Vấn đề quan trọng nhất để tổ chức ngôn từ khoa học và văn bản khoa học là tính hệ thống, là sự tổ chức toàn diện các phương tiện ngôn ngữ để tạo nên bức tranh thế giới có tính khoa học. Có thể nhận thấy rằng tính hệ thống được thể hiện trong mỗi phong cách chức năng của ngôn ngữ. Theo M.N.Kozưna, phong cách ngôn ngữ được tạo thành chính bởi hệ thống các phương tiện liên kết, trong tổng thể xác định các đặc trưng cho dạng lời, tạo ra đặc tính mà chúng ta cảm nhận theo trực giác, ví dụ như phong cách ngôn ngữ khoa học, phong cách ngôn ngữ hành chính, phong cách ngôn ngữ báo chí v.v. Tuy nhiên, không ở đâu, không trong bất kì phong cách ngôn ngữ nào mà tính hệ thống được thể hiện rõ nét và nghiêm ngặt như trong phong cách ngôn ngữ khoa học. Tính hệ thống của việc chọn lựa và tổ chức các phương tiện ngôn ngữ trong ngôn ngữ khoa học hoàn toàn tương ứng với các dấu hiệu ngoại ngôn ngữ của tính chính xác, trừu tượng, lôgích và khách quan. Do chịu các hạn chế theo truyền thống về việc sử dụng các phương tiện xúc cảm và biểu cảm, về lựa chọn các phương tiện hình thái và cú pháp, ngôn từ khoa học phải loại bỏ nhiều khả năng của ngôn ngữ toàn dân để tuân thủ tính hệ thống, lôgích rành mạch và chính xác nghiêm ngặt.
Trong văn bản khoa học, mối quan hệ của các yếu tố được thể hiện một cách rõ ràng, từ được lặp lại, trật tự từ trung hòa, tính chuẩn mực về cấu trúc ngữ nghĩa, kết cấu và các đặc trưng khác của văn bản hoàn toàn tương ứng với các yêu cầu về tính hệ thống của một văn bản khoa học và chỉ thay đổi khi có yêu cầu của các khoa học riêng biệt.
Trong các cơ sở đào tạo và nghiên cứu thuộc khối các lĩnh vực khoa học và công nghệ, ngôn ngữ được sử dụng là ngôn ngữ chuyên ngành. Cán bộ giảng dạy tiếng Anh hoặc ngoại ngữ tại các cơ sở đào tạo nói trên không chỉ đơn giản nghiên cứu phong cách ngôn ngữ khoa học, mà là nghiên cứu ngôn ngữ chuyên ngành.
Nghiên cứu ngôn ngữ chuyên ngành là quá trình thực hành phong cách ngôn ngữ khoa học trong hệ thống sử dụng lĩnh vực kiến thức nhất định và chuyên ngành cụ thể. Trong lĩnh vực phương pháp luận nói riêng, đây là lĩnh vực dạy ngoại ngữ đảm bảo giao tiếp khoa học học đường và chuyên môn khi lĩnh hội các kiến thức chuyên ngành tại cơ sở đào tạo bằng ngôn ngữ được học.
Đơn vị hành chức chủ yếu của quá trình dạy và học ngôn ngữ chuyên ngành là văn bản khoa học mà người học cần có kĩ năng đọc, hiểu, tái tạo và tạo lập. Vì vậy, vấn đề thực hành văn bản khoa học bao giờ cũng được bắt đầu từ phương pháp dạy và đọc hiểu. Một điều quan trọng khác về nắm vững ngôn ngữ chuyên ngành là khả năng nghe bài giảng hoặc nghe hiểu một vấn đề. Các kĩ năng đọc và nghe hiểu trong các lĩnh vực khoa học luôn mở ra con đường tiến tới nắm vững ngôn ngữ độc thoại và hội thoại chuyên ngành.
12 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 4795 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích tác phẩm "Chí Phèo" của nhà văn Nam Cao, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vấn đề quan trọng nhất để tổ chức ngôn từ khoa học và văn bản khoa học là tính hệ thống, là sự tổ chức toàn diện các phương tiện ngôn ngữ để tạo nên bức tranh thế giới có tính khoa học. Có thể nhận thấy rằng tính hệ thống được thể hiện trong mỗi phong cách chức năng của ngôn ngữ. Theo M.N.Kozưna, phong cách ngôn ngữ được tạo thành chính bởi hệ thống các phương tiện liên kết, trong tổng thể xác định các đặc trưng cho dạng lời, tạo ra đặc tính mà chúng ta cảm nhận theo trực giác, ví dụ như phong cách ngôn ngữ khoa học, phong cách ngôn ngữ hành chính, phong cách ngôn ngữ báo chí v.v. Tuy nhiên, không ở đâu, không trong bất kì phong cách ngôn ngữ nào mà tính hệ thống được thể hiện rõ nét và nghiêm ngặt như trong phong cách ngôn ngữ khoa học. Tính hệ thống của việc chọn lựa và tổ chức các phương tiện ngôn ngữ trong ngôn ngữ khoa học hoàn toàn tương ứng với các dấu hiệu ngoại ngôn ngữ của tính chính xác, trừu tượng, lôgích và khách quan. Do chịu các hạn chế theo truyền thống về việc sử dụng các phương tiện xúc cảm và biểu cảm, về lựa chọn các phương tiện hình thái và cú pháp, ngôn từ khoa học phải loại bỏ nhiều khả năng của ngôn ngữ toàn dân để tuân thủ tính hệ thống, lôgích rành mạch và chính xác nghiêm ngặt.
Trong văn bản khoa học, mối quan hệ của các yếu tố được thể hiện một cách rõ ràng, từ được lặp lại, trật tự từ trung hòa, tính chuẩn mực về cấu trúc ngữ nghĩa, kết cấu và các đặc trưng khác của văn bản hoàn toàn tương ứng với các yêu cầu về tính hệ thống của một văn bản khoa học và chỉ thay đổi khi có yêu cầu của các khoa học riêng biệt.
Trong các cơ sở đào tạo và nghiên cứu thuộc khối các lĩnh vực khoa học và công nghệ, ngôn ngữ được sử dụng là ngôn ngữ chuyên ngành. Cán bộ giảng dạy tiếng Anh hoặc ngoại ngữ tại các cơ sở đào tạo nói trên không chỉ đơn giản nghiên cứu phong cách ngôn ngữ khoa học, mà là nghiên cứu ngôn ngữ chuyên ngành.
Nghiên cứu ngôn ngữ chuyên ngành là quá trình thực hành phong cách ngôn ngữ khoa học trong hệ thống sử dụng lĩnh vực kiến thức nhất định và chuyên ngành cụ thể. Trong lĩnh vực phương pháp luận nói riêng, đây là lĩnh vực dạy ngoại ngữ đảm bảo giao tiếp khoa học học đường và chuyên môn khi lĩnh hội các kiến thức chuyên ngành tại cơ sở đào tạo bằng ngôn ngữ được học.
Đơn vị hành chức chủ yếu của quá trình dạy và học ngôn ngữ chuyên ngành là văn bản khoa học mà người học cần có kĩ năng đọc, hiểu, tái tạo và tạo lập. Vì vậy, vấn đề thực hành văn bản khoa học bao giờ cũng được bắt đầu từ phương pháp dạy và đọc hiểu. Một điều quan trọng khác về nắm vững ngôn ngữ chuyên ngành là khả năng nghe bài giảng hoặc nghe hiểu một vấn đề. Các kĩ năng đọc và nghe hiểu trong các lĩnh vực khoa học luôn mở ra con đường tiến tới nắm vững ngôn ngữ độc thoại và hội thoại chuyên ngành.
Ngày nay, trong những năm đầu của thế kỉ XXI, văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ được đặc biệt chú ý không những về nội dung mà còn về hình thức. Hiện nay, số lượng sách về các vấn đề khoa học kĩ thuật và công nghệ trên toàn thế giới là rất lớn. Ngoài ra, hàng năm con số các bài báo khoa học kĩ thuật và công nghệ đăng trên các tạp chí khoa học có thể tính đến con số vài triệu.Do sự cần thiết trao đổi thông tin trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia ngày càng tăng, trong đó phát triển thông tin về khoa học kĩ thuật và công nghệ đóng vai trò quan trọng hàng đầu, nên dịch văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ trở nên thiết yếu và được nảy sinh như một bộ môn mới. Ngay từ những năm 30 của thế kỉ XX đã có hàng loạt các công trình quan trọng về dịch thuật của M.M.Morozov, Ia.I.Rezker, A.V.Phedorov (Nga) là các cống hiến quan trọng về vấn đề dịch và chứa đựng hàng loạt ý tưởng có liên quan tới dịch văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ. Ngoài ra, lí thuyết dịch các cặp ngôn ngữ cụ thể cũng được Gi.Vine và Gi.Darbelne đề cập đến khi so sánh đối chiếu tiếng Pháp sang tiếng Đức.Trong quá trình giảng dạy và nghiên cứu ngôn ngữ trong môi trường kĩ thuật, chúng tôi nhận thấy rằng việc xây dựng bộ môn “Dịch văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ” dựa trên cơ sở các qui luật đang tồn tại giữa các ngôn ngữ được nghiên cứu là cần thiết. Ở đây, vai trò của ngôn ngữ học xã hội là rất to lớn trong việc giải thích không ít trường hợp không có tương đương trong các ngôn ngữ. Đồng thời, không thể giải thích tất cả các vấn đề dịch thuật trực tiếp bằng ngôn ngữ mà cần giải quyết vấn đề trên cơ sở chuyên môn của lĩnh vực khoa học kĩ thuật và công nghệ đang được nghiên cứu. Như vậy, dịch văn bản cần được xét đến từ các quan điểm ngôn ngữ cũng như khoa học kĩ thuật và công nghệ đặc thù, chú trọng hơn đến phương diện ngôn ngữ.Trong nhiều thế kỉ, tồn tại tranh luận vấn đề về khả năng dịch tương đương từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, A.L.Pumpianski cho rằng dịch tác phẩm văn học nghiêng về nghệ thuật, còn dịch công trình khoa học kĩ thuật nghiêng về khoa học. Do vậy, khi dịch các văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ cần nắm vững không chỉ ngôn ngữ và chủ đề tương ứng mà cần có cả tư duy khoa học, nắm vững các phạm trù lôgích. Cũng từ đây xuất hiện khả năng diễn đạt các qui luật dịch khoa học kĩ thuật và công nghệ cơ bản, đảm bảo nhiệm vụ chủ yếu của dịch thuật là thông tin rõ ràng và mạch lạc. Về vấn đề cần dịch như thế nào T.Kavori đã nói xác đáng rằng :”Hoàn toàn nhất trí với những ai cho rằng dịch thuật cần có sáng tạo độc lập một cách chân thật, không nhất thiết phải mang dấu vết ngôn ngữ nguyên bản; so sánh nguyên bản và bản dịch, không cần chỉ ra đâu là nguyên bản còn đâu là bản dịch”. Ia.Iexker đưa ra hai yêu cầu đối với dịch văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ là: a) dịch cần chính xác, nghĩa là truyền đạt những gì có trong nguyên bản – không hơn không kém; b) dịch cần rõ ràng, mạch lạc – không phụ thuộc vào mức độ rõ ràng của nguyên bản. Người dịch có kinh nghiệm sẽ biểu đạt ý tác giả bằng ngôn ngữ chính xác, ngắn gọn, mạch lạc và có cơ sở lôgích tối đa.Dịch văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ là lao động phức tạp, tinh tế, sáng tạo, là kết quả làm việc liên tục trong lĩnh vực ngôn ngữ và chuyên ngành cụ thể. Thực tế chỉ ra rằng để dịch được ngôn ngữ khoa học kĩ thuật và công nghệ không cần thiết phải có kiến thức sâu về tất cả các lĩnh vực khoa học kĩ thuật và công nghệ. Để có được những bản dịch tốt, cần nắm vững ngôn ngữ khoa học kĩ thuật và công nghệ, thông thạo các qui luật của nó.Phân tích đã chỉ ra rằng tất cả các ngôn ngữ văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ đều có đặc trưng về từ vựng, ngữ pháp và ngữ pháp lôgích như nhau (trừ văn bản khoa học phổ biến) và sự khác nhau của chúng chỉ là thuật ngữ chuyên ngành. Các nhà ngôn ngữ đã nghiên cứu phương pháp dịch văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ. A.L.Pumpjanski gọi phương pháp này là phương pháp song ngữ và trực tiếp sử dụng khái niệm này khi đưa ra thuật ngữ mới. Theo ông, dịch văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ được đặt cơ sở như hoạt động lời nói song ngữ, trong quá trình hoạt động này nội dung về khoa học kĩ thuật và công nghệ được truyền đạt từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác nhờ các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ.Qua nghiên cứu chúng tôi thấy rằng dịch có chất lượng phụ thuộc không những vào việc hiểu đúng nghĩa của thuật ngữ, mà còn vào khả năng phân tích văn bản của người dịch. Nghiên cứu song ngữ văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ cho thấy rằng dịch nghĩa văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ đạt hiệu quả nhất phụ thuộc vào việc hiểu đúng vỏ ngôn ngữ của thuật ngữ chuyên ngành.Khác với các từ vị khác, thuật ngữ là vật mang thông tin lớn, khi không hiểu đúng nghĩa của vỏ ngôn ngữ của nó, thông tin lớn dễ dàng biến thành thông tin sai lệch khủng khiếp. Về hình thức, thuật ngữ trùng với nhiều đơn vị từ vựng của ngôn ngữ toàn dân. Thành phần từ vựng trong văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ thực hiện các chức năng của mình và thể hiện các qui luật đặc thù. Giữa các thuật ngữ khoa học kĩ thuật và công nghệ và ngôn ngữ toàn dân tồn tại mối liên kết chặt chẽ nhất. Ví dụ, các khái niệm phổ biến chung như "điện, nhiệt độ, xăng dầu" và các từ thường được sử dụng như "vitamin, kháng sinh, pelixelin, vũ trụ, giao thoa" không phải là các thuật ngữ trong ngôn ngữ hội thoại, ở đây điểm khởi đầu mang nghĩa của khoa học kĩ thuật và công nghệ đóng vai trò thứ yếu (phụ thuộc). Mặt khác, các từ thông dụng như "nước, đất, lửa, chất lỏng, lực, đất sét, bạc, áp suất" lại là các thuật ngữ trong ngữ cảnh khoa học và kĩ thuật khi mang ý nghĩa chức năng đầu tiên (cơ bản). Mỗi một từ được dùng làm thuật ngữ đều có sắc thái chuyên ngành đặc trưng của mình.Vấn đề tranh luận nổi cộm là vấn đề tương quan giữa thuật ngữ và hệ thống thuật ngữ. Ở phương diện ngôn ngữ, vấn đề này cũng là hợp lí nếu chú ý đến các phạm trù đa nghĩa và đơn nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ. Trong thuật ngữ, chúng ta biểu thị chính xác, tập trung và tiết kiệm tối đa các khái niệm chung và riêng gắn liền với hoạt động khoa học kĩ thuật và công nghệ của con người. Yêu cầu chủ yếu đối với thuật ngữ là nghĩa đơn của nó. Theo A.L.Pụmpanski, trên phương diện thuật ngữ chung thì yêu cầu này được đáp ứng bằng hai phương pháp và phân biệt hai phạm trù thuật ngữ là hợp lí : 1) thuật ngữ khoa học kĩ thuật và công nghệ phổ biến và 2) thuật ngữ chuyên ngành.Thuật ngữ khoa học kĩ thuật và công nghệ phổ biến biểu thị khái niệm chung về khoa học kĩ thuật và công nghệ hoặc là của tất cả các lĩnh vực, hoặc là của một lĩnh vực, hoặc là của một chuyên ngành hoặc chuyên ngành hẹp của khoa học kĩ thuật và công nghệ ở giai đoạn phát triển nhất định của chúng. Từ vựng khoa học kĩ thuật và công nghệ phổ biến là tập hợp các thuật ngữ được biểu thị bằng từ và cụm từ, phần lớn các từ và cụm từ ở phương diện ngôn ngữ đại cương là đa nghĩa và đa chức năng. Tương quan giữa số lượng thuật ngữ và từ vựng khoa học kĩ thuật và công nghệ phổ biến trước hết phụ thuộc vào thể loại văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ. Thuật ngữ có ưu thế hơn trong thể loại tài liệu kĩ thuật: trong các bảng liệt kê, cataloge v.v., từ vựng khoa học kĩ thuật và công nghệ phổ biến thường có mặt trong các thể loại bài báo hoặc sách chuyên khảo. Nghiên cứu song ngữ về đa nghĩa giữa các ngôn ngữ cho khả năng phân loại từ, các đơn vị ngôn ngữ đa nghĩa của nhóm thuật ngữ từ vựng những nghĩa đảm bảo hiểu đúng tư duy khoa học và công nghệ. Các nghĩa này còn ít được nghiên cứu. Nguyên nhân là do việc dạy ngôn ngữ kĩ thuật chưa được hoặc ít được chú ý. Điều này cần được quan tâm một cách thích đáng trong quá trình dạy ngoại ngữ do tầm quan trọng của ngôn ngữ nước ngoài trong việc tiếp nhận kiến thức chuyên ngành một cách chính xác và đầy đủ nhất. Ví dụ, trong văn bản tiếng Anh khoa học kĩ thuật và công nghệ có sử dụng rộng rãi đồng âm của mạo từ ở nghĩa đầu tiên (the = này, a = một), điều này không hoàn toàn đã đặc trưng cho phong cách hội thoại và trong quá trình dạy và học nó không được tính đến. Chúng ta hãy xét ví dụ sau: The proportion in which the four possible products are formed presents a very complicated problem. Câu này nếu dịch là "Tỉ lệ tạo thành bốn sản phẩm có thể có là vấn đề rất phức tạp." sẽ là thiếu nghĩa so với câu đúng là "Tỉ lệ tạo thành cả bốn sản phẩm có thể có là một vấn đề rất phức tạp."Thông thường, các từ khoa học kĩ thuật và công nghệ phổ biến có nguồn gốc nước ngoài được ưa thích sử dụng do dễ phân biệt tư duy khoa học kĩ thuật và công nghệ một cách chính xác. Ví dụ, trong tiếng Anh thay cho động từ to say thường sử dụng các động từ to assert, to state, to declare, thay cho to clean là to purify. Có ít thuật ngữ khoa học kĩ thuật và công nghệ phổ biến tương ứng với số lượng hạn chế của các khái niệm khoa học và công nghệ. Các thuật ngữ này, về nguyên tắc, được sinh ra và mất đi trong lòng ngôn ngữ toàn dân. Căn cứ vào nguồn gốc thì chúng có nhiều nghĩa và không tuân thủ qui định nào.Thuật ngữ chuyên ngành biểu thị khái niệm từng phần của khoa học kĩ thuật và công nghệ. Chúng thường là đơn vị ngôn ngữ toàn dân một nghĩa của ngôn ngữ có quan hệ với nó ở giai đoạn phát triển nhất định của chúng. Thuật ngữ chuyên ngành tồn tại với số lượng rất lớn, tương ứng với số lượng không hạn chế các đối tượng hoạt động khoa học kĩ thuật và công nghệ của con người. Các thuật ngữ này xuất hiện một cách tự phát trong lòng ngôn ngữ toàn dân (so sánh: búa - búa thủy lực; chuột - chuột máy tính; trống - trống mực máy in), cũng như một cách có ý thức bằng cách vay mượn từ các ngôn ngữ khác, theo qui định và trật tự hệ thống, được thể hiện đặc biệt rõ ràng trong các khoa học như khoa học hóa học, môi trường, chế tạo máy. Thuật ngữ chuyên ngành làm phong phú một cách đáng kể ngôn ngữ toàn dân. Theo quan sát, hiện nay, trong các ngôn ngữ phát triển có khoảng 85% đến 90% từ vựng là thuật ngữ khoa học kĩ thuật và công nghệ. Tuy nhiên, trong mỗi ngành hẹp của khoa học kĩ thuật và công nghệ thì số lượng thuật ngữ chuyên ngành là rất hạn chế, hơn nữa chúng rất thường được nhắc lại. Đối với ngành hẹp, số lượng thuật ngữ rất ít. Theo quan sát trong nghiên cứu của chúng tôi, số lượng này không vượt quá 300 đơn vị. Với sự phát triển của khoa học kĩ thuật và công nghệ, thuật ngữ chuyên ngành đơn nghĩa có thể có nghĩa bổ sung và trở thành thuật ngữ khoa học kĩ thuật và công nghệ phổ biến đa nghĩa, còn thuật ngữ đa nghĩa có thể làm mất nghĩa của mình và trở thành thuật ngữ đơn nghĩa.Cấu trúc ngữ pháp trong văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ về mặt hình thức trùng với cấu trúc ngôn ngữ toàn dân. Đặc trưng cho văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ là câu tương đối dài, sử dụng số lượng lớn các định nghĩa, bởi vì nhiệm vụ của văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ là mô tả và giải thích các dữ kiện nhất định một cách có thể chính xác nhất. Vì vậy, trong văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ chiếm ưu thế là danh từ, tính từ và động từ vô nhân xưng. Trong ngôn ngữ khoa học kĩ thuật và công nghệ có sự biểu đạt hình ảnh trực quan nhưng chúng ở dạng sơ đồ bản vẽ và mẫu, đồng thời có đặc trưng lôgích biểu thị.Cú pháp văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ phân biệt bởi sự bão hòa về cấu trúc: gần một nửa tất cả các câu (thông báo) được định hướng đối với các dữ kiện cụ thể cần được mô tả và giải thích. Chiếm ưu thế là các câu có cấu trúc bị động. Trong văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ thường sử dụng các cấu trúc vô nhân xưng không xác định và vô nhân xưng với nghĩa đánh giá, nhận định: đã quyết định, được thừa nhận một cách hợp lí, cần chú ý, cần thiết, quan trọng là v.v.Sự biểu đạt nội dung văn bản một cách lôgích và sự thiếu ngữ điệu hình thành nghĩa tích cực trong văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ, làm giảm đáng kể mức độ phân tán giữa cấu trúc ngữ pháp câu và cấu trúc lôgích của nó. Sự hiện diện của phân đoạn câu ngữ pháp - lôgích trong văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ đã được chứng minh trên cơ sở ngữ liệu song ngữ, khẳng định tính tổng hợp của tư duy khoa học và công nghệ, cho phép đảm bảo tính đồng nhất thông tin và dịch có chất lượng từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Rõ ràng rằng tất cả các thành phần câu về mặt thông tin là đa nghĩa và mang hoặc là thông tin chủ yếu, hoặc là thông tin phụ và đều phụ thuộc vào cấu trúc của câu.
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM "CHÍ PHÈO" CỦA NHÀ VĂN NAM CAO. Vấn đề cần triển khai về "Chí Phèo" : - Bi kịch không được làm người lương thiện, bị hủy hoại cả nhân tính lẫn nhân hình. - Bá Kiến : Tội ác với những thủ đoạn thâm độc, tinh vi. - Chí Phèo : nhân vật không tính cách, bi kịch xuất hiện khi gặp Thị Nở. - Thị Nở : khát vọng : tình yêu hạnh phúc --> làm người "người đàn bà đẹp trong lốt xấu xí" - hiện thân của khát vọng.) - Xung đột mang ý nghĩa điển hình, cuộc đấu tranh xã hội không khoan nhượng - Tâm hồn nhân hậu của Nam Cao và thái độ bi quan trước hiện thực của nhà văn I. Đặt vấn đề : * Cách 1 :Những năm 40 của thế kỷ, trên văn đàn hiện thực Việt Nam , Nam Cao nổi bật với những trang viết khai phá sâu sắc bi kịch của những kiếp người khổ đau trong bóng đêm của xã hội cũ. Những cuộc đời lầm than đi vào trang sách của Nam Cao đã sống mãi với thời gian. Gắn những nhân vật của mình vào không khí ngột ngạt tối tăm của chế độ thực dân phong kiến, nhà văn đã lột trần bộ mặt tàn bạo của giai cấp thống trị, cảm thương sâu sắc nổi đau của con ngưòi. Tấm lòng nhà văn hướng về cuộc sống lầm than cơ cực của người nông dân, phát hiện trong những quẩn quanh bế tắc là bi kịch khủng khiếp hủy hoại cả nhân tính lẫn nhân hình. Chí Phèo, sáng tác đầu tiên của Nam Cao ra mắt người đọc từ tháng 2 năm 1941, đã có sức tố cáo bộ mặt vô nhân của xã hội và phản ánh bế tắc cùng cực của người nông dân. Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, những trang viết sâu sắc đầy tình người vẫn sống mãi, gợi nhớ một quá khứ tủi nhục đau thương của dân tộc. * Cách 2 : Tiếng chửi của một thằng say đã mở đầu cho thiên truyện ngắn đặc sắc "Chí Phèo" của Nam Cao.
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM "CHÍ PHÈO" CỦA NHÀ VĂN NAM CAO. Vấn đề cần triển khai về "Chí Phèo" : - Bi kịch không được làm người lương thiện, bị hủy hoại cả nhân tính lẫn nhân hình. - Bá Kiến : Tội ác với những thủ đoạn thâm độc, tinh vi. - Chí Phèo : nhân vật không tính cách, bi kịch xuất hiện khi gặp Thị Nở. - Thị Nở : khát vọng : tình yêu hạnh phúc --> làm người "người đàn bà đẹp trong lốt xấu xí" - hiện thân của khát vọng.) - Xung đột mang ý nghĩa điển hình, cuộc đấu tranh xã hội không khoan nhượng - Tâm hồn nhân hậu của Nam Cao và thái độ bi quan trước hiện thực của nhà văn I. Đặt vấn đề : * Cách 1 :Những năm 40 của thế kỷ, trên văn đàn hiện thực Việt Nam , Nam Cao nổi bật với những trang viết khai phá sâu sắc bi kịch của những kiếp người khổ đau trong bóng đêm của xã hội cũ. Những cuộc đời lầm than đi vào trang sách của Nam Cao đã sống mãi với thời gian. Gắn những nhân vật của mình vào không khí ngột ngạt tối tăm của chế độ thực dân phong kiến, nhà văn đã lột trần bộ mặt tàn bạo của giai cấp thống trị, cảm thương sâu sắc nổi đau của con ngưòi. Tấm lòng nhà văn hướng về cuộc sống lầm than cơ cực của người nông dân, phát hiện trong những quẩn quanh bế tắc là bi kịch khủng khiếp hủy hoại cả nhân tính lẫn nhân hình. Chí Phèo, sáng tác đầu tiên của Nam Cao ra mắt người đọc từ tháng 2 năm 1941, đã có sức tố cáo bộ mặt vô nhân của xã hội và phản ánh bế tắc cùng cực của người nông dân. Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, những trang viết sâu sắc đầy tình người vẫn sống mãi, gợi nhớ một quá khứ tủi nhục đau thương của dân tộc. * Cách 2 : Tiếng chửi của một thằng say đã mở đầu cho thiên truyện ngắn đặc sắc "Chí Phèo" của Nam Cao. Nhà văn đã mở ra một cuộc đời đầy bi kịch của một Chí Phèo - thù hận với tất cả : cuộc đời - xã hội - con người và ngay cả bản thân, một Chí Phèo triền miên trong những cơn say, mất cả lương tri, trên hành trình dài đằng đẵng của một kiếp sống không ra sống, trong không gian tăm tối ngột ngạt của xã hội Việt Nam đêm trước của cách mạng. Nhà văn đã dẫn dắt người đọc vào một cuộc đời đau khổ và kết thúc trong cái vòng luẩn quẩn bế tắc. Để khi gấp trang sách lại, trái itm mỗi người vẫn còn thổn thức những buồn thương đau đớn trước bi kịch khó tin của những người không được làm người lương thiện trong xã hội cũ. II. Giải quyết vấn đề : A. Tổng : (bao quát tinh thần của tác phẩm) 1. Sức hấp dẫn của tác phẩm không chỉ do tài năng của Nam Cao đã tạo dựng được cốt truyện theo kết cấu rất hiện đại, mà trước hết xuất phát từ sự quan tâm sâu sắc của nhà vănvới đồng loại của mình. Đằng sau lối kể chuyện lạnh lùng tỉnh táo là cả một trái tim nhân hậu đằm thắm đối với người nông dân - những người sống cùng tác giả. Những vấn đề Nam Cao đề cập trong tác phẩm đâu chỉ là cái nhìn sắc sảo, cách phân tích hiện thực tinh tế, mà còn gắn với quan niệm của nhà văn về cuộc sống, sáng lên tình cảm gắn bó, yêu thương trân trọng tất cả những giá trị cao đẹp gắn với con người của nhà văn. 2. Ánh sáng của tình người nhân hậu ấy đã giúp nhà văn phát hiện ra nguyên nhân của những tấn bi kịch đời người trong xã hội cũ, thắp sáng lên khát vọng mãnh liệt muốn trở về cuộc sống lương thiện. Nhưng trong bóng đêm dày đặc của xã hội cũ, ánh sáng ấy đã tắt ngấm với bao buồn thương bế tắc, trước khi ánh sáng của một ngày mới bừng lên quét sạch bóng đêm. Tuy vậy, ngọn lửa của khát vọng làm người vẫn âm ỉ nhức nhối trong từng câu chữ Nam Cao. 3. Bi kịch của Chí Phèo chỉ thật sự bắt đầu cùng với lần tỉnh rượu đầu tiên của nhân vật, chứa đựng tất cả sóng gió đi qua cuộc đời Chí Phèo, sau đêm trăng huyền thoại - cái đêm "trăng rắc bụi trên sông và sông gợn biết bao nhiêu vàng" - đã đem đến cho Chí một người đàn bà đích thực trong cái lốt xấu xí "ma chê, quỷ hờn" : Thị Nở. B. Phân : (cảm nhận chi tiết - phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật) : * Khoảnh khắc bi kịch của Chí Phèo 1/ Cùng với ánh sáng cuả một ngày mới, lần đầu tiên Chí Phèo nhận biết được những âm thanh đời thường : "Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá". Cả một đoạn văn được viết bằng giọng điệu trữ tình tha thiết đã khắc họa rõ nét sự hồi sinh của tâm-hồn-người trong con-quỷ-dữ của làng Vũ Đại thật cảm động. Một cảm-giác-người đã thức tỉnh lý trí, nối kết quá khứ với hiện tại, một thời yên bình xa xưa và trước mắt là tuổi già, đói rét và ốm đau và cô độc. 2/ Hiện tại lay thức lương tâm thành tiếng thở dài não nuột "Chao ôi là buồn!".. Một nỗi buồn đáng quý, bởi nó đã khơi lại những giấc mơ giản dị của một thời lương thiện: "Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏmột con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Chao ôi là buồn! Vì mãi mãi cái ước mơ về hạnh phúc nhỏ nhoi ấy không bao giờ thành hiện thực, bởi bàn tay tội ác của những kẻ như Bá Kiến đã tước đoạt vĩnh viễn con-người-lương thiện của Chí ngày xưa. Nhưng trong hình hài quỷ dữ, vẫn ẩn náu giấc mơ ngày nào, dù chỉ nhớ lại một cách lờ mờ "hình như…" cũng đủ khẳng định cho sức phản kháng của lương thiện trước tội ác. Để khi hồi sinh thì không thể nào các thế lực hắc ám có thể bóp chết được lương tâm bé bỏng ấy. 3/ Phút lóe sáng của tâm hồn đã giúp nhân vật ý thức nỗi đau của một kẻ cô đơn giữa đồng loại của mình : "Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già củ hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau". Nam Cao đã diễn tả đặc sắc và độc đáo giờ phút bừng thức của nhân vật, bằng lối văn đặc tả sự "bâng khuâng" trong tâm hồn Chí Phèo. Phút ban đầu ấy, quá khứ mơ hồ, hiện tại mơ hồ, tương lai mờ mịt đều nằm trong hai chữ "hình như…". Ở đó le lói ngọn lửa của một trái tim Người. 4/ Thị Nở xuất hiện cùng nồi cháo hành đã thổi bùng ngọn lửa mong manh ấy, đem đến cho trái tim Chí Phèo những nhịp đập đầu tiên của cảm giác tình yêu. Ngòi bút phân tích tâm lý của Nam Cao hết sức tinh tế và nhạy cảm khi mô tả quá trình về lại với cõi người của Chí Phèo : bắt đầu từ ranh giới mong manh "hình như mắt ươn ướt" như một tiếng khóc chào đón cuộc đời mới, cho đến khi Chí Phèo gặp nụ cười Thị Nở là lúc tình yêu bắt đầu lên tiếng - giúp nhân vật ý thức đầy đủ về quãng đời đã qua. Bát cháo thứ nhất là ý thức về Tình Yêu và Dục Vọng. Bát cháo thứ hai là niềm sám hối về tội ác, mở ra khát khao hướng thiện mãnh liệt "Trời ơi, hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn". Cùng với niềm khát khao ấy, Chí Phèo đã trở lại với bản chất của anh Chí ngày xưa : hiền lành, lương thiện. Con đường trở về được hứa hẹn bằng nụ cười tin cẩn của Thị Nở ,làm nở ra nụ cười Chí Phèo. Từ tiếng khóc đến nụ cười, Chí Phèo đã thật sự vươn dậy cùng khát vọng làm người. * Thị Nở : 1/ Tình yêu và niềm tin mà Chí Phèo có được bắt đầu từ Thị Nở - nhân vật đẹp nhất của tác phẩm. Có thể những chi tiết mô tả ngoại hình Thị Nở làm nguời đọc nhớ nhiều và ấn tượng mạnh về người đàn bà nhan sắc xấu nhất trong lịch sử vă nhọc. Và những kẻ vô tâm, chỉ quan tâm hình thức câu khách rẻ tiền mà thờ ơ trước nỗi đau đồng loại mới cười cợt , gán ghép cho tác phẩm tên gọi sống sượng "Đôi lứa xứng đôi". Người đàn bà Nam Cao tạo ra để ban tặng cho Chí Phèo để giúp hắn trở lại làm người nếu là một mỹ nhân thì mới là điều lạ. Vẻ đẹp của Thị Nở không nằm trong hình thức mà bộc lộ ngay trong những nét "dở hơi" ngược với quan niệm xã hội. 2/ Người đàn bà đó có đủ đức tính của một người tình tuyệt vời, một người vợ tảo tần và có trái tim người mẹ bao dung, độ lượng. Trong cuộc gặp gỡ tình yêu Thị Nở - Chí Phèo, Nam Cao đã lột tả những vẻ đẹp ấy thông qua những chuyển biến tâm trạng Chí Phèo : người đàn bà đích thực đối lập với "con quỷ cái" bà Ba, "hắn muốn làm nũng thị như với mẹ". Thị Nở có đầy đủ phẩm chất của một người bình thường : biết lo toan, thương hại, có phút "lườm", "e lệ" trong cảm giác tình yêu và trên tất cả là tiếng cười tin cẩn như một phép màu giải thoát cho con người thoát ra mặc cảm tội lỗi. Có thể nói Nam Cao đã xây dựng nhân vật Thị Nở bằng bút pháp hiện thực trữ tình để gửi gắm niềm tin của chính ông vào bản chất hướng thiện của con nguời. Thực tế trong đời có lẽ khó kiếm ra người nào hội tụ những cái xấu nhường ấy và đẹp nhường ấy. Nhưng cuối cùng Thị Nở vẫn phải trở về với mảnh đất hiện thực - nơi Thị có một bà cô già năm mươi tuổi chưa c
File đính kèm:
- 1234556666666.doc