Phương pháp gây hứng thú học tập cho học sinh trong giờ Vật Lí

Nước ta đang bước vào thời kì công nghiệp hoá hiện đại hoá , thế giới đang trong thời kì bung nổ tri thức, khoa+ học và công nghệ .

 Mục tiêu của giáo dục là hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh . Học sinh càng được tham gia tích cực , chủ động vào các hoạt động học tập , thì các phẩm chất và năng lực cá nhân càng sớm được hình thành và phát triển hoàn thiện . Tính năng động và sáng tạo là những phẩm chất rất quan trọng trong cuộc sống hiện đại. Từ những yêu cầu trên SGK mới đã chú trọng đến việc đổi mới phương pháp và nội dung dạy học, rèn luyện cho học sinh tính tự lực, tích cực và sáng tạo, nhằm phát triển tối đa năng lực nhận thức của học sinh . Là một giáo Viên thành quả đạt được trong lao động là chất lượng học tập của học sinh trong môn mình phụ trách. Tôi luôn trăn trở và tự hỏi làm thế nào để có nhiều học sinh học tốt, có nhiều học sinh thực sự ham muốn học môn của mình dạy. Qua quá trình công tác tôi nhận thấy cho dù SGK mới viết có hay, bài soạn của GV chuẩn bị có chu đáo mà học sinh không có hứng thú học bài, thì kết quả dạy học của giáo viên cũng không được cao. Kết quả học tập chỉ đạt được tối đa khi học sinh thực sự có hứng thú học môn học này , chính điều đó đã thôi thúc tôi nghiên cứu và viết đề tài này .

 

doc8 trang | Chia sẻ: lephuong6688 | Lượt xem: 838 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phương pháp gây hứng thú học tập cho học sinh trong giờ Vật Lí, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A : Mở đầu Lý do chọn đề tài : Nước ta đang bước vào thời kì công nghiệp hoá hiện đại hoá , thế giới đang trong thời kì bung nổ tri thức, khoa+ học và công nghệ . Mục tiêu của giáo dục là hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh . Học sinh càng được tham gia tích cực , chủ động vào các hoạt động học tập , thì các phẩm chất và năng lực cá nhân càng sớm được hình thành và phát triển hoàn thiện . Tính năng động và sáng tạo là những phẩm chất rất quan trọng trong cuộc sống hiện đại. Từ những yêu cầu trên SGK mới đã chú trọng đến việc đổi mới phương pháp và nội dung dạy học, rèn luyện cho học sinh tính tự lực, tích cực và sáng tạo, nhằm phát triển tối đa năng lực nhận thức của học sinh . Là một giáo Viên thành quả đạt được trong lao động là chất lượng học tập của học sinh trong môn mình phụ trách. Tôi luôn trăn trở và tự hỏi làm thế nào để có nhiều học sinh học tốt, có nhiều học sinh thực sự ham muốn học môn của mình dạy. Qua quá trình công tác tôi nhận thấy cho dù SGK mới viết có hay, bài soạn của GV chuẩn bị có chu đáo mà học sinh không có hứng thú học bài, thì kết quả dạy học của giáo viên cũng không được cao. Kết quả học tập chỉ đạt được tối đa khi học sinh thực sự có hứng thú học môn học này , chính điều đó đã thôi thúc tôi nghiên cứu và viết đề tài này . Thực trạng của vấn đề nghiên cứu : Thực trạng : Qua những năm công tác tại những đơn vị khác nhau và tham khảo ở các trường bạn . Tôi thấy hầu như các giáo viên lên lớp dạy mới chỉ chú ý đến việc làm thế nào để truyền thụ đến học sinh được đầy đủ kiến thức , hợp lô gíc , trình bày bảng khoa học , dạy theo đúng phương pháp mới , đa số học sinh được hoạt động ........... là tiết học xem như thành công . Hầu như chưa quan tâm đến việc lầm thế nào để kích thích cho học sinh có được sự đam mê thực sự với môn học . Vì vậy trong trường số lượng học sinh thực sự đam mê học bài hầu như rất ít ,đa số học sinh chưa chịu tìm tòi khám phá thế giới bên ngoài . 2 . Kết quả và hiệu quả của vấn đề nghiên cứu : Trước khi nghiên cứu vấn đề này tôi cũng đã có nhiều trăn trở , làm thế nào để môn học của mình có nhiều học sinh yêu thích , có nhiều học sinh học tốt . Qua nghiên cứu về tâm lí học lứa tuổi học sinh THCS , Tôi đã chọn phương án là tìm cách gây hứng thú học tập cho học sinh . Trong quá trình giảng dạy, Tôi đã áp dụng phương pháp này và thấy hiệu quả đạt được tương đối khả quan . Như : Tỉ lệ học sinh yêu thích môn học tăng lên , số học sinh yếu kém giảm , học sinh khá giỏi tăng. B. Giải quyết vấn đề : I. Biện pháp thực hiện : 1 . Gây hứng thú học tập cho học sinh từ việc sử lí các tình huống sư phạm : Ngay từ đầu giáo viên phải tạo được niềm tin và tình cảm thực sự từ học sinh dành cho giáo viên . Qua cách ăn mặc, đi đứng , nói năng đúng chuẩn mực đạo đức . Ngay từ khi vào lớp giáo viên phải tạo được bầu không khí tươi vui , thoải mái có thể chỉ bằng những câu nói tiếng cười , nét mặt vui vẻ của giáo viên .Giáo viên không nên gây căng thẳng nặng nề trong giờ học , kị nhất là giáo viên chửi bới, gắt gỏng hoặc vào lớp với khuôn mặt nặng nề . Giáo viên phải luôn tôn trọng ý kiến trả lời của học sinh , không nên gò ép học sinh vào khuôn phép cứng nhắc , tránh thái độ yêu cầu học sinh trả lời sắp xếp ngay theo thứ tự của mình . Khuyến khích cho điểm động viên học sinh một cách tế nhị , hợp lí khi học sinh trả lời đúng câu hỏi hoặc học sinh không trả lời được câu hỏi . Từ đó sẽ tạo cho học sinh có được niềm tin vào khả năng của bản thân . Giáo viên cần phải cải tiến và sáng tạo đồ dùng dạy học , thiết kế thí nghiệm phù hợp với điều kiện địa phương , sử dụng phương pháp dạy học nhóm hoặc dùng phiếu học tập hợp lí . Học sinh THCS là học sinh đang trong độ tuổi chuyển từ trẻ con sang người lớn nên tính tình rất khó bảo . Nếu chúng ta xử lí tình huống sư phạm không khéo léo thì sẽ gây cho học sinh những ác cảm với giáo viên và không muốn học môn học này . Nếu xử lí khéo léo thì gây được ấn tưọng mạnh đối với học sinh từ đó học sinh cảm thấy có hứng thú học môn của giáo viên giảng dạy thì kết quả học tập môn học sẽ tốt hơn . Trong thực tế học sinh do có ác cảm với giáo viên mà ngày càng học kém môn học của giáo viên giảng dạy không phải là ít nên giáo viên vần lưu ý điều này . Vấn đề này nhìn bề ngoài tưởng chừng như không có liên quan gì đến việc học tập của học sinh nhưng nó lại có ảnh hưởng rất lớn đến tâm lí học tập của học sinh . Nếu chúng ta sử lí không khéo léo nó sẽ trở thành một ấn tượng mà học sinh mang theo suốt đời . 2.Gây hứng thú cho học sinh bằng những thí nghiệm vật lí có tính kì dị : Khi dạy bài “áP suất khí quyển” ( SGK Vật Lí 8 ,Tr 32 ) Ngay khi vào lớp giáo viên gọi ngay hai học sinh to khoẻ nhất lớp lên bục giảng . GV : Theo em, hai bạn kéo được được khoảng bao nhiêu kg . HS : Trả lời . GV : Các em có tin là hai bạn này không kéo nổi hai núm cao su nặng khoảng 1 gam không ? HS : Nghi ngờ về khẳng định của giáo viên . GV : Dùng hai núm cao su trong bộ thí nghiệm được cấp của nhà trường để làm thí nghiệm thay cho thí nghiệm “ Mác Đơ Buốc ” .Đặt hai núm cao su chồng khít lên nhau rồi dùng tay ép sao cho không khí bên trong ra ngoài hết . Yêu cầu hai học sinh dùng hết sức để kéo .( Không được làm việc gì ngoài việc kéo ) HS : Sẽ thấy lạ kì khi hai bạn của mình không kéo nổi hai núm cao su bé tí tẹo . GV : Tại sao hai bạn không kéo được hai núm cao su đó ra khỏi nhau? Làm như vậy sẽ kích thích ngay được tính tò mò , hiếu kì của học sinh . Nên học sinh sẽ chú ý ngay vào bài học . Khi dạy bài “ Đối lưu – Bức Xạ NHiệt ” (SGK Vật Lí 8 , Tr 80 ) Trước khi vào bài dạy mới GV hỏi : Theo em đèn nến có hút được khói không ? HS: trả lời . GV : Dùng một ống nứa cưa thật bằng ở hai đầu ( Hai đầu thông nhau ) , bên hông có khoét một lỗ sao cho lỗ thấp hơn ngọn nến dự định đặt ở trong ống nứa khoảng 5–10 cm Đốt một cây nến rồi dùng ống này úp ngọn nến vào bên trong sao cho phần dưới ống nứa tương đối kín , rồi đốt một vài que hương đưa lại gần miệng lỗ . HS : sẽ thấy khói bị hút vào trong ống nứa . GV : Liệu có đúng đèn nến nó hút được khói hay không ta nghiên cứu vào bài hôm nay . Từ đó sẽ kích động được tính tò mò của học sinh , làm cho học sinh chú ý hơn vào bài học . Khi dạy bài “ Dẫn nhiệt ” ( SGK Vật Lý 8 , Tr 77 ) ngay khi vào lớp giáo viên xin một học sinh nữ hai sợi tóc . GV : Theo các em khi thầy cho sợi tóc vào lửa thì hiện tượng gì xảyra . HS : Tóc sẽ cháy. GV : Các em có tin rằng thầy dùng lửa đốt mà mà sợi tóc không cháy không ? HS : Nghi ngờ về khẳng định của giáo viên . GV : Dùng sợi tóc quấn chặt vào thanh kim loại đồng hình trụ tròn rồi hơ vào ngọn lửa cho học sinh quan sát . Sau đó tháo sợi tóc ra cho học sinh quan sát lại . HS : Sẽ rất ngạc nhiên khi sợi tóc bị đốt mà không bị cháy . GV Đặt vấn đề : Em nào cho thầy biết vì sao sợi tóc bị đốt mà không cháy? Từ đó kích thích được tính tò mò của học sinh , học sinh sẽ chú ý ngay vào bài học . Tuy nhiên không phải tất cả các bài chúng ta đều thực hành được thí nghiệm tạo tình huống có vấn đề vào bài , nhưng với những bài có thể thì giáo viên nên tìm những thí nghiệm thật gần gủi nhưng đặc sắc để đưa lên đầu bài nhằm tạo tình huống có vấn đề , gây hứng thú học tập cho học sinh . 3. Gây hứng thú cho học sinh bằng những câu hỏi có vấn đề. * Khi dạy bài “ứng dụng định luật truyền thẳng của ánh sáng” (SGK Vật Lí 7, Tr 9) Trước khi học bài này giáo viên yêu cầu học sinh về nhà quan sát thật kĩ bóng của mình khi đi ngoài trời nắng hoặc bóng của người , của bàn tay khi bị bóng đèn điện chiếu in lên tường vào ban đêm ,..... ( chú ý quan sát sự đậm nhạt của viền ngoài so với bên trong ) . Khi vào tiết dạy giáo viên yêu cầu 1 – 2 học sinh nêu kết quả quan sát . GV : Tại sao lại có hiện tượng đó? HS : Lúng túng không biết trả lời thế nào . GV : Để giải thích được vấn đề trên , ta cùng nghiên cứu vào bài mới HS : Sẽ chú ý vào bài mới để tìm cách trả lời câu hỏi trên . Khi dạy bài “Sự cân bằng lực - Quán tính ” ( SGK Vật Lí 8 , Tr17 ) GV : Khi ngồi xe đạp , xe máy , ô tô , ... nếu phanh gấp chúng ta lại cứ bị ngã người về phía trước mà không bị ngã người về phía sau? HS : Cố gắng suy nghĩ để tìm câu trả lời , có thể chưa giải thích được GV : Để giải thích được vấn đề trên , ta cùng nghiên cứu vào bài mới HS : Sẽ chú ý vào bài mới để tìm cách trả lời câu hỏi trên . Khi dạy bài “ Sự nổi ” ( SGK Vật Lí 8 , Tr 43 ) GV : Tại sao tàu làm bằng kim loại vừa to lại vừa nặng nhưng lại nổi trong nước còn kim vừa nhỏ , vừa nhẹ lại chìm trong nước ? HS: Cố gắng suy nghĩ để tìm câu trả lời , có thể chưa giải thích được . GV : Để giải thích được vấn đề trên , ta cùng nghiên cứu vào bài mới HS : Sẽ chú ý vào bài mới để tìm cách trả lời câu hỏi trên . Khi dạy bài “ Thấu kính hội tụ ” ( SGK Vật Lí 9 , Tr 113 ) GV : Một nhóm các nhà thám hiểm Bắc cực , khi đi quên mang theo lửa . Họ đã nghĩ ra một cách đẻo những tảng băng và dùng nó để lấy lửa . Liệu rằng họ có lấy được lửa từ những tảng băng lạnh giá đó không? HS : Bỡ ngỡ vì có thể chưa nghe thấy bao giờ và tự đặt ra câu hỏi : Băng nó lạnh như thế thì lấy lửa làm sao được? GV : Để giải thích được vấn đề trên , ta cùng nghiên cứu vào bài mới HS : Sẽ chú ý vào bài mới để tìm cách trả lời câu hỏi trên . Những hiện tượng trên hoặc quá gần gũi hoặc quá xa lạ , lâu nay ta cho nó là những hiện tượng hiển nhiên không cần giải thích hoặc giải thích chưa được hoặc mới nghe lần đầu . Từ đó sẽ kích thích được tính tò mò , ham hiểu biết của học sinh , học sinh sẽ chú ý hơn vào bài học . Như vậy tất cả các tiết dạy bài mới chúng ta đều có thể chọn ra một hiện tượng gần gủi mà học sinh chưa giải thích được để đặt câu hỏi nêu vấn đề vào bài . Ngoài ra trong mỗi tiết dạy đặt câu hỏi có vấn đề trước khi chuyển mục cũng gây hứng thú học tập cho học sinh II . Kết quả đạt được . Qua quá trình dạy học tại đơn vị công tác , Tôi đã áp dụng kinh nghiệm trên và thu được kết quả khả quan . Tỉ lệ học sinh thích học môn Vật Lí tăng thêm khoảng 25% Số học sinh nắm bài ngay tại lớp tăng thêm khoảng 30% Số học sinh khá , giỏi tăng thêm 15% Số học sinh yếu , kém về môn Vật Lí hầu như không đáng kể . C : Kết luận 1, Để đạt được kết quả tốt trong tất cẩ các môn học nói chung và môn Vật Lí nói riêng . Một trong các yếu tố quan trọng là người học phải có hứng thú học tập . Đặc biệt là môn Vật Lí , mỗi sự vật hiện tượng đều thể hiện một yếu tố , một bản chất nào đó của quy luật tự nhiên . Những hiện tượng Vật Lí đó có thể rất quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày của mỗi chúng ta như : Gió thổi , nước sôi , mây trôi , vật nổi , ............. những hiện tượng tưởng chừng như hiển nhiên đó , để nghiên cứu và trả lời được câu hỏi vì sao lại thế thường gây được ấn tượng mạnh vào tâm lí , sự hiếu kì của học sinh . Nhưng trong quá trình dạy học giáo viên không được quên rằng sử lí các tình huống sư phạm một cách hợp lí , tế nhị sẽ tạo được ấn tượng sâu sắc với lứa tuổi học sinh THCS , từ đó gây được hứng thú học tập cho học sinh . 2, Đề tài này có thể sử dụng cho giáo viên dạy vật lí cấp THCS làm tài liệu tham khảo , phục vụ cho việc thay sách SGK mới , giảng dạy môn Vật Lí tại trường mình , hy vọng được chia sẽ phần nào những khó khăn vất vả của giáo viên dạy môn vật Lí theo chương trình SGK mới và góp phần nâng cao hiệu quả bài giảng của mình , góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục và đào tạo trong giai đoạn mới , góp phần đưa đất nước tiến kịp các nước trên thế giới . Trong thời gian ngắn , khối lượng công việc nhiều nên trong quá trình biên soạn đề tài chắc chắn còn nhiều thiếu sót mà tôi chưa phát hiện ra . Để nội dung đề tài thêm phong phú và đầy đủ hơn , rất mong được sự góp ý bạn đọc và đồng nghiệp . Tôi xin chân thành cảm ơn ! Vĩnh Hùng, ngày 30 tháng 03 năm 2007 Người viết: Trịnh Thế Thắng

File đính kèm:

  • docSKKN THCS Vinh Hung.doc