Sắc thi trang trọng
Sắc thi tao nh
Sắc thái khái quát và trừu tượng
Sắc thi cổ
Tu từ học nghiên cứu những thuộc tính biểu cảm của các phương tiện ngôn ngữ. Sự vận dụng các kết quả nghiên cứu đó sẽ giúp cho lời văn hay hơn, đẹp hơn. Trải qua quá trình lựa chọn, cải bin v vận dụng ko di hng ngn năm, lớp từ Hán Việt đ trở thnh một bộ phận hữu cơ trong kho tàng di sản văn hoá của dân tộc ta và được chúng ta sử dụng để thể hiện sắc thái tu từ trong các phong cách chức năng khác nhau. Từ Hán Việt là nguồn chất liệu đáng kể trong văn học bác học và văn chương bình dn. Cc tc phẩm văn học kinh điển của dân tộc ta, như: Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, Truyện Kiều, Khóc Trương Quỳnh Như, Chiều hôm nhớ nhà. đều sử dụng từ Hn Việt.
6 trang |
Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 3358 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sắc thái tu từ từ Hán Việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sắc thái tu từ từ Hán Việt
• Sắc thái trang trọng
• Sắc thái tao nhã
• Sắc thái khái quát và trừu tượng
• Sắc thái cổ
Tu từ học nghiên cứu những thuộc tính biểu cảm của các phương tiện ngơn ngữ. Sự vận dụng các kết quả nghiên cứu đĩ sẽ giúp cho lời văn hay hơn, đẹp hơn. Trải qua quá trình lựa chọn, cải biên và vận dụng kéo dài hàng ngàn năm, lớp từ Hán Việt đã trở thành một bộ phận hữu cơ trong kho tàng di sản văn hố của dân tộc ta và được chúng ta sử dụng để thể hiện sắc thái tu từ trong các phong cách chức năng khác nhau. Từ Hán Việt là nguồn chất liệu đáng kể trong văn học bác học và văn chương bình dân. Các tác phẩm văn học kinh điển của dân tộc ta, như: Chinh phụ ngâm, Cung ốn ngâm khúc, Truyện Kiều, Khĩc Trương Quỳnh Như, Chiều hơm nhớ nhà... đều sử dụng từ Hán Việt.
Ngày nay, trong kho từ ngữ tiếng Việt cịn tồn tại hàng loạt cặp từ Hán Việt và thuần Việt cĩ nghĩa tương đương nhau về sắc thái ý nghĩa, về mặt biểu cảm và được dùng song song với nhau. Trong đĩ, từ Hán Việt thường mang sắc thái cổ kính và khơng thơng dụng cịn các từ thuần Việt mang tính hiện đại, thơng dụng. Và các nhà thơ cổ điển đã dịch một khái niệm cổ điển sang hiện đại. Ví dụ:
quyền mơn
→
cửa quyền
phù vân
→
mây nổi
thanh sử
→
sử xanh
…
Cĩ thể nĩi tới 4 sắc thái tu từ của từ Hán Việt.
1. Sắc thái trang trọng
Một số từ Hán Việt thay thế từ thuần Việt vì Hán Việt tạo cảm giác trang trọng, nghiêm trang hơn:
phụ nữ
–
đàn bà
nơng dân
–
dân cày
hi sinh
–
chết
…
Dùng sinh, phế, phúng, tặng, tẩy... thay cho: đẻ, bỏ, viếng, cho, rửa...
Cách đặt tên phố, chợ, bút danh (các nhà thơ trào phúng lại dùng các từ thuần Việt cho cĩ vẻ hài hước).
Bác Hồ dùng từ Hán Việt trong trường hợp trang nghiêm: Các em quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.
2. Sắc thái tao nhã
Từ Hán Việt thay thế cho từ thuần Việt trong trường hợp từ thuần Việt khi được nĩi ra gây cảm giác thơ tục, khiếm nhã.
Các từ chỉ bệnh tật ghê sợ: thổ huyết, xuất huyết, viêm họng...
Các từ chỉ tai nạn, chết chĩc: hoả hoạn, thương vong, từ trần...
Các từ chỉ hoạt động sinh lí...
Từ Hán Việt được dung với tư cách là uyển ngữ: mãn nguyệt khai hoa, động phong hoa trúc, cấp dưỡng...
3. Sắc thái khái quát và trừu tượng
Một số từ Hán Việt, đặc biệt là thuật ngữ khoa học cĩ ý nghĩa khái quát hố cao mà từ thuần Việt khơng cĩ hoặc khơng cĩ nghĩa tương đương.
Về chính trị: độc lập, tự do, dân chủ, dân quyền...
Về ngoại giao: cơng hàm, lãnh sự, sứ quán...
Về quân sự: tiến cơng, kháng chiến, du kích...
Về tốn học: đồng quy, tiếp quyến, tích phân...
Những thuật ngữ này cĩ nội hàm lớn, khái quát cao, nếu dùng từ thuần Việt thì dài dịng.
Từ Hán Việt cĩ tính chất trừu tượng, tĩnh gợi cho ta hình ảnh thế giới ý niệm im lìm, tĩnh tại...
Từ thuần Việt gợi sắc thái sinh động, cụ thể của thế giới thực tại.
Cĩ thể lấy ví dụ so sánh bằng hai bài thơ: Thu điếu (Nguyễn Khuyến) và Chiều hơm nhớ nhà (Bà huyện Thanh Quan). Trong bài Thu điếu, Nguyễn Khuyến dùng tồn từ thuần Việt để gợi về mùa thu cĩ thực, về nơng thơn bình dị, đẹp nên thơ và rất đỗi thân yêu của làng quê Việt Nam. Ơng khơng dùng từ Hán Việt vì nếu dùng thì cảm giác thân quen, gần gũi rất cĩ thể sẽ bị mất đi. Và ở đây, chính các từ thuần Việt đã tạo nên âm hưởng, tạo nên cảm giác thân quen ấy. Trái lại, trong bài thơ của bà huyện Thanh Quan đĩ lại là hình ảnh về buổi chiều của nội tâm. Tác giả đã đẩy lùi bức tranh vào thế giới của tâm tưởng, ý niệm. Trong Mẹo giải thích từ Hán Việt của Phan Ngọc cĩ viết: Các từ Hán Việt mà nữ thi sĩ dùng đẩy ta vào thế giới muơn đời. Trên đời chỉ cĩ những ơng chài, những thơn bản, những trẻ chăn trâu, những người ở đài cao, những người khách trọ cảnh ấm lạnh của cuộc đời. Làm gì cĩ những ngư ơng, những viễn phố, những mục tử, những cơ thơn, làm gì cĩ trang đài, người lữ... Từ Hán Việt đều đặt vào vị trí quyết định – vần cuối câu thơ – dễ gây tiếng vọng trong tâm hồn ta, kéo ta về cõi vĩnh viễn của ý niệm. Và nỗi u hồi của nhà thơ là nỗi u hồi của cái kiếp trước khơng biết đến tháng năm, thời đại. Đây là nghệ thuật lựa chọn từ ngữ rất cơng phu. Những từ đĩ là những tín hiệu thẩm mĩ, những mơ típ nghệ thuật gắn với phong cách Đường thi và trở thành nét đẹp truyền thống của thơ ca Việt Nam.
4. Sắc thái cổ
Một số từ Hán cổ quen dùng trong quá khứ đến bây giờ dùng lại gợi sắc thái cổ: tơn ơng, huynh ơng, phụ vương, ái phi, đồng mơn, đồng tuế...
Mơ tả những hình ảnh cổ kính của một triều đại đã qua với một tâm trạng nuối tiếc, trong bài thơ Thăng Long thành hồi cổ, bà huyện Thanh Quan đã sử dụng những từ Hán Việt một cách cĩ ý thức. Và việc xếp những từ này vào cuối dịng thơ càng in đậm những hình tượng ngưng đọng trong kí ức. Tất cả đưa đến cho ta cảm giác về một sự đổi thay của tạo hố:
Tạo hố gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bĩng tịch dương
Đá vẫn trơ hàn cùng tuế nguyệt
Nước cịn cau mặt với tang thương
Nghìn năm gương cũ soi thành cổ
Cảnh đấy người đây chốn đoạn trường
Nhà thơ Sĩng Hồng cũng dùng từ Hán Việt để gợi lại khơng khí cổ:
Đêm lạnh cành sương đượm
Long lanh bĩng nguyệt vờn
Tố Hữu khi nĩi về truyền thống cổ xưa của dân tộc cũng sử dụng từ Hán Việt:
Cảm ơn Đảng cho ta dịng sữa
Bốn nghìn năm chan chứa ân tình
Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn bạo chúa
Kiếp tì nơ vùng dậy chém nghê kình
Từ Hán Việt cĩ sắc thái cổ cịn thường được dùng trong thể loại kịch, tuồng. Khi viết về một sự kiện lịch sử, nhà văn thường dùng ngơn ngữ của thời kì lịch sử đĩ, nếu khơng, người xem cĩ thể thấy lạc điệu.
Các sắc thái ngữ nghĩa của từ Hán Việt cĩ sức mạnh tu từ nĩi trên chính là vì nĩ nằm trong thế đối lập với các từ thuần Việt. Hay nĩi một cách khác, chính sự đối lập với tiếng Việt là nguyên nhân làm cho nĩ cĩ sắc thái ngữ nghĩa hay tu từ mà nĩ vốn khơng cĩ khi ở trong tiếng Hán. Và sắc thái mới ấy chính là bằng chứng chắc chắn cho thầy rằng từ Hán Việt đã là một bộ phận hữu cơ của hệ thống từ vựng tiếng Việt
GIẢI NGHĨA TỪ HÁN - VIỆT
Hịa bình:
Hịa vốn cĩ nghĩa là thuật nấu ăn (gồm cĩ chữ hịa là lúa và khẩu là miệng) mà nghệ thuật nấu ăn là một loại triết học, là cách giải quyết mối mâu thuẫn giữa nước và lửa, giữa mặn, nhạt, chua, cay, đắng... sao cho các mặt mâu thuẫn ấy phối hợp với nhau một cách hợp lý nhất mà khơng cĩ mâu thuẫn nào bị loại bỏ. Ví như nấu cơm mà để nước át lửa thì cơm nhão, để lửa át nước thì cơm khê. Nấu thức ăn phải làm sao cho cay khơng loại chua, chát khơng loại đắng, ngọt khơng loại mặn... phải để cho các vị ấy phối hợp với nhau một cách lý tưởng nhất, các mặt mâu thuẫn ấy đều tồn tại mà khơng mất đi một vế nào cả. Cịn bình là giữ cho yên ổn, khơng làm rối loạn. Ví như ta bình giặc Ngơ là ta làm cho mất hẳn âm mưu xâm lược của giặc. Vậy hịa bình là tuỳ thời cơ dẹp đi mối mâu thuẫn sống cịn và đạt được sự hài hịa giữa các mâu thuẫn khác.
Cơ độc:
Cơ là đứa trẻ khơng cĩ cha hoặc mẹ, cĩ âm Việt hĩa cổ là cơi. Độc là người đàn ơng già khơng cĩ con. Sách Nhĩ nhã và sách Mạnh tử cĩ câu: “Đàn ơng già khơng cĩ vợ gọi là quan, đàn bà già khơng cĩ chồng gọi là quả (âm Việt hĩa là gĩa), trẻ con khơng cĩ cha mẹ gọi là cơ, đàn ơng già khơng con gọi là độc, đấy là bốn loại người khốn cùng trong xã hội.” Tại sao? Vì thời cổ ở Trung Hoa, dân chủ yếu sống bằng nơng nghiệp trong các tỉnh điền. Theo chế độ tỉnh điền thì cứ vài năm nhà nước chia ruộng cho dân một lần, mà chỉ chia cho đàn ơng trưởng thành, do vậy trẻ con và phụ nữ ở gĩa thì khơng cĩ ruộng, đàn ơng già khơng vợ khơng con thì tuy cĩ ruộng nhưng khơng cĩ sức lao động, do đĩ cơ độc đồng nghĩa với khơng cĩ nơi dựa dẫm.
Thao lược:
Thao là cái túi đựng tên bắn, lược là phương sách dụng binh. Thao lược cịn là cách gọi ghép các chữ lục thao tam lược. Lục thao là tên sách do Lã vọng đời Chu soạn, Trang tử hiệu đính gồm cĩ sáu cách đánh trận là văn thao, võ thao, hổ thao, long thao, báo thao và khuyển thao. Tam lược là sách do Hồng Thạch Cơng soạn cho Trương Lương đời Hán, gồm cĩ ba lược là ba phép dụng binh. Về sau thao lược được dùng để chỉ người cĩ tài dùng quân.
Phù phiếm:
Phù là nổi trên mặt nước và đứng tại chỗ. Phiếm là nổi trên mặt nước và trơi đi, trơi lại. Cả từ phù phiếm chỉ sự vật hay tính cách nổi và nơng cạn, khơng cĩ căn nguyên gốc rễ vững vàng.
Hy sinh:
Tên gọi các con vật được chọn để tế thần linh thời cổ ở Trung Hoa, thường là trâu, bị, dê, lợn, gà... được dùng tế sống hay cắt lấy tiết để tế, lúc này con vật tế được gọi là con hy và con sinh.
Xã đàn:
Đàn đắp cao để tế thổ thần, cầu cho dân được ở yên. Xưa lập quốc trước nhất phải lập đàn thờ thần xã (thổ thần, chữ xã gồm bộ kỳ chỉ sự thờ cúng và chữ thổ chỉ thần đất) và đàn thờ thần tắc (tắc là Hậu Tắc, tên của thần nơng) nhằm cầu cho dân được lạc nghiệp vì thời cổ dân sống chủ yếu nhờ nơng nghiệp. Từ đĩ người ta dùng xã tắc để chỉ quốc gia, đất nước.
Tơ hào:Đáng lẽ phải gọi là ti hào, vì tơ là âm cổ của ti, cĩ nghĩa là sợi tơ, một loại sợi rất nhỏ. Cịn hào là sợi lơng nhỏ chạy ngang thành hàng trong cái lơng chim vào mùa thu, mùa chim mới mọc lơng. Tơ hào đều chỉ những vật nhỏ bé nên cĩ nghĩa như chút xíu, mảy may.
Tổ chức:Tổ là xếp các đầu dây dọc lại với nhau. Chức là dùng các sợi dây ngang đan kết với các sợi dây dọc lại thành một mạng lưới thống nhất. Tổ chức cĩ nghĩa là sự kết hợp của những tế bào trong một vật thể, cịn được dùng như một động từ.
Ảnh hưởng:Ảnh là cái bĩng của một sự vật. Hưởng là tiếng vang của một vật thể khi bị gõ, bị cọ xát trong khơng khí, từ đĩ ảnh hưởng được dùng để chỉ chung tác động của một sự vật hay một sự việc tới một sự vật hay sự việc khác.
Táo quân:Táo quân là gọi tắt nhĩm từ đơng trù tư mệnh táo chủ thần quân, tục gọi là vua bếp. Thường đặt ở phía đơng của nhà, là một trong ngữ tự gia đường tơn thần (năm vị thần được thờ trong nhà). Một là ở cổng nhà, hai là ở lối đi từ cổng vào nhà, ba là cửa chính vào nhà, bốn là phịng chính của nhà nơi đặt bàn thờ, năm là bếp (táo). Táo quân cĩ nhiệm vụ hàng năm vào ngày 23 tháng chạp lên thiên đình báo cáo việc trong năm ở dưới trần.
Tinh vi:Tinh là gạo được giã kỹ lấy chất lõi ở trong (chữ tinh cĩ bộ mễ chỉ gạo) xưa được quan niệm là cái quý nhất của hạt gạo. Trong sách Luận ngữ cĩ câu nĩi của Khổng tử: “Dư thực bất yếm tinh” (Ta ăn gạo giã kỹ khơng bao giờ chán). Cịn vi là vật hay sợi rất nhỏ nhoi. Tinh thì tốt cịn vi thì quá tủn mủn và thường là xấu. Ví như văn thơ đời Tấn thường bỏ hàng mấy trang sách để mơ tả làn da má của phụ nữ (mỏng và mịn đến mức giĩ thổi mạnh thì rách) hay cặp lơng mi của người đẹp như thể là vi. Cũng vì thế mà ở tiếng Hán cổ vi cịn cĩ nghĩa là vơ hay phi (khơng cĩ gì).
Hương cống:Ta gọi là ơng cống, chỉ người học chữ Nho ngày xưa đi thi hương đỗ cả bốn trường (bốn bài thi), đời Nguyễn gọi là cử nhân. Thi hương cĩ bốn kỳ, nếu chỉ đỗ ba kỳ thì gọi là tam trường hay ơng tú, nếu lần thi sau cũng chỉ đỗ ba kỳ thì gọi là tú kép, lần sau nữa cũng chỉ đỗ ba kỳ thì gọi là tú mền, lần sau nữa cũng chỉ đỗ ba kỳ thì gọi là tú đụp.
Tang thương:Tang là cây dâu, thương là màu xanh của biển. Tang thương gọi tắt từ câu “thương hải biến vu tang điền” (biển xanh biến thành ruộng dâu). Ý chỉ cảnh biến đổi của cuộc sống từ đĩ cũng cĩ ý chỉ sự biến đổi của cuộc đời con người. Tiếng Việt chỉ dùng tang thương để chỉ sự thay đổi xấu đi.
Tố nữ:Tố là sợi cịn chưa nhuộm, cịn giữ nguyên màu trắng. Nữ là con gái. Tố nữ cĩ nghĩa là người con gái cịn trình bạch, cịn trong trắng, tức là người con gái chưa cĩ chồng. Sách giáo khoa giải thích tố nữ là người con gái đẹp là khơng đúng.
Mơn đăng hậu đối:Đây là cách nĩi sai. Đúng ra phải là mơn đang (hoặc đương) hộ đối. Mơn và hộ đều cĩ nghĩa là cái cổng hay cửa nhà. Ở phương Tây cũng như phương Đơng xưa, cổng (và cả xe ngựa) đều cĩ gắn gia huy (dấu hiệu riêng của gia tộc) thể hiện vị trí, địa vị của một dịng họ. Đương và đối là xứng đơi, sánh đơi với nhau trong quan hệ thơng gia.
Hàn huyên:Hàn là lạnh, huyên là ấm. Xưa trong gia đình trước khi đi ngủ con cái phải hỏi thăm xem cha mẹ cĩ lạnh khơng. Khi ngủ dậy lại phải hỏi thăm cha mẹ xem đêm ngủ cĩ được ấm khơng. Do đĩ, hàn huyên là lời hỏi thăm nhau giữa những người thân, nghĩa cũng như hàn ơn.
Đao phủ:Đao là dao, phủ là búa. Hai dụng cụ dùng để chặt đầu những người cĩ tội xưa. Người cĩ tội phải đặt đầu mình lên một cái thớt bằng gốc cây và bị dao hay búa chặt đầu rời khỏi mình. Người thi hành cơng việc này vì thế cũng được gọi là đao phủ.
Bao biện:Bao là ơm lấy một mình. Biện là làm hay giải quyết cơng việc. Bao biện là khơng hỏi ý kiến mọi người hoặc khơng phải cơng việc của mình cứ ơm lấy mà làm. Nhiều người hiện nay hiểu bao biện là bao che, biện hộ cho người khác là sai.
Xuân huyên:Xuân là loại cây cao to lá màu hồng, xum xuê cĩ hương thơm, ăn được, xưa thường được dùng để tượng trưng cho người cha trong gia đình. Huyên là loại cây nhỏ giống như cây xương bồ nhưng hẹp và mềm hơn, hoa giống hoa bách hợp, cịn cĩ tên là “vong ưu thảo” (cây cỏ làm quên mọi sự lo buồn), thường trồng ở phía buồng người mẹ, cĩ ý cho mẹ khỏi lo buồn. Vì vậy xuân huyên là chỉ chung cha mẹ.
Tần tảo:Tần và tảo đều là hai loại rau nước, kém ngon và rẻ tiền, dễ kiếm. Xưa phụ nữ nhà nghèo, quen kham khổ thường ăn các rau này, vì thế người ta dùng hai chữ tần tảo để chỉ người vợ hiền, chịu thương, chịu khĩ ăn thứ khơng ngon để tằn tiện nuơi chồng, nuơi con.
Trừ tịch:Trừ cĩ nhiều nghĩa, trong đĩ cĩ nghĩa là năm cũ chuyển sang năm mới (theo Khang Hy tự điển). Tịch là khoảng thời gian từ giờ tuất (7 đến 9 giờ tối) cho đến sáng hơm sau. Vậy trừ tịch chỉ đêm 30 tháng chạp âm lịch.
Giao thừa:Giao là chuyển một vật, một người, một thời gian nào đĩ cho một khách thể. Thừa là nhận một vật, một người, một thời gian nào đĩ của chủ thể chuyển giao. Ở đây giao thừa cĩ nghĩa là lúc năm cũ chuyển giao sang năm mới
Gia thất :Gia là nhà, thất là buồng. Kinh Lễ cĩ câu “Nam chi hữu thất, nữ chi hữu gia” nghĩa là: đàn ơng cĩ buồng (để vợ ở), đàn bà cĩ nhà (nơi mình về, chỉ nhà chồng). Vì vậy vợ chồng lấy nhau gọi là yên bề gia thất. Ở nước ta, chữ gia thất cịn dịch là nhà như “nhà ơi!” để vợ chồng gọi nhau hoặc “nhà tơi” để xưng hơ với người khác. Cịn chữ “mình” lại xuất phát từ thần thoại châu Âu: Xưa, một vị thần thấy các cặp vợ chồng khơng được “cơm lành canh ngọt” bèn chặt mọi người ra làm đơi để các nửa người đi tìm nửa kia của mình mà lắp. Nhưng nĩi chung đa số đều lắp nhầm, nên cứ đi lang thang để gọi “mình ơi! mình ơi!” và gọi người mình yêu là một nửa của tơi.
Giá thú:Giá là con gái về nhà chồng (gồm chữ nữ là con gái và chữ gia là nhà, chữ này cĩ âm Việt hĩa là gả); thú là đàn ơng lấy vợ (gồm chữ thủ là lấy và chữ nữ là đàn bà).
Hơn nhân:Hơn là nhà trai thơng gia với nhà gái; nhân là nhà gái thơng gia với nhà trai.
Nam nữ thụ thụ bất thân :Nam nữ là trai và gái; thụ1 là trao một vật gì đĩ, thụ2 là nhận một vật gì đĩ, bất thân là khơng được gần nhau. Cả câu nghĩa là nam nữ khơng được đưa vật trực tiếp cho nhau. Kinh Lễ cĩ câu “Trí chi nhi hậu thủ chi” nghĩa là nam (hay nữ) đặt một vật xuống (rồi bỏ đi), người kia đến mà nhặt lấy.
Tang bồng :Tang là cây dâu. Xưa thường dùng gỗ cây dâu để làm cung bắn; Bồng là cỏ bồng, một thứ cỏ thẳng mà cứng, thường dùng làm tên bắn. Xưa người Hán khi sinh con trai thường treo một cái cung ngồi cửa, tỏ ý muốn con sau này tung hồnh trời đất, thỏa chí tang bồng.
Gươm đàn :Gươm đàn là từ Việt dịch từ từ Hán Việt: Kiếm cung. Gươm là âm Việt hĩa của từ kiếm (cũng như gương là từ Việt hĩa của kính, gắng và gượng là từ Việt hĩa của cưỡng. Gố là từ Việt hĩa của quả. Gần là từ Việt hĩa của cận. Đàn là từ Hán Việt, là một thứ cung khơng bắn bằng tên mà bắn bằng đá mài trịn hay đất sét viên trịn rồi nung kỹ. Các viên đĩ sau này cĩ âm là đạn. Trong truyện Kiều cĩ câu tả về Từ Hải như sau: “Gươm đàn nửa gánh, non sơng một chèo” là mượn từ câu nĩi của Hồng Sào, lãnh tụ khởi nghĩa nơng dân đời Đường: “Bán kiên cung kiếm bằng thiên túng / Nhất trạo giang sơn vãn địa duy”. Nghĩa là: nửa vai cung kiếm tung hồnh trời đất, một chèo giang sơn kéo lệch đất trời. Trong các bản dịch sang tiếng Pháp, các dịch giả dịch từ đàn thành guitare là khơng đúng.
Điếm nhục (như trong điếm nhục gia phong) :Điếm là vết bẩn, vết xước trên viên ngọc (chữ điếm cĩ bộ ngọc), nhục là dơ bẩn, cĩ âm cổ là nhuốc (như vụ cĩ âm cổ là mùa, vũ cĩ âm cổ là múa, chủ cĩ âm cổ là chúa, chú (chú thích) cĩ âm cổ là chua). Điếm nhục là làm dơ bẩn.
Học trị :Vốn cĩ âm Hán Việt là học đồ (người theo thầy học chữ). Trước thế kỷ XVII cĩ một số từ âm đầu đ trong tiếng Hán do ảnh hưởng tiếng Việt cổ mà đọc thành tl (như ghi trong từ điển Việt - Bồ - Latinh của A.de Rodes) nên học đồ đọc thành học tlị. Cuối thế kỷ XVII, âm tl trong tiếng Việt biến đổi thành tr nên học tlị biến thành học trị.
Lãnh tụ :Lãnh là cổ áo. Tụ là tay áo. Áo ngày xưa khuơn khổ dài ngắn, rộng hẹp đều phụ thuộc vào cổ và tay, nghĩa là cổ, tay quyết định khuơn khổ của áo. Do đĩ, người ta dùng lãnh tụ để chỉ người quyết định mọi phép tắc, đường lối.
Tao khang :Tao là cám. Khang là bã. Tao khang chỉ người cùng mình chịu cảnh khốn khĩ cùng ăn cám bã với nhau, thường chỉ người vợ hiền. Người Hán cĩ câu: “Tao khang chi thê bất khả vong, bần tiện chi giao bất khả phụ”. Nghĩa là: người vợ cùng cảnh ăn cám bã với mình khơng bao giờ được quên, người bạn thuở nghèo hèn với mình khơng bao giờ được phụ bạc họ.
Ngậm tăm :Ngậm tăm mượn từ chữ hàm mai trong tiếng Hán. Hàm là ngậm trên miệng. Mai là tre vĩt nhỏ tựa cái tăm to. Người Trung Hoa xưa khi cho quân đội hành quân đêm, để giữ bí mật, bèn phát cho mỗi người lính một cái que tăm bắt ngậm vào miệng để khỏi nĩi, sáng ra hay khi đến nơi, viên quản quân kiểm tra thấy người lính nào khơng cĩ tăm trên miệng thì sẽ đem chém đầu. Do đĩ ngậm tăn cĩ nghĩa là khơng nĩi.
Đoạn trường :Đoạn là đứt. Trường là ruột, chỉ sự đau đớn tuyệt độ. Theo Cổ học tinh hoa: Xưa cĩ con chĩ sĩi bị người đi săn bắn chết mất con nên đau đớn gào khĩc thảm thiết, bỏ cả ăn uống, sau một thời gian thì kiệt sức mà chết. Người ta đem nĩ mổ bụng thì thấy ruột gan nĩ đứt thành từng đoạn.
Giải quyết :Giải là cởi các nút đang bị thắt (cời là âm cổ của giải). Quyết là vét chỗ nước đọng làm cản bước đi. Vì vậy giải quyết chỉ việc xử lý những gì đang cịn vướng mắc.
Sách :Sách vốn là những thanh tre dùng dao khắc hoặc bút sơn viết lên cật rồi đục thủng một đầu, dùng dây xâu lại với nhau. Loại sách này cĩ từ thời Chiến quốc. Đời Tần, vua Tần Thuỷ Hồng mỗi ngày phải đọc hàng tạ sách như vậy.
Vở :Là âm Việt hĩa của từ Hán Việt bạ như trong y bạ, địa bạ, trước bạ.v.v... chỉ cuốn sổ ghi chép các sự việc.
Tri thức :Từ này xuất hiện đầu tiên ở sách Quản tử thời Xuân Thu chiến quốc với nghĩa: quen biết nhau. (Tri: biết; thức: nhận được nhau). Đến thời Minh, Thanh mới cĩ nghĩa: sự nhận thức của con người đối với sự vật và kinh nghiệm mà con người tích luỹ được qua thực tiễn xã hội.
Cơng chứng :Cơng chứng là gọi tắt từ bỉnh cơng chất chứng. Bỉnh cơng là nắm quyền và thay mặt nhà nước. Chất chứng là tra xét và chứng thực sự việc và giấy tờ là đúng.
Lưu chiểu: Từ này dùng sai, đúng ra là lưu chiếu nghĩa là lưu giữ để làm bằng khi cần đối chiếu, tra xét.
Trọng thị :Trọng thị là coi trọng trong lịng về mặt tâm lý. Nĩi ơng A đã được nước B đĩn tiếp một cách trọng thị là khơng thuận tai. Ta nĩi được đĩn tiếp một cách long trọng hay trọng thể thì đúng hơn, vì sự đĩn tiếp này được thể hiện bằng các hình thức bên ngồi như cờ quạt, quốc ca, hàng rào danh dự, thảm đỏ, quân nhạc v.v...
Văn :Văn nghĩa nguyên thuỷ là đường vằn (hoa văn) như các vằn trên mình lồi hổ báo. Vì vằn là cái biểu hiện bên ngồi của con vật hay sự vật nên nĩ lại cĩ nghĩa là hình thức. Cịn nội dung bên trong được gọi là chất. Sách Luận ngữ cĩ câu: “Văn chất bàn bàn nhiên hậu quân tử” nghĩa là cả hình thức bên ngồi và nội dung bên trong đều đẹp rờ rỡ mới là bậc quân tử. Đến đời Lương ở Trung Quốc, thái tử Chiêu Minh là Tiêu Thống mới đem tất cả các sách vở trước đĩ chọn lấy những bài cĩ cảm xúc và hình thức tươi đẹp thành bộ Văn tuyển thì từ đĩ văn chương hay văn học mới được tách ra khỏi giai đoạn văn - sử - triết bất phân mà thành một mơn riêng.
Kết hơn :Chỉ tục thơng gia giữa hai họ với nhau. Thời Tây Chu (Trung Quốc) quy định nam 30 tuổi lấy vợ (khí huyết đầy đủ), nữ 20 tuổi lấy chồng (đủ tuổi làm mẹ). Thời Xuân Thu, Tề Hồn Cơng quy định nam 30 tuổi lập gia đình, nữ 15 tuổi xuất giá. Việt Vương Câu Tiễn quy định nam dưới 20 tuổi chưa được kết hơn, nữ dưới 17 tuổi chưa được xuất giá. Đời nhà Đường quy định lệ giống Tề Hồn Cơng. Nhưng giữa đời Đường, do chiến tranh kéo dài, dân số thiếu hụt nên quy định nam 15 tuổi, nữ 13 tuổi phải kết hơn nếu khơng sẽ bị quan phủ xử phạt. Sau giải phĩng, chính phủ Trung Quốc quy định nam trước 22 tuổi, nữ trước 20 tuổi khơng được phép kết hơn.
File đính kèm:
- Giai nghia mot so tu Han Viet.doc