình đào tạo và phương pháp giảng dạy, trong khung qui chế hiện hành, trong việc thành lập chính sách và quản lý trường đại học. Vì sinh viên có quyền tổ chức và đại diện cho chính mình nên họ cần có tiếng nói trong quá trình hình thành các quyết định.”
Lời giới thiệu
Hiểu được các đặc tính và nhu cầu của sinh viên là nhân tố cơ bản đảm bảo sự thành công trong giáo dục đại học. Tương tự như trong nông nghiệp, hiểu biết về bản chất đất trồng và điều kiện khí hậu của vùng canh tác là một điều kiện quan trọng giúp người nông dân có vụ mùa bội thu. Vì sản lượng vụ mùa phụ thuộc vào các dữ liệu đó. Tương tự như vậy, hiệu quả của việc dạy học phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm của người học. Chúng ta cần phải phân tích các nhân tố và sử dụng chúng để lập kế hoạch giảng dạy. Các nhân tố như tuổi, , giới tính, các đặc điểm tâm lý (ví dụ động cơ thúc đẩy và khả năng tự nhận thức), đặc điểm xã hội học (ví dụ tình bạn và các mối quan hệ xã hội), nền tảng văn hoá, tôn giáo, chất lượng giáo dục ở trường trung học phổ thông, tình trạng hôn nhân và đặc điểm gia đình.
Đây có thể là một yêu cầu khá cao khi yêu cầu giảng viên nắm được các đặc tính này của mọi sinh viên trong một lớp học và đó là một nhiệm vụ nặng nề đối với một lớp 200 sinh viên trong khoá học 12 tuần hoặc một học kỳ 15 tuần. Tuy nhiên, điều đó có thể thực hiện được thậm chí đối với một lớp có số lượng sinh viên đông hơn và trong một giai đoạn học tập ngắn hơn, nếu ta cố gắng tìm hiểu một cách khái quát về các đặc tính trên. Nhờ có những hồ sơ này và thêm những hiểu biết về các trường hợp ngoại lệ, giảng viên đại học có thể lập kế hoạch và thực hiện khóa dạy cho sinh viên tốt hơn.
Mục tiêu chung
Trong module này, bạn sẽ
Điểm lại tình trạng chuyển tiếp của sinh viên từ trường trung học phổ thông lên đại học;
Phân biệt được các đặc tính tâm lý của sinh viên đại học;
Mô tả được các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý của sinh viên đại học;
Phát triển các phương tiện để đo một số đặc tính của học viên; và
Xác lập được hồ sơ của vinh viên.
Bài 1: Sinh viên đại học
1. Giới thiệu
Sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông và thoả mãn những yêu cầu thi tuyển đầu vào và điều kiện tài chính cần thiết, học sinh tốt nghiệp THPT có thể tiếp tục theo học lên ở các trình độ cao hơn trong hệ thống giáo dục đại học. Điểm đến có thể là trường đại học, trường kỹ thuật hoặc polytechnic, trường sư phạm hoặc các trường khác trong hệ thống. Việc chuyển từ trường THPT vào đại học bắt đầu bằng thời kỳ chuyển tiếp. Thời kỳ này được đặc trưng bởi nhiều sự tự do hơn - chẳng cần mặc đồng phục, xếp hàng vào lớp lúc 8 giờ sáng, bỏ học, bị các sinh viên khóa trước nạt nộ và bị cấm tham gia các tổ chức đảng phái. Sinh viên đại học tương lai mang theo mình những kinh nghiệm về học tập và xã hội khác nhau. Chúng ta chờ đợi sự can thiệp của chúng ta sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho những thay đổi tốt trong hành vi và phát huy những mặt tốt của sinh viên. Sự hiểu biết về quá khứ của sinh viên tại thời điểm vào trường sẽ giúp chúng ta lựa chọn những kinh nghiệm giáo dục đúng đắn cũng như cung cấp các hướng dẫn và tư vấn thích hợp.
Sau khi học xong bài này bạn có khả năng:
Hiểu được học vấn và quá khứ xã hội của sinh viên;
Xác định các nhân tố tác động đến khả năng học của sinh viên ; và
Đánh giá các thủ tục tuyển chọn/tiếp nhận vào trường và khoa của bạn.
2. Khái niệm về chuyển tiếp
Hệ thống giáo dục chính thức của tất cả các nước trên thế giới được phân thành các cấp – tiểu học, trung học và đại học. Trong mỗi cấp có sự chuyển tiếp từ trình độ này sang trình độ khác ví dụ từ lớp 1 lên lớp 2 hoặc từ lớp 8 lên lớp 9. Đó là sự chuyển tiếp bên trọng của mỗi cấp học. Đồng thời cũng có sự chuyển tiếp giữa các cấp, là từ tiểu học lên trung học hoặc từ trung học lên đại học. Khi các sinh viên chuyển từ trình độ này lên trình độ khác hoặc từ cấp này lên cấp khác, sẽ có những thay đổi mà người giáo viên rất cần phải chú ý.
Ở giai đoạn chuyển tiếp, có những thay đổi về thể chất, tình cảm, trí tuệ (nhận thức) và khát vọng. Với cương vị là giảng viên, chúng ta cần phải giúp sinh viên vượt qua quá trình thay đổi này một cách êm dịu, dần dần và không gây sốc về tâm lý. Chúng ta cần làm giảm bớt sự ngăn cách giữa kỳ cuối ở trường THPT và kỳ đầu của đại học. Không gây đột ngột, không để lại những bi kịch và đau khổ. Để thực hiện điều đó chúng ta cần hiểu sâu sắc các đặc tính của sinh viên ở hai thái cực kỳ cuối THPT và năm đầu là sinh viên.
Ai là các sinh viên đại học tương lai? Chủ yếu là các nam nữ thanh niên ở độ tuổi trưởng thành trong khoảng 16 – 26 tuổi đã qua 12 – 14 năm giáo dục chính qui. Họ đã nhận chứng chỉ tốt nghiệp phổ thông với số điểm tối thiểu để kiếm được một chỗ trong trường đại học. Cũng như học sinh tiểu học và trung học, cuộc sống xã hội và học tập của họ sẽ được tổ chức và đôi khi đưa vào quản lý theo chế độ bởi các hiệu trưởng, các giáo viên và các lớp trưởng. Họ phải tuân thủ vô điều kiện các qui chế đã ban hành, thừa nhận và tôn trọng thể chế của trường. Những người đã từng có cơ hội học ở trường phổ thông nội trú sẽ trải qua một cách dễ dàng, thậm chí là rất tốt trong việc quản lý thời gian của họ. Những người tốt nghiệp từ các trường phổ thông (nam thục hoặc nữ thục) thường nảy sinh thêm vấn đề phụ là phải điều chỉnh mối quan hệ với giới kia.
Một ngày tiêu biểu trong trường phổ thông của học sinh có thể được chia ra làm một số tiết học với nhiều môn học khác nhau được giảng dạy trong những lớp học thiếu tiện nghi và có thể với những thày giáo cự kỳ thiếu nhiệt tình. Trừ một số ngoại lệ, đa số học sinh được truyền thụ kiến thức theo phương pháp dạy và học truyền thống. Những điều này sẽ được đề cập chi tiết trong Module 3.
Đối với việc thi kiểm tra và đánh giá, hệ thống giáo dục của hầu hết các nước ngày nay thiên về đánh giá liên tục. Trường học được cảm nhận là nơi thực hiện các trắc nghiệm. Điều đó hướng thái độ đối phó của sinh viên đối với việc dạy và học. Một phần quan trọng trong thời gian học phổ thông của học sinh là các giáo viên bãi công khá thường xuyên do họ cảm thấy phải làm việc quá tải với đồng lương bèo bọt. Học sinh có thể bị mất một số giờ học và đã được học ít hơn do những hành động biểu tình như thế. Những bậc cha mẹ có điều kiện sẽ tổ chức những buổi học riêng cho con mình để bù vào những chỗ thiếu hụt do các cuộc biểu tình gây ra. Chịu ảnh hưởng tàn phá nghiêm trọng hơn là những gì đã xảy ra đối với một số sinh viên ở vùng bị chiến tranh tàn phá, ví dụ như Liberia và Sierra Leone ở đó các cơ hội học tập mất đi trong một thời gian dài.
Phần đọc thêm
Giáo dục đại học ở các nước châu Phi nói tiếng Pháp
Ousseynou DIA
Sự đáp lại của giáo dục đại học với một thế giới thay đổi thế giới nên được định hướng bởi ba từ thuộc về đồng hồ mà xác định vị trí, chức năng, sự tương thích, chất lượng địa phương, quốc gia và quốc tế và quốc tế hoá. Bản tóm tắt “Chính sách của UNESCO về sự thay đổi và phát triển trong giáo dục đại học”, phần V khẳng định rằng trong phạm vi của định hướng mới này, tất cả chính sách giáo dục đại học nên bắt nhịp với những động lực xã hội vốn rất phức tạp của các tổ chức đào tạo và (hoặc) nghiên cứu (các trường đại học, các trường Sư phạm, các viện …) mà có những cái chung với giáo dục THPT hoặc giáo dục “trước đại học” và với thế giới việc làm cũng như những quan tâm phát triển của quốc gia. Đứng ở các thái cực của hệ thống giáo dục, hai thực thể trên tạo nên sức ép và đặt ra những điều kiện không thể bỏ qua. Vì thế mà một chính sách sẽ xuất phát từ sự thoả hiệp linh hoạt giữa các yêu cầu bên ngoài và các nhiệm vụ mà nhà nước giao phó cho trường.
Về vấn đề này, sự tương thích của giáo dục đại học cần được nhận thức từ vai trò và vị trí của nó trong xã hội, các sứ mệnh của nó về đào tạo và nghiên cứu cũng như các dịch vụ. Cũng nên nhìn nhận từ những mối liên hệ của giáo dục đại học với thế giới việc làm (theo nghĩa rộng), mối quan hệ của nó với nhà nước và các nguồn vốn cũng như các tác động tương hỗ của nó với các trình độ và các loại hình giáo dục khác.
Những người có “bằng tú tài- Baccalaureat” (Advanced Level School Certificate - chứng chỉ trình độ phổ thông nâng cao; chú ý tránh nhầm với thuật ngữ này Baccalaureat trong một số quốc gia khác ND.) tiếp tục đi gõ cửa các trường đại học do đó tạo nên các vấn đề về chất lượng và số lượng ở trình độ đó. Ba câu hỏi đã trở thành những vấn đề thời sự ở nhiều nước: Tiêu chuẩn thật sự của người có bằng tú tài là gì? Hồ sơ học tập này có phù hợp với những tiêu chuẩn đã được đặt ra cho chương trình THPT? Hiện nay, bằng tú tài được sử dụng như là chứng chỉ tốt nghiệp phổ thông và giấy thông hành để vào trường đại học. Liệu rằng hai chức năng này nên được tách rời? Sự chuyển tiếp lên đại học được thực hiện như thế nào? Có những hình thức nào để nhận học sinh vào đại học: nhận trực tiếp, tuyển chọn hoặc tiếp nhận có kiểm tra?
Thời gian trôi qua, ở giai đoạn tốt nghiệp đại học, số người đã tốt nghiệp lại đi gõ cửa thị trường lao động để tìm kiếm một việc làm chính đáng làm xuất hiện thêm những vấn đề khác liên quan đến chất lượng và số lượng: Thị trường lao động cần bao nhiêu người tốt nghiệp? Nội dung đào tạo của họ nên như thế nào và trong những lĩnh vực nào? Những người tốt nghiệp đại học liệu có trình độ chuyên môn đáp ứng được yêu cầu của việc làm?
Đứng giữa hai cực là quá trình giáo dục đại học được đặc trưng bởi các vấn đề nội tại của nó, trong đó một phần xác định tính tương thích, hiệu quả và chất lượng đào tạo sẽ được đề cập qua các mục tiêu chính sách giáo dục của các quốc gia giành được độc lập từ năm 1960 (tức là trở thành cơ quan được tin cậy, đào tạo những chuyên gia có đủ khả năng cho phát triển, tổ chức nghiên cứu phát triển có định hướng, cung ứng các dịch vụ cộng đồng và đa dạng hoá cấp độ và chương trình đào tạo).
Tuy nhiên, dưới sự tác động của các xu hướng quan trọng từ bên ngoài (sự toàn cầu hoá về kinh tế, tỷ lệ tăng dân số cao, sự đổi mới về công nghệ và sự ràng buộc nghiêm ngặt về tài chính), các trường đại học ngày nay đang bị khủng hoảng trong giai đoạn phát triển mang tính quyết định của chúng. Bên ngoài xu hướng tiêu cực (sự suy giảm hiệu quả đào tạo bên trong và bên ngoài) vấn đề cơ bản là biết được loại trường nào mà các quốc gia cần. Nói chung, cải cách giáo dục đại học với mục đích duy trì và tăng cường các tiêu chuẩn chất lượng là nhu cầu cấp bách trong hàng loạt các vấn đề cần giải quyết khác. Việc tối cần thiết là phát triển nhận thức mới về giáo dục và đào tạo để làm thích ứng và tăng cường tính tương thích, hiệu quả và chất lượng của hệ thống.
Trích dẫn từ các tài liệu:
Dia, O (1998). Chất lượng giáo dục đại học ở các nước châu Phi nói tiếng Pháp. Trong J. Shabani (Ed.). Giáo dục đại học ở châu Phi: Những thành tựu, thách thức và triển vọng. Dakar: UNESCO BREDA.
Tóm tắt những điểm chính trong bài phát biểu của Dia. Bình luận về quan điểm của ông là nên có sự phối kết hợp giữa hồ sơ của sinh viên đại học và thế giới việc làm.
Đọc thêm: Giáo dục đại học suốt đời cho mọi người ở Tiểu Sahara Châu Phi
Juma SHABANI
Trong hai thập kỷ vừa qua, xu hướng chung của giáo dục đại học ở là số sinh viên nhập học tăng lên nhanh chóng và các ràng buộc tài chính đã làm sút giảm tột bậc chi phí ngân sách trên mỗi sinh viên. Trong đa số các nước đang phát triển, giáo dục đại học là lĩnh vực giáo dục đã có sự phát triển nhanh chóng nhất trong giai đoạn hai thập kỷ qua. Trong giai đoạn đó, lượng sinh viên vào đại học ở tiểu Sahara Châu Phi tăng nhanh hơn nhiều ở các vùng khác trên thế giới.
Tuy nhiên, mặc dù số lượng nhập học tăng cao, một số chỉ tiêu đã chỉ ra rằng, trong tất cả các vùng trên thế giới, thì vùng tiểu Sahara Châu Phi có hệ thống giáo dục đại học kém phát triển nhất.
Các tỷ lệ vào đại học: năm 1993, tỷ lệ nhập học nhóm tuổi 18 đến 23 là 2,4% ở vùng tiểu Sahara Châu Phi trong khi ở châu Mỹ La Tinh là 18%, các nước ả Rập là 13,2%, Đông Nam á là 8,2% và ở các nước phát triển là 51%.
Số lượng sinh viên trên 100.000 dân: năm 1991, số này đã vượt 5.000 ở Bắc Mỹ và 2.500 ở hầu như tất cả các nước phát triển. Trong vùng tiểu Sahara Châu Phi, tỷ lệ này là dưới 100 sinh viên trên 100.000 dân, điều đó có nghĩa là vùng tiểu Sahara Châu Phi có những cơ hội cho thanh niên theo học đại học là thấp hơn 25 lần so với các nước phát triển.
Các con số này chỉ ra rằng vùng tiểu Sahara Châu Phi cần phải tăng thêm lượng sinh viên nhập học khi xem xét đến, đặc biệt là, nhu cầu vào học đại học không ngừng tăng, và mối tương quan giữa sự phát triển giáo dục đại học và sự phát triển kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, một chiến lược như vậy dường như không nên được thực hiện trong khuôn khổ hiện thời của nền giáo dục đại học nếu như các nước châu Phi không muốn làm giảm đi chất lượng đào tạo và tình trạng không có việc làm của những người tốt nghiệp. Hiện nay, khi xét đến tình trạng bão hoà việc làm trong các dịch vụ công, mức phát triển thấp của khu vực kinh tế tư nhân và sự chuyển biến nhanh chóng trong thị trường nghề nghiệp, dường như trong tương lai gần, nhu cầu về giáo dục đại học sẽ chủ yếu tập trung vào đào tạo quản lý, cập nhật kiến thức và nâng cao kỹ năng cho những người đã qua đào tạo. Trong hoàn cảnh đó, các trường đại học sẽ có cơ hội tốt nếu được tổ chức như là các trung tâm giáo dục suốt đời cho tất cả mọi người với mục đích cập nhật, cải thiện kiến thức và trình độ học vấn. Chú ý rằng sự tăng số lượng nhập học không xảy ra ở cùng một nhịp độ trong các khu vực khác nhau của tiểu Sahara Châu Phi. Sự phát triển nhanh hơn cả là ở các nước nói tiếng Pháp. Thật thế, giữa năm 1960 và 1983, số lượng nhập học tăng gấp 40 lần ở các nước nói tiếng Pháp và chỉ tăng gấp 16 lần trong các nước nói tiếng Anh.
Sự tăng lên nhanh chóng lượng sinh viên nhập học trong các nước châu Phi nói tiếng Pháp là do hậu quả tổng hợp của ít nhất bốn yếu tố sau:
Sự tăng lên nhanh chóng số lượng học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học;
Thiếu sự tuyển chọn lúc sinh viên vào trường đại học;
Hiệu quả (efficiency) bên trong thấp;
Chính sách trợ giúp sinh viên hào phóng đã khuyến khích sinh viên kéo dài thời gian ở lại trường đại học vì không chắc chắn tìm được việc làm khi tốt nghiệp.
Tất nhiên, mỗi một sự mở rộng về qui mô nên đi đôi với sự tăng tương ứng về cơ sở hạ tầng, phương tiện, đội ngũ cán bộ giảng dạy, tư liệu giảng dạy và nghiên cứu khoa học sao cho đáp ứng được yêu cầu về chất lượng đào tạo và nghiên cứu. Thật đáng tiếc, điều đó đã không được thoả mãn. Ví dụ, trong năm học 1991-1992 trường đại học Yaounde ở Cameroon, thành lập vào năm 1960 với 500 sinh viên , đã có 45.000 sinh viên với các phương tiện dự định cho 5000. Trong các nước châu Phi nói tiếng Pháp, thường xuyên thấy các giảng đường thiết kế cho 800 sinh viên đã được nhồi nhét đến 3000. Đáng chú ý rằng những giảng đường như thế hầu như không tạo ra một môi trường giảng dạy như vốn có mà giống như cái chợ hoặc một bãi thể thao hơn là nơi dành cho lớp học. Trong điều kiện như thế, sự tiếp thu kiến thức phụ thuộc phần lớn vào khả năng của sinh viên đến sớm được 3 hoặc 4 giờ để chiếm được chỗ tốt nhất sao cho nghe cho rõ.
Do sự bất cập của cơ sở hạ tầng giáo dục và sự thiếu thốn về các nguồn lực, mà chất lượng giáo dục đã đi xuống. Thực tế, một số trường đại học đã buộc phải bãi bỏ các việc thực hành và thực tập. Mới đây, trường đại học Benin ở Lome, Togo đã quyết định bãi bỏ yêu cầu về luận văn cao học (master’s thesis) khi tốt nghiệp khoa Kinh tế và Quản lý.
Trích từ:
Shabani, J. (1983). Giáo dục đại học suốt đời cho mọi người ở vùng châu Phi cận Sahara. Trong J. Shabani (Ed.). Giáo dục đại học ở châu Phi: Thành tựu, thách thức và triển vọng. Dakar: UNESCO BREDA.
Bài tập. Kiểm tra những ưu điểm và nhược điểm của quan điểm Shabani trong việc mở rộng qui mô đại học và so sánh với quan điểm của Dia trong bài đọc 1.1. về việc gắn qui mô với thị trường việc làm.
Những yếu tố ảnh hưởng đến việc học tập
Trong giai đoạn chuyển tiếp, sinh viên năm thứ nhất mang theo một số đặc tính và thuộc tính có thể tác động đến việc học tập. Một số đặc tính và thuộc tính đó được bàn luận trong phần này.
Nền tảng gia đình
Nhiều sinh viên đến từ vùng nông thôn. Một số lớn lên trong những gia đình đa thê mà đặc trưng là nhiều con và nghèo nàn. Họ nói được một vài ngoại ngữ ngoài tiếng bản xứ, như tiếng Anh, tiếng Pháp hoặc tiếng Bồ Đào Nha, đây là các phương tiện chủ yếu cho việc dạy và học trong trường đại học ở châu Phi. Giáo dục bằng tiếng nước ngoài là đặt sinh viên vào chỗ bất lợi. Yêu cầu đặt ra đối với họ là phải làm chủ được ngôn ngữ trước khi vật lộn với nội dung học tập. Ở các nước châu Phi nói tiếng Anh, yếu kém tiếng Anh đã gây cản trở cho việc dạy và học.
Một nhóm nhỏ đến từ tầng lớp trung lưu và có lợi thế khi lớn lên ở khu vực đô thị. Một số trong nhóm này đã từng đi nhiều nơi ở nước ngoài và đã tiếp cận với công nghệ thông tin và các loại hình phương tiện và công nghệ giáo dục khác nhau, trong khi một số khác đã có những cơ hội giáo dục trước và thành thạo tiếng Anh, tiếng Pháp hoặc tiếng Bồ Đào Nha.
Một số phần trăm rất nhỏ sinh viên trải qua thời kỳ làm việc sau trung học hoặc trong khu vực kinh tế nhà nước hoặc kinh tế tư nhân. Vì thế, họ đã tiếp thu được những kỹ năng giúp cho họ học tập tốt sau này. Hơn nữa họ có khả năng làm chủ cuộc sống và các nguồn lực hơn các sinh viên bắt đầu bước vào trường đại học ở lứa tuổi trẻ hơn.
Câu hỏi thảo luận
Hãy cho biết những điều trình bầy trên có làm cho bạn thay đổi nhận thức về sinh viên năm thứ nhất hay không?
Hãy trao đổi suy nghĩ của bạn với các giảng viên dạy môn học khác với môn học của bạn.
Tác động của những kinh nghiệm trước đây đến việc học của học viên
Trái với quan điểm chung, các sinh viên của chúng ta không phải là những tờ giấy trắng, trong họ đã có những dấu ấn, mà cũng không phải là các bình rỗng cần được nạp đầy. Khi mới nhập học, họ thường có kiến thức và những kỹ năng thu được từ việc hoà nhập xã hội sớm nhất với nhận biết về trúc thế giới xung quanh và những phương pháp sáng tạo để giải quyết vấn đề. Hơn nữa, họ đang trong giai đoạn Piagetian của các hoạt động chính thức về phát triển nhận thức và vì thế họ có thể được trông đợi hoạt động ở mức độ đó.
Kinh nghiệm chỉ ra rằng một số những thiếu hụt có thể hạn chế khả năng hoặc mơ ước của sinh viên đại học để thực hiện có hiệu quả quá trình dạy, học ở trường đại học. Ví dụ, họ cần tự quản lý về thời gian cũng như làm các công việc một cách độc lập(tiến hành những nghiên cứu trong ngành đào tạo của mình). Sinh viên cũng cần phải có quan điểm học tập là tập trung vào việc hình thành kiến thức, óc sáng tạo và cách giải quyết vấn đề. Những kinh nghiệm học tập ở phổ thông, mà đặc trưng là sự kiểm soát từ bên ngoài, cách thức dạy và học truyền thống (đặc biệt là học vẹt) và sự đe dọa môi trường học tập chắc chắn không chuẩn bị cho họ gánh lấy trách nhiệm đối với việc học tập của mình.
Về tính sẵn sàng học tập ở trường đại học, phải chú ý đến những thiếu hụt do mất thời gian từ những cuộc bãi công và “lãn công”. Mất thời gian có nghĩa là chương trình học tập không được thực hiện đầy đủ. Thêm vào đó, trình độ yếu kém của các giáo viên và thiếu thốn nguồn lực chắc chắn rằng việc học tập sẽ diễn ra bên dưới chuẩn mực yêu cầu. Hơn nữa, để tăng thêm thu nhập, một số giáo viên chỉ dạy một số chủ đề trong những lớp học thêm và đối với những học sinh không tham gia các lớp học thêm sẽ bị mất đi những kiến thức có liên quan. Bản chất của kỳ thi tốt nghiệp phổ thông có xu hướng khuyến khích nhắc lại các điều đã được nghe và chép lại những ghi nhớ hơn là phát triển khả năng phân tích và tổng hợp. Điều đó ngăn cản khả năng vận dụng kiến thức, tư duy logic, giải quyết vấn đề mới một cách sáng tạo
File đính kèm:
- 11 module in higher education.doc