Sáng kiến kinh nghiệm Một cách “đọc – hiểu văn bản” trong bài học ngữ văn 8

Hiện nay việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy đã và đang được các thầy cô thực hiện đồng bộ. Mặc dù còn có rất nhiều ý kiến về việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy, song từ những trải nghiệm thực tế, chúng ta có thể khẳng định rằng việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy đã giúp các em tiếp xúc được nhiều tác phẩm hay, mới lạ, cập nhật vơí cuộc sống. Không những thế, đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học môn ngữ văn nói riêng giúp các em biết tư duy sáng tạo, biết phát hiện vấn đề, biết nói lên những suy nghĩ, cảm nhận của riêng mình. Mỗi giờ học văn là một niềm vui bất ngờ đối với các em, các em chủ động học tập hơn trước nhiều. Nhiều hình thức học tập ngoài giờ chính khoá đã được tổ chức, giáo viên đã quen dần với lối dạy theo nguyên tắc tích cực, đã có nhiều sáng kiến trong việc phát huy tính tích cực trong mọi khâu của hoạt động dạy học.

Qua những năm thực hiện chương trình thay sách và đổi mới phương pháp daỵ học nói chung và môn Ngữ Văn nói riêng, tôi đã được dự nhiều giờ, song điều tôi còn băn khoăn là một số thầy cô vẫn thuyết trình nhiều, việc cung cấp kiến thức đôi khi còn mang tính chất áp đặt, đặc biệt ở khâu “đọc – hiểu văn bản”. Tôi thiết nghĩ có nhiều cách để phát huy tính tích cực của học sinh như thực hiện thật tốt, thật sáng tạo nguyên tắc tích hợp vì theo giáo sư Nguyễn Khắc Phi khẳng định “ xét về bản chất của việc vận dụng triệt để nguyên tắc ấy không cho phép dạy học theo kiểu máy móc rập khuôn, nhồi sọ mà luôn luôn đòi hỏi sự năng động, sự vận dụng linh hoạt sáng tạo của người thầy”.

Chính vì vậy, tôi mạnh dạn đưa ra ý kiến của phương châm tích hợp trong quá trình ứng dụng đó là: “Một cách “đọc – hiểu văn bản” trong bài học ngữ văn 8”.

 

doc25 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2109 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Một cách “đọc – hiểu văn bản” trong bài học ngữ văn 8, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phòng giáo duc và đào tạo huyện Yên Lập Trường thcs Phúc Khánh *****@***** Sáng kiến kinh nghiệm Người thực hiện: Đơn vị công tác: Năm học: 2009 – 2010 Một cách “đọc hiểu văn bản” trong bàI ngữ văn 8 I. Đặt vấn đề. Hiện nay việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy đã và đang được các thầy cô thực hiện đồng bộ. Mặc dù còn có rất nhiều ý kiến về việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy, song từ những trải nghiệm thực tế, chúng ta có thể khẳng định rằng việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy đã giúp các em tiếp xúc được nhiều tác phẩm hay, mới lạ, cập nhật vơí cuộc sống. Không những thế, đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học môn ngữ văn nói riêng giúp các em biết tư duy sáng tạo, biết phát hiện vấn đề, biết nói lên những suy nghĩ, cảm nhận của riêng mình. Mỗi giờ học văn là một niềm vui bất ngờ đối với các em, các em chủ động học tập hơn trước nhiều. Nhiều hình thức học tập ngoài giờ chính khoá đã được tổ chức, giáo viên đã quen dần với lối dạy theo nguyên tắc tích cực, đã có nhiều sáng kiến trong việc phát huy tính tích cực trong mọi khâu của hoạt động dạy học. Qua những năm thực hiện chương trình thay sách và đổi mới phương pháp daỵ học nói chung và môn Ngữ Văn nói riêng, tôi đã được dự nhiều giờ, song điều tôi còn băn khoăn là một số thầy cô vẫn thuyết trình nhiều, việc cung cấp kiến thức đôi khi còn mang tính chất áp đặt, đặc biệt ở khâu “đọc – hiểu văn bản”. Tôi thiết nghĩ có nhiều cách để phát huy tính tích cực của học sinh như thực hiện thật tốt, thật sáng tạo nguyên tắc tích hợp vì theo giáo sư Nguyễn Khắc Phi khẳng định “… xét về bản chất của việc vận dụng triệt để nguyên tắc ấy không cho phép dạy học theo kiểu máy móc rập khuôn, nhồi sọ mà luôn luôn đòi hỏi sự năng động, sự vận dụng linh hoạt sáng tạo của người thầy”. Chính vì vậy, tôi mạnh dạn đưa ra ý kiến của phương châm tích hợp trong quá trình ứng dụng đó là: “Một cách “đọc – hiểu văn bản” trong bài học ngữ văn 8”. II. Cơ sở lý luận. Phải nói rằng, lứa tuổi học sinh THCS đặc điểm tâm sinh lý hết sức điển hình. Đây là thời kỳ quá độ chuyển từ giai đoạn trẻ em sang người lớn. Trong giai đoạn này hứng thú của các em đã phát triển ở mức độ cao, hứng thú về học tập đã phát triển và ngày càng đậm nét. Đây là một đặc điểm hết sức thuận lợi đối với việc giảng dạy bộ môn Văn. Việc tò mò thích thú môn văn không phải là khoảng cách xa đối với các em. Bên cạnh đó ý thức tư lập và khả năng đào sâu khám phá những nét đẹp trong cuộc sống là một ưu điểm điển hình của học sinh bậc THCS. Song song với những ưu điểm trên, một số em còn rụt rè e ngại, đôi lúc còn nản chí, nản lòng khi tiếp cận với một văn bản khó. Vậy làm thế nào để khắc phục khó khăn đó? Làm thế nào để tiết dạy học môn Ngữ Văn thật sự có hiệu quả để thu hút học sinh say mê học tập? Như chúng ta đã biết, văn học xuất phát từ đời sống, chính vì thế văn học rất gần gũi với mọi người. Những bài thơ hay, những văn bản hấp dẫn đã giúp cho giờ văn không chỉ là giờ học mà còn là những giờ giải trí, khám phá biết bao điều kỳ diệu của cuộc sống con người. Để có giờ văn như thế thì khâu “đọc – hiểu văn bản” là rất quan trọng đòi hỏi người thầy chủ động, sáng tạo và linh hoạt khi thiết kế bàI giảng. III.Cơ sở thực tiễn Như chúng ta đã biết “văn học là nhân học”, “văn học là nghệ thuật của ngôn từ”. Chính vì vậy việc học văn không phải là đơn giản, hơn nữa trong thời đại hiện nay, môn ngữ văn không còn là “điểm đến” hấp dẫn với các em học sinh như các môn Toán, Lý, Hoá, Anh … mặc dù đó là một trong 2 môn chính chiếm số lượng tiết không nhỏ. Có nhiều học sinh rất ngại học môn Văn bởi lý do là Văn viết dài, khó học, khó thuộc. Có những tác phẩm tự sự dài học sinh lười không đọc hết dẫn tời tình trạng mơ màng về nội dung, cốt truyện, nhân vật. Có những bài thơ khi học xong học sinh không nắm được những nghệ thuật tiêu biểu, nội dung của bài thơ. Những lý do trên khiến tâm lý học sinh ngại và chán học môn Văn. Vậy làm thế nào để khắc phục khó khăn đó? Làm thế nào để tiết dạy học môn Ngữ Văn thật sự có hiệu quả để thu hút học sinh say mê học tập? Như chúng ta đã biết, văn học xuất phát từ đời sống, chính vì thế văn học rất gần gũi với mọi người. Những bài thơ hay, những văn bản hấp dẫn đã giúp cho giờ văn không chỉ là giờ học mà còn là những giờ giải trí, khám phá biết bao điều kỳ diệu của cuộc sống con người. Để có giờ văn như thế thì khâu “đọc – hiểu văn bản” là rất quan trọng đòi hỏi người thầy chủ động, sáng tạo và linh hoạt khi thiết kế bàI giảng. IV. Các giảI pháp Như chúng ta đã biết, trong ba phân môn của ngữ văn thì tác phẩm văn học chiếm vị trí quan trọng. Trong sách giáo khoa phần Văn học được biểu hiện bằng các văn bản. Khi học tập học sinh phải “đọc – hiểu văn bản”. Vậy “đọc - hiểu văn bản” là gì? Khái niệm “đọc - hiểu văn bản” không diến tả hành động tách rời đọc và hiểu. “Đọc - hiểu văn bản” là hoạt động đọc văn một cách nghiêm túc có nghiền ngẫm, cảm xúc, tưởng tưởng và liên tưởng. Bản chất đọc – hiểu là tìm hiểu phân tích để chiếm lĩnh văn bản bằng nhiều phương pháp và hình thức dạy học văn, trong đó phương pháp dạy học văn bằng hệ thống câu hỏi cảm thụ văn bản được thực hiện dưới hình thức đối thoại sẽ là hình thức và phương pháp chủ đạo. Các tác giả trong Ngữ Văn 6 tập một sách giáo viên đã lý giảI như sau “ khả năng đọc – hiểu (bao gồm cả cảm thụ) một tác phẩm văn chương lệ thuộc không ít vào việc có thể trả lời được hay không những câu hỏi đặt ra ở những cấp độ khác nhau. Mức thấp nhất là chỉ cần sử dụng những thông tin có ngay trong văn bản. Đó là trường hợp câu trả lời sẵn có trong bài chỉ mới biết đọc trên dòng. Mức cao hơn là buộc phải suy nghĩ và sử dụng những thông tin trong bài. Đó là trường hợp phải suy nghĩ ra câu trả lời, là trình độ đã biết đọc giữa dòng. Cao hơn là yêu cầu khái quát, liên hệ giữa những cái mà học sinh đã đọc với thế giới bên ngoài đó là trình độ vượt ra khỏi dòng để đọc văn bản. Khám phá văn bản theo hướng ấy thì học sinh khôn chỉ hứng thú hiểu sâu văn bản mà còn liên hệ được một cách sinh động tự nhiên với những vấn đề trong cuộc sống. Như vậy “đọc - hiểu văn bản” đòi hỏi người phải có thái độ chủ động tích cực và sáng tạo trong đọc văn. Các văn bản được học trong chương trình Ngữ Văn 8 bao gồm: 1.Một số truyện Việt Nam 1930 – 1945 - Tôi đi học (Thanh Tịnh) - Trong lòng mẹ (trích “Những ngày thơ ấu” – Nguyên Hồng) 2.Một số truyện nước ngoài - Cô bé bán diêm (An - đéc – xen) - Đánh nhau với cối xay gió (trích “Đôn-ki-hô tê” – Xéc-van-téc) - Chiếc lá cuối cùng (OHen-ri) Hai cây phong (Ai-man-tốp) 3.Một số văn bản thơ trữ tình giàu yếu tố biểu cảm. - Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông (Phan Bội Châu) - Đập đá ở Côn Lôn (Phan Châu trinh) - Muốn làm thằng cuội (Tản Đà) - Ông Đồ (Vũ Đình Liên) - Hai chữ nước nhà (á Nam Trần Tuấn Khải) - Nhớ rừng (Thế Lữ) - Quê hương (Tế Hanh) - Khi con tú hú (Tố Hữu) - Tức cảnh Pác Bó, ngắm trăng (Hồ Chí Minh) 4. Một số tác phẩm nghị luận - Chiếu dời đô (Lý Công Uẩn) - Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn) - Nước Đại Việt (Nguyễn Trãi) - Bàn luận về phép học (Nguyễn Thiếp) - Thuế máu (Hồ Chí Minh) - Đi bộ ngao du 5.Một số đoạn trích kịch: Ông Guốc-danh mặc lễ phục 6.Một số văn bản nhật dụng: Thông tin về trái đất năm 2000. Ôn dịch thuốc lá, giáo dục chìa khoá trong tương lai. Với các loại văn bản trên, kỹ năng “đọc - hiểu văn bản” cần đạt tới mức độ sau: 1.Biết đọc thầm, đọc thành tiếng có diễn cảm. 2. Biết chọn đọc hững đoạn văn bản có minh họa cho các nhiệm vụ học tập một cách chính xác, tốc độ vừa phải, đúng với nội dung văn bản. 3. Biết đọc nhanh các đoạn văn bản, ngữ liệu có những cách dùng từ ngữ và cấu trúc câu phức tạp với năng lực phán đoán ngôn ngữ nhanh nhạy. 4. Biết đặt câu hỏi cho mình hoặc cho người khác để hiểu mục đích văn bản và các yêu cầu của nội dung học tập. 5. Biết tóm tắt, chia đoạn, xác định chủ đề, mối liên hệ giữa các phần trong văn bản và biết đặt tên cho đoạn văn 6. Biết nhận ra các câu văn, đoạn văn hay, có nội dung sâu sắc và hiểu được nghĩa, vai trò và tác dụng của cac từ ngữ, câu then chốt, các biện pháp nghệ thuạt trong đoạn văn đó. 7. Nhớ chính xác một số câu, đoạn và văn bản hay, thơ hay biết bình giá chi tiết nghệ thuật trong các văn bản. 8. Đọc và hiểu được các phương thức biểu đạt khác nhau và đặc điểm thể loại, thái độ, tình cảm và tư tưởng của tác giả. 9. Xác định được các hệ thống luận điểm và tuyến lập luận trong các văn bản qua việc tổng kết các tác phẩm tự sự, trữ tình, nghị luận, nhật dụng và sự kết hợp các phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, lập luận, thuyết minh trong một số tác phẩm qua việc hệ thống hoá các khái niệm: Loại, thể loại, đặc điểm của truyện ngắn, tiểu thuyết và thể hiện đại. Như vậy "Đọc - Hiểu văn bản" đã thực hiện phương châm tích hợp. HS vận dụng được kỹ năng, hiểu bíêt về một phân môn này vào việc học tập phân môn khác. Trong thực tế, rất hiếm những văn bản chỉ dùng một phương thức biểu đạt mà một trong những trọng tâm của phần tập làm văn là dạy cho học sinh biết phân tích, biết thực hiện sự kết hợp các phương thức ấy. Chính điều đó đã tạo ra một trường tích hợp vô cùng rộng lớn. Các câu hướng dẫn "Đọc - Hiểu văn bản" trong SGK đã tạo ra cơ chế cho sự tích hợp ấy. Điều quan trọng là giáo viên cần thực sự năng động, biết vận dụng linh hoạt và khi cần vẫn có thể tạo ra những tình huống tích hợp mới. Việc đọc hiểu, phân tích, bình giá các loại văn bản sẽ giúp HS có điều kiện tốt hơn các nội dung làm văn tự sự, thuyết minh và nghị luận. Hoạt động "Đọc - Hiểu văn bản" giúp HS qua việc đọc đúng sẽ cảm nhận và hiểu đúng những thông tin, hiển ngôn và hàm ngôn trong văn bản. Nếu quan niệm văn bản là sự tổng hợp của 3 cấu trúc: Cấu trúc ngôn ngữ, cấu trúc hình tượng và cấu trúc ý nghĩa thì đối với HS lớp 8 thực hiện tốt hoạt động "Đọc - Hiểu văn bản" có nghĩa là HS phải nắm và lý giải được mối liên hệ của 3 lớp cấu trúc này không chỉ trên phương diện của từ ngữ, câu chữ, nhịp điệu mà còn hiểu được giá trị iểu đạt và biểu cảm của ngôn từ như là phương tiên để thể hiện hình tượng nghệ thuật, hiểu được những quan điểm, tư tưởng về con người, về thời đại, về ý tưởng giáo dục của tác giả gửi gắm trong văn bản Đối với một số tryện nước ngoài trong SGK ngữ văn 8 thì đó là những văn bản tự sự tiêu biểu có lối kể chuyện hấp dẫn, nội dung giàu tính nhân đạo. các văn bản này được học song song với các nội dung làm văn, đoạn văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm cũng là do dụng ý dạy tích hơp của các tác giả nhằm giúp HS có cái nhìn toàn diện hơn về sự biến hoá của tự sự cũng như sự đan xen các yếu tố miêu tả, biểu cảm... trong văn tự sự. ở đó có sự độc đáo về cách tạo dựng tình huống truyện, cách sắp xếp tình tiết, trình tự kể, cách khắc hoạ nhân vật, cách chọn ngôi kể, lời kể.... trong giáo án mới, hoạt động "Đọc - Hiểu văn bản" có thể được tiến hành tuần tự theo 3 hướng nhằm vào các nội dung của văn bản, đó là - Đọc hiểu cấu trúc văn bản - Đọc - Hiểu nội dung văn bản - Đọc-hiểu ý nghỉa văn bản 1-Hoạt động đọc-hiểu cấu trúc văn bản Đây là hoạt động tiếp nhận các dấu hiệu cơ bảnvề thể loại của văn bản. mỗi văn bản được tạo ra chủ yếu từ một phương thức biểu đạt nào đó tương ứng với các phương thứcphản ánh bằng nghệ thuật như tự sự hoặc trữ tình .Đồng thời mỗi văn bản tồn tại trong một kiểu dáng thể nào đó như truyện, ký , thơ.... Loại hình của văn bản quy định tính chất nội dung của văn bản, trong khi thể của nó quy định tính chất hình thức của văn bản. Từ đó tính chất của hoạt động "Đọc - Hiểu văn bản" sẽ được quy đinh theo nguyên tắc: Đọc - Hiểu văn bản phù hợp cvới đặc điểm của thể loại văn bản. điều đó cũng đồng nghĩa với việc "Đọc - Hiểu văn bản" ở mỗi thể loại khác nhau. ở văn bản tự sự, đọc để nắm chắc chuỗi các sự việc sung quanh nhân vật để từ đó đánh giá tính chất xã hội của sự việc và nhân vật. ở văn bản trữ tình- Biểu cảm thì đọc để đồng cảm với nỗi niềm của con người. Còn trong văn bản nghị luận thì đọc để nắm bắt các tư tưởng của tác giả qua hệ thống luận điểm, luận cứ. Chính vì vậy "Đọc - Hiểu cấu trúc văn bản" được coi là khởi điểm của quá trình "Đọc - Hiểu văn bản", nó sẽ tạo cơ hội tích hợp rõ rệt giữa văn, tập làm văn, mở luồng mạch cho hoạt động, tìm hiểu sâu văn bản đồng thời rèn luyện kiến thức và kỹ năng nhận biết các kiểu loại văn bản. 2. Hoạt động: Đọc - hiểu nội dung văn bản Đây là hoạt động đi sau vào văn bản nhằm phát hiện, phân tích, đánh giá văn bản từ các chi tiết nổi bật. Nội dung văn bản bao gồm nội dung đời sống và hình thức thể hiện. nội dung của các tác phẩm văn học không chỉ đơn thuần là nội dung đời sống mà là đời sống được tổ chức trong các tác phẩm theo những cách thức của nghệ thuật ngôn từ. cái chết khủng khiếp và đau thương của một lão nông nghèo hiện lên thật sinh động và cảm động trong lời văn miêu tả tỉ mỉ với vô số từ láy, từ tượng hình và từ tượng thanh ở phần kết truyện "Lão Hạc" của Nam Cao. Không có nội dung nào nằm ngoài hình thức của tác phẩm. Như vậy thực chất của việc đọc hiểu nội dung văn bản là sự phát hiện phân tích chiếm lĩnh các thành phần nội dung văn bản trong các dấu hiệu hình thức của nó 3. Hoạt động đọc - hiểu ý nghĩa văn bản là hoạt động cuối cùng của một quá trình đọc hiểu văn bản. là quá trình đánh giá các phảm chất nổi trội của kết cấu nội dung hình thức của văn bản. Hiểu văn là hiểu được cách làm, cách khám phá đời sống của tác giả. Hiểu văn còn có nghĩa là cảm nhận vẻ đẹp của ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu thể loại của văn bản . "Đọc - Hiểu ý nghĩa văn bản" còn mở rộng tới một phương diện ngoài văn bản, điều mà lý luận gọi là cáp độ đọc vượt ra khỏi dòng. Chẳng hạn có thể đọc trong văn bản "Trong lòng mẹ" ngữ văn lớp 8 tập 1, một tình yêu đau đớn, trong sáng bền bỉ của bé Hồng dành cho mẹ là bài ca thiêng liêng của tình mẫu tử, nhưng cũng là hình ảnh của tuổi thơ cay đắng, tủi cực của một nhà văn yêu thương vô hạn những cuộc đời khốn khổ- nhà văn Nguyên Hồng. ở Hoạt động này có cơ hội tích hợp cả 3 phân môn Văn - Tập làm văn - Tiếng việt IV. Giáo án minh hoạ Tuần 8. Bài 8 Tiết 29- 30 Văn bản: Chiếc lá cuối cùng (Trích- O.Hen-ri) A. mục tiêu cần đạt 1. Kiến thức: Giúp HS cảm nhận được từ văn bản: - Tình yêu thương cao cả giữa những con người lao động nghèo khổ, thấy được nghệ thuật chân chính là nghệ thuạt vì sự sống con người. - Cách kết thúc truyện theo kiểu đảo ngược tình huống hai lần đã gây bất ngờ và hứng thú cho người đọc - Sự kết hợp giữa các yếu tố miêu tả và biểu cảm trênnền tự sự là đặc điểm của phương thức biểu đạt trong văn bản này 2. Kỹ năng: Rèn kỹ năng đọc, kỹ năng tóm tắt truyện, phân tích nhân vật 3. Thái độ: giáo dục tình yêu thương con người, tình yêu nghệ thuật, có ý thức đưa yếu tố biểu cảm, miêu tả khi làm văn tự sự. B. Chuẩn bị: Thầy: Tranh minh hoạ "Chiếc lá cuối cùng" - Bảng phụ Bảng 1: Câu nào nói về việc mà cụ Bơ-Men đã làm cho Giôn - Xi trong đoạn trích a. Cụ sợ sệt nhìn thấy day thường xuân đang rụng dần hết lá. b. Trong đêm mưa tuyết cụ đã vẽ chiếc lá cuối cùng trên tường c. Cụ đã mằng Giôn - Xi không được có ý nghĩ vớ vẩn d. Cả a,b,c đều đúng Bảng 2: Tại sao tác giả không kể lại sự việc cụ Bơ- men vẽ chiếc lá cuối cùng một cách trực tiếp ? Vì Xiu muốn tự mình kể việc đó cho Giôn-xi nghe . Vì nhà văn muốn tạo cho nhân vật và người đọc sự bất ngờ làm nổi bật đức hi sinh , tấm lòng vị tha của cụ Bơ -men. Vì đó là việc không quan trọng. Vì đó là việc ngẫu nhiên xảy ra , nhà văn khôngdự tính trước Trò: Đọc kỹ văn bản và trả lời các câu hỏi trong SGK C. Tiến trình các hoạt động. 1. ổn định tổ chức. 2. Kiểm tra bài cũ. Phân tích mặt tích cực và mặt hạn chế của nhân vật Đôn-ki-hô-tê trong đoạn trích” Đánh nhau với cối xay gió”của nhà văn Xéc –van –téc. 3. Giới thiệu bài mới: Theo tiến sĩ Nguyễn Văn Đường thì : Trên đời hiếm gì nghịch lý oái oăm ! Có cái thật làm người ta đau đớn, héo mòn rồi chết lụi. Nhưng lại có cái giả an ủi ,nâng đỡ tâm hồn như một liều thuốc thập toàn đại bổ. Hình ảnh chiếc lá thường xuân trong truyện ngắn lừng danh “ chiếc lá cuối cùng” của nhà văn Mỹ O.Hen-ri là một trong những liều thuốc đó. ở đây con người được hồi sinh nhờ một tình yêu được đền đáp , đã thoát được ác bệnh bởi một xác tín mãnh liệt. Chiếc lá đó như thế nào mà lại có sức mạnh đến như vậy? B. Tiến trình tổ chức bài dạy Hoạt động của thầy Hoạt động của trò Nội dung cần đạt Hoạt động 1: Hướng dẫn đọc và tìm hiểu chú thích: Hướng dẫn cách đọc: Phân biệt lời kể, tả của nhà văn với lời nhân vật. Lời của Xiu khi kể về cái chết của cụ Bơ-men đọc giọng rưng rưng nghẹn ngào. Gọi HS đọc *Truyện có những nhân vật nào? Nhân vật nào được kể đến nhiều nhất? Nhân vật nào quan trọng góp phần tạo nên chủ đề của truyện? *Xác định các sự việc trong đoạn trích? *Dựa và nhân vật và các sự việc, kể tóm tắt đoạn trích. *Trình bày hiểu biết của em về tác giả O.Henri? *truyện sáng tác khoảng thời gian nào? Vị trí đoạn trích? Hoạt động 2: Hướng dẫn tìm hiểu nội dung văn bản: *truyện được kể theo ngôI thứ mấy? Tác dụng của ngôi kể? *Văn bản sử dụng phương thức biểu đạt nào? *Dựa vào phần chữ in nhỏ, giới thiệu một vàI nét cụ thể về cụ Bơ- men. *Em hiểu thế nào là một kiệt tác?(Kiệt tác là gì?) *ở đầu đoạn trích ta thấy Xiu và Bơ-men ngó ra ngoài cửa sổ nhìn dây Thường Xuân, em thấy cụ Bơ-men có thái độ gì? -Đây là bản dịch song ta vẫn cần lưu ý “Thường Xuân” còn có nơI gọi là “Trường Xuân” *Em hãy tưởng tượng ra lời độc thoại của cụ Bơ - men lúc này. Bảng phụ 1: Đưa ra cho học sinh quan sát. -Yêu cầu học sinh trả lời. +Theo em cụ đã vẽ trong hoàn cảnh nào? Cụ có nói việc làm của mình với ai không? Chi tiết nào nói lên điều đó? +TháI độ và vịêc làm của cụ Bơ-men giúp em hiểu gì về tình cảm của cụ đối với Giôn-xi? +Tại sao tác giả không trực tiếp miêu tả việc cụ Bơ-men vẽ chiếc lá như thế nào mà đợi đến dòng cuối của truyện mới cho bạn đọc biết qua lời của Xiu? -Gọi đại diện học sinh làm trên bảng phụ sau khi thu giấy. + Em hãy nhận xét nghệ thuật của cách kể chuyện ấy? + Phần cuối truyện tác giả để cho Xiu nhận xét về bức vẽ như thế nào? em có đồng ý với ý kiến đó không? Bình: Bức vẽ là một kiệt tác bởi nó đã cứu sống một con người. Để hoàn thành nó người hoạ sĩ không chỉ dùng bút lông, bột màu mà bằng cả tình yêu thương, đức hi sinh cao quý. Cụ đã đánh đổi cả mạng sống của mình để giành lại sự sống cho Giôn –Xi. + Theo em khi vẽ chiếc lá cuối cùng, cụ Bơ-men có nghĩ đến việc mình đang làm nghệ thuật, đang thực hiện công trình để có lưu danh hậu thế không? Điều dó có ý nghĩa gì? Bình: Cụ Bơ-men trở thành người châm ngòi, người khơi nguồn làm rực lên ngọn lửa tình yêu cuộc sống vĩnh cửu cho Giôn-xi nhưng chính nó đã đầy nhanh người sáng tạo ra nó về cõi hư vô. cái nghĩa cử ấy của cụ Bơ-men chính là một kiệt tác; không có bố cục, đường nét, sắc màu nhưng thật kỳ diệu và bất diệt. + Theo em qua hình ảnh chiếc lá vẽ trên tường và cách sáng tác âm thầm của cụ Bơ-men, nhà văn muốn nói điều gì với chúng ta? GV có thể hướng dẫn học sinh liên hệ đến các nhà văn Việt Nam qua “Lão Hạc”, “Trong lòng mẹ”. + Tìm các yếu tố miêu tả và biểu cảm, trong văn bản các yếu tố đó đã giúp nhà văn hoàn thành xuất sắc hình tượng nghệ thuật “chiếc lá cuối cùng “ như thế nào? “tích hợp với tập làm văn” + Hãy tìm những chi tiết nói lên thái độ và việc làm của Xiu dành cho Giôn-xi.? Những chi tiết ấy đã nói lên tình cảm gì của Xiu đối với Giôn –Xi. Xiu liệu có biết sự thật về chiếc lá cuối cùng ngay từ đầu không? Chi tiết nào giúp em biết điều đó +Câu văn “nhưng ôkìa đã diễn tả tâm trạnggì của ai” vậy theo em Xiu biết sự thật vào lúc nào? Tại sao cô lại bình tĩnh khi lần thứ 2 Giôn-xi bảo kéo mành lên? -Nếu Xiu biết trước ý đinh của cụ Bơ-men thì truyện có bớt sức hấp dẫn không vì sao? -GV: Cho đến hai, ba ngày sau khi chắc chắn Giôn-xi khỏi bệnhXiu mới khoan thai kể về sự thật của chiếc lá dũng cảm. +Vậy cách ngắt đoạn, đảo ngược thời gian như thế có tác dụng gì. GV: Cùng với nhân vật Bơ-men, Xiu đã góp những màu sắc nhỏ nhẹ, trong sáng làm đẹp thêm bức tranh tình người bao la, kỳ diệu. +Khi khắc hoạ nhân vật Xiu, nhà văn đã sử dụng giọng kể như thế nào? Hiệu quả nghệ thuật của giọng kể ấy? +Em hãy nhắc lại hoàn cảnh sống của Giôn _xi? +Suy nghĩ của Giôn_xi:”khi chiếc lá cuối cùng rụng …sẽ chết” giúp em hiểu gì về tâm trạng của Giôn-xi? -3 HS đọc tiếp nối – HS khác nhận xét cách đọc. -3 HS đọc tiếp nối – HS khác nhận xét cách đọc. -Gồm 3 nhân vật: Xiu. Giôn –xi và Bơ-men (ngoàI ra còn Bác sĩ) -Giôn-xi được nhắc nhiều nhất. -Bơ-men (chiếc lá cuối cùng) góp phần tạo nên chủ đề của truyện. -3 sự việc: +Giôn-xi đợi cái chết +Giôn-xi vượt qua cái chết +Cái chết của cụ Bơ-men và bí mật của chiếc lá cuối cùng. -1 HS kể tóm tắt -1 HS nhận xét, GV bổ xung. -Tác giả: 1862 – 1910, nhà văn Mỹ chuyên viết truyện ngắn. -Truyện của ông nhẹ nhàng, toát lên tinh thần nhân đạo, yêu thương người nghèo khổ rất cảm động. -Truyện sáng tác khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. -Đoạn trích chiếm khoảng 11/4 phần cuối tác phẩm. -Ngôi kể: ngôi thứ 3 –Tạo cho sự việc mang tính chất khách quan. -Phương thúc biểu đạt: tự sự kết hợp miêu tả và biểu cảm. -là một hoạ sĩ nghèo, kiếm tiền bằng cách ngồi làm mẫu vẽ cho các hoạ sĩ trẻ. - Mơ ước vẽ một kiệt tác nhưng 40 năm nay chưa thực hiện. -Kiệt tác là một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc đã được công nhận… - Sợ sệt khi thấy dây thường xuân đang rụng dần hết lá. *H/S thảo luận theo nhóm: Tự bộc lộ: VD “có lẽ thời tiết thế này thì đêm nay chiếc lá sẽ rụng. Ta phải làm gì để cứu con bé tội nghiệp. à ta có cách rồi… nếu như chiếc lá cuối cùng chưa rụng…” *Hoạt động chung cả lớp. B.Việc cụ bơ-men làm cho Giôn-xi vẽ chiếc lá cuối cùng trong đêm mưa tuyết lạnh lẽo. -cụ vẽ âm thầm, lặng lẽ bằng chứng là: “Người ta tìm thấy chiếc thang … trộn lẫn…” -Yêu thương lo lắng hết lòng cho số phận của Giôn-xi +H/S quan sát bảng phụ 2. thảo luận nhóm, làm bài tập trắc nghiệm trên giấy. -Đại diện lên làm trên bảng phụ. +Tạo cho nhân vật và người đọc bất ngờ, làm nổi bật đức hy sinh và lòng vị tha của Bơ-men. -Nghệ thuật kể chuyện đảo lộn thời gian. -Xiu nhận xét: “đó là một kiệt tác” đó là nhận xét hoàn toàn đúng. -Vì nó giống như thật đến nỗi 2 hoạ sĩ thật cũng không nhận ra. - Nó ra đời trong hoàn cảnh khắc nghiệt của một tình yêu thương mạnh mẽ và sự hy sinh cao thượng. - Nó thổi vào tâm hồn Giôn –xi hơi ấm và nghị lực, giúp cô vượt qua cái chết trở về sự sống. - Cụ không hề nghĩ như vậy mà chỉ đơn giản là may ra có thể cứu được cô bé Giôn-xi đáng thương. - Điều đó càng làm tăng thêm giá trị nhân văn của tác phẩm. -Nhà văn muốn ca ngợi tình yêu thương, tấm lòng vị tha của những con người nghèo khổ trên đất Mỹ nói riêng, trên mọi miền trái đất nói chung -Nghệ thuật chân chính phảihướng tới con người và vì con người. -VD: “Nhưng ô kìa!” “ngà hôm đó trôi qua … kiểu Hà Lan…” đ giúp người đoc thấy rõ thiên nhiên khắc nghiệt và chiếc lá cuối cùng đang héo tàn, theo quy luật tư nhiên nó sẽ rụng – là điều không thể tránh khỏi. Thấy được sự dũng cảm trường tồn của chiếc lá. -Sợ sệt ngó ra ngoài cửa sổ nhìn dây thường xuân đang rụng dần hết lá mà chẳng biết nói năng gì. -Khi nghe Giôn-xi ra lệnh kéo mành lên, Xiu làm theo một cách chán nản gần như tuyệt vọng. -Cố hết sức chăm sóc Giôn-xi: nấu cháo, pha sữa, mời bác sĩ… Thể hiện tình yêu thương, chăm sóc Giôn-xi như đối với đứa em ruột thịt Lúc đầu Xiu không hề biết sự thật đó. vì vậy mà khi Giôn-xi bảo kéo mành lên, cô đã “làm theo một cách chán nản” sau đó còn “cúi khuôn mặt hốc hác” xuống người bệnh nói lời não nuột. -Tâm trạng ngạc nhiên không ngờ chiếc lá cuối cùng còn trên cành trong hoàn cảnh khắc nghiệt ấy. -Đó là tâm trạng của Giôn-xi và Xiu HS thảo luận: Có thể ngay khi kéo mành lên lần thứ nhất, cô đã đến đó xem thực hư ra sao và cô đã dấu sự thật đó với Giôn-xi. -Truyện sẽ bớt hấp dẫn vì Xiu không bị bất ngờ và không làm nổi bật được tâm trạng lo lắng thấm đượm tình yêu của xiu. Làm cho nhân vật trở nên tinh tế, vai trò người chị của Xiu càng thêm nổi bật. Giọng kể thủ thỉ, tâm tình như một làn hơi ấm, dịu dàng giữa đêm đông giá buốt _ Bị bệnh nặng, nghèo, mang tâm trạng yếu đối gần như bất lực trước bệnh tật. Cô chỉ trông đợi chiếc lá cuối cùng của cái dây leo già cỗi kia rụng xuống thì cô lìa đời _ Chán nản, mệt mỏi và tuyệt vọng buông xuôi I.Đọc – chú thích 1.Đọc 2.kể tóm tắt 3.Chú thích a. Tác giả (1862 – 1910) -Là nhà văn Mỹ chuyên viết truyện ngắn. b.Tác phẩm: - Vị trí đoạn trích: chiếm hẳn đoạn cuối tác phẩm. II.Tìm hiểu văn bản: 1.Kiệt tác của cụ Bơ-men. Chiếc lá cuối cùng được vẽ trong đêm mưa tuyết phũ phàng. -Thể hiện tình thương yêu bác là: - Đức hy sinh và lòng vị tha cao quý của cụ Bơ-men. - Bức vẽ là một kiệt tác, là một tác phẩm nghệ thuật hướng

File đính kèm:

  • docsang kien kinh nghiem hay cuc ki.doc