Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp tích cực trong dạy học môn Sinh học

Đôí với giáo viên:

*/ Thuận lợi:

Là một giáo viên đã trải qua nhiều năm công tác trực tiếp giảng dạy đối với học sinh, với tấm lòng yêu nghề mến trẻ, thích sưu tầm, nghiên cứu, tìm tòi và học hỏi, lại được sống trong tập thể nhà trường có nhiều giáo viên trẻ nhiệt tình giúp đỡ, được ban giám hiệu quan tâm, tạo điều kiện. Mặt khác Sở giáo dục - đào tạo và phòng giáo dục thành phố thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng giáo viên và thực hiện chuyên đề mới, nên bản thân rất vững vàng khi thực hiện áp dụng phương pháp vào giảng dạy và đó cũng là những thuận lợi tạo điều kiện tốt cho tôi trong quá trình công tác.

* Khó khăn:

Bên cạnh những thuận lợi cơ bản nêu trên, trong thực hiện phương pháp tích cực vào giảng dạy tôi gặp phải rất nhiều khó khăn cụ thể là:

- Phòng thực hành thí nghiệm không có nên khi thực hiện làm thực hành trên lớp không đủ thời gian, không đủ phương tiện nên không đảm bảo.

- Giáo viên chỉ có sách giáo khoa và sách giáo viên không có tài liệu tham khảo hoặc nếu có thì chưa kịp thời

- Địa phương còn nghèo nên việc khuyến dạy và học chưa có nên chưa khích lệ được tinh thần dạy của giáo viên và học của học sinh.

- Trên đây là những vấn đề tác động làm hạn chế không nhỏ tới công tác nghiên cứu, dạy học và áp dụng phương pháp ở trên lớp mà tôi gặp phải.

 

doc15 trang | Chia sẻ: trangtt2 | Ngày: 14/07/2022 | Lượt xem: 263 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp tích cực trong dạy học môn Sinh học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần một đặt vấn đề I/ Lý do chọn đề tài: Dạy và học là hai hoạt động sư phạm nhằm mục đích truyền thụ kiến thức của xã hội loài người từ người này sang người khác. Là thực hiện một phần hoạt động thần kinh bậc cao của con người, nhằm giáo dục con người của con người, đưa tri thức là ngọn đuốc sáng là cầu nối giữa các thế hệ văn minh của xã hội loài người. Chính vì lẽ đó khi thực hiện chương trình, SGK và theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học trước hết cần phải thay đổi quan niệm về thiết bị dạy học: Chuyển từ quan niệm thiết bị dạy học phục vụ chủ yếu cho việc minh họa lời bình, và thuyết trình của giáo viên sang phục vụ chủ yếu cho các hoạt động học tập của học sinh. Có như vậy học sinh mới có điều kiện được tư duy độc lập, chủ động và tích cực tìm tòi, phát hiện kiến thức. Trong dạy học bộ môn sinh học ở trường phổ thông trung học cơ sở người giáo viên dạy sinh học là người giữ vai trò chủ đạo trong việc hướng dẫn học sinh; hay nói cách khác là người trọng tài đưa học sinh tìm tòi những tri thức sinh học. Lúc này học sinh là người chủ động, tính tích cực tìm tòi, phát hiện và có ý thức vận dụng kiến thức vào thực hành phục vụ nhu cầu bản thân, gia đình và xã hội. Do đặc trưng cơ bản của bộ môn sinh học rất gần gũi và tồn tại, ngày càng phát triển xung quanh chúng ta, nên người giáo viên sinh học phải nắm được mục tiêu chung của bộ môn; hiểu sâu và vận dụng kiến thức một cách linh động vào thí nghiệm vào thực hành nhằm đưa tiết học trở nên sinh động, khoa học, sáng tạo, đưa học sinh đi đến đích nhanh nhất và có áp dụng vào thực tế. Cũng từ bài học sinh học giáo dục cho các em lòng yêu thích thên nhiên, và có ý thức bảo vệ thiên nhiên mà cụ thể là thực vật, động vật con người, từ đó có thái độ yêu, ghét rõ ràng và có niềm tin vào khoa học. Để làm được điều này việc dạy và học sinh học không chỉ đơn thuần sử dụng biết lập một phương pháp nào mà phải phối hợp các phương pháp một cách khoa học, phù hợp như từ Tranh, ảnh, mô hình, vật mẫu, các khu dự trữ thiên nhiên hay trong phim ảnh sẽ giúp học sinh hình thành được kiến thức nhanh nhất và cụ thể nhất. Cùng với việc nâng cao chất lượng giáo dục nói chung bộ môn sinh học nói riêng. Việc cải tiến phương pháp dạy học là một nhân tố rất quan trọng. Vì thế trong vòng gần 10 năm lại đây Đảng, Nhà nước, và Bộ giáo dục đã nhiều lần bàn bạc và đi đến quyết định cải cách giáo dục, dạy thí điểm và áp dụng vào cả nước chương trình sách giáo khoa lớp lớp 7 (từ năm học 2003 - 2004) và chỉnh lý bổ sung các năm tiếp theo; ở các năm tiếp theo nhằm “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy, sáng tạo của người học từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy học”. Mặt khác rèn luyện cho giáo viên và học sinh những suy nghĩ để sáng tạo ra những dụng cụ học tập tự phục vụ, và áp dụng vào dạy học cho thật chủ động. Trong việc đổi mới và cải tiến phương pháp day học phát huy tính tích cực của học sinh có ý thức rất quan trọng. Bởi vì xét cho cùng công việc giáo dục phải được tiến hành trên cơ sở tự nhận thức, tự tìm hiểu đi đến tự hành động, nên giáo dục phải thực hiện thông qua hành động và bằng hành động của bản thân (đi từ tư duy, trừu tượng hóa, khái quát hóa đến thực tiễn, cho nên việc khơi dậy, phát triển ý thức, ý chí, năng lực bồi dưỡng rèn luyện phương pháp tự học, tự vận dụng là con đường phát triển tốt nhất của giáo dục - đào tạo). Học tập bộ môn sinh học càng cần đến sự phát triển tính tích cực, sáng tạo của học sinh để không những chỉ hiểu biết về khoa học sinh học mà còn biết chắt lọc và áp dụng vào bảo vệ môi trường, bảo vệ thiên nhiên và phát triển thiên nhiên, đặc biệt hiểu được mối quan hệ chặt chẽ giữa môi trường và con người; áp dụng kiến thức sinh học vào phát triển nền kinh tế quốc dân và bảo vệ sức khỏe con người, khai thác và bảo vệ nguồn sinh học hợp lý nhằm thực hiện kết luận của các nhà khoa học nói về bộ môn: “Thế kỷ 21 là thế kỷ của khoa học sinh học” . Với lý do tôi trình bày trên đây, qua nghiên cứu và lựa chọn, tôi chọn cho mình một đề tài nghiên cứu mong muốn đóng góp sức nhỏ bé của mình vào sự nghiệp giáo dục, qua việc dạy học môn sinh học ở trường phổ thông góp phần vào “sự nghiệp trồng người” với tên sáng kiến là: Tìm hiểu và áp dụng phương pháp tích cực trong giảng dạy bộ môn sinh học II/ Những thuận lợi và khó khăn trong thực hiện phương pháp tích cực trong dạy môn sinh học : A - Đôí với giáo viên: */ Thuận lợi: Là một giáo viên đã trải qua nhiều năm công tác trực tiếp giảng dạy đối với học sinh, với tấm lòng yêu nghề mến trẻ, thích sưu tầm, nghiên cứu, tìm tòi và học hỏi, lại được sống trong tập thể nhà trường có nhiều giáo viên trẻ nhiệt tình giúp đỡ, được ban giám hiệu quan tâm, tạo điều kiện. Mặt khác Sở giáo dục - đào tạo và phòng giáo dục thành phố thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng giáo viên và thực hiện chuyên đề mới, nên bản thân rất vững vàng khi thực hiện áp dụng phương pháp vào giảng dạy và đó cũng là những thuận lợi tạo điều kiện tốt cho tôi trong quá trình công tác. * Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi cơ bản nêu trên, trong thực hiện phương pháp tích cực vào giảng dạy tôi gặp phải rất nhiều khó khăn cụ thể là: - Phòng thực hành thí nghiệm không có nên khi thực hiện làm thực hành trên lớp không đủ thời gian, không đủ phương tiện nên không đảm bảo. - Giáo viên chỉ có sách giáo khoa và sách giáo viên không có tài liệu tham khảo hoặc nếu có thì chưa kịp thời - Địa phương còn nghèo nên việc khuyến dạy và học chưa có nên chưa khích lệ được tinh thần dạy của giáo viên và học của học sinh. - Trên đây là những vấn đề tác động làm hạn chế không nhỏ tới công tác nghiên cứu, dạy học và áp dụng phương pháp ở trên lớp mà tôi gặp phải. B/ Đối với học sinh: * Thuận lợi: Phần lớn học sinh có ý thức trong việc học, hiếu động thích tìm tòi và khám phá khoa học, chủ động học hỏi, hứng thú với bộ môn. * khó khăn : - Hầu hết các em có điều kiện hoàn cảnh khó khăn vì vậy điều kiện học tập bị hạn chế. - Sách giáo khoa không đầy đủ, thiếu tài liệu sưu tầm nghiên cứu, thiếu phương tiện trực quan. - Thời gian học tập ít vì các em phải giúp đỡ gia đình. - Phong trào tự học chưa cao. - Phụ huynh chưa tạo điều kiện quan tâm giúp đỡ học sinh đúng mực. - Hầu hết học sinh coi bộ môn sinh học chỉ là môn phụ nên bị coi nhẹ. Nhưng khó khăn của học sinh cũng là bước cản không nhỏ đến chất lượng dạy và học của bộ môn. Đặc biệt là áp dụng phương pháp tích cực vào giảng dạy nên giáo viên phải là người gỡ bỏ và giúp học sinh khắc phục khó khăn đó, để thực hiện mục tiêu có hiệu quả. Phần hai Nội dung Nội dung I : chuẩn bị của thầy và trò 1/ Chuẩn bị của giáo viên. Muốn truyền đạt tốt kiến thức sinh học, và thu hút học sinh tìm hiểu khoa học người giáo viên phải làm tốt những điều sau đây: - Giáo viên phải nắm vững mục tiêu chung của chương trình. - Phải có kiến thức môn sinh học. - Phải có kiến thức chung phong phú. - Phải nắm vững đối tượng dạy học. - Ngôn ngữ của thầy phải trong sáng, giàu hình ảnh, diễn đạt rõ ràng mạch lạc. - Có kỹ năng thực hành vững vàng. - Soạn bài đầy đủ, chi tiết trước khi lên lớp, xác định kiến thức cơ bản, trọng tâm cần truyền đạt. - Chuẩn bị kỹ hệ thống câu hỏi phù hợp với học sinh. - Chuẩn bị kỹ đồ dùng trực quan, thực hành, thí nghiệm theo yêu cầu của tiết dạy, gây hứng thú, say mê bộ môn cho học sinh. - Tìm những bài tập trắc nghiệm, câu hỏi tự luận, bài tập thực hành, bài tập vận dụng để đánh giá học sinh taị lớp. 2/ Chuẩn bị của học sinh: Trong nghiên cứu, tìm tòi và khám phá kiến thức sinh học phải đảm bảo những điểm tối thiểu sau: - Có đầy đủ sách giáo khoa. - Có tinh thần say mê, hứng thú bộ môn. - Phải tập trung phát huy năng lực học tập, chủ động sáng tạo, tích cực xây dựng bài. - Về nhà phải tự học và tự nghiên cứu. - Biết vận dụng kiến thức đã học vào làm thí nghiệm, thực hành và vận dụng vào cuộc sống. - Tập trung cao độ vào quan sát thực hành, thí nghiệm mô hình tranh, ảnh để hiểu bài ngay tại lớp. - Có kỹ năng phân tích, so sánh, kỹ năng quan sát, kỹ năng sử dụng đồ dùng, sưu tầm tranh ảnh, vật mẫu để phục vụ bài học. - Biết tự kiểm tra đánh gía và so sánh. 3/ Chuẩn bị chung: Để thực hiện hoàn chỉnh mục tiêu bài học đưa ra, ở mỗi bài giáo viên phải hướng dẫn học sinh chuẩn bị chung cho tổ, lớp mà chủ yếu là những dạng như: - Thiết kế hoặc mô tả thí nghiệm trên vật thật và giấy. - Kẻ bảng so sánh, hoặc bảng liệt kê. - Mô hình cần phải vẽ trước. - Tìm những câu hỏi không có trong bài, làm tường trình thí nghiệm. Trên đây là phần giới thiệu về chuẩn bị cho tiết dạy sinh học. Nói chung: Phần chuẩn bị là phần rất quan trọng nó đặt nền móng vững chắc cho việc hoàn thành mục tiêu, song giáo viên phải biết khai thác và vận dụng nó một cách khoa học và phù hợp thì khi thực hiện trên lớp mới đem lại kết quả cao. Nội dung ii : thực hiện trên lớp I/ những biện pháp sư phạm nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập môn sinh học ở trường trung học cơ sở. 1/ Những yêu cầu của việc sử dụng phương pháp dạy học sinh học trong việc phát huy tính tích cực của học sinh. - Qua kinh nghiệm cho thấy phương pháp dạy hoc là một khoa học, đồng thời cũng là một nghệ thuật nếu không có phương pháp nào là vạn năng có thể thay thế các phương pháp khác. Nên người giáo viên kết hợp vận dụng các phương pháp dạy học đặc thù của sinh học là quan sát tìm tòi, phương pháp thí nghiệm với phương pháp dạy học khác có tác dụng kích thích năng lực tư duy tích cực, độc lập sáng tạo của học sinh, như các phương pháp đặt và giải quyết vấn đề, phương pháp kích não, phương pháp dạy học theo nhóm nhỏ, công tác độc lập, thì mới phát huy được tính tích cực của học sinh. - Đặc trưng của bộ môn sinh học là học sinh có thể trực tiếp quan sát, sờ mó và thường xuyên tiếp xúc với đối tượng nghiên cứu; Nên người giáo viên phải là người hướng dẫn giúp học sinh sử dụng các phương tiện và thiết bị nghiên cứu, để thực hiện thí nghiệm đúng mục đích nghiên cứu. Mục đích làm cho học sinh đóng vai trò là người nghiên cứu, chủ động phát hiện và đi đến làm chủ kiến thức. - Cấu trúc giờ học phải mềm dẻo, sinh động gây hứng thú, bất ngờ, hấp dẫn cho học sinh, bằng cách giáo viên phải phối hợp các phương pháp một cách khoa học. - Giáo viên phải khai thác óc thông minh của từng đối tượng học sinh ở mức độ sáng tạo,và phát hiện kiến thức đề ra những câu hỏi và yêu cầu phù hợp với đối tượng học sinh khác nhau. Để giúp học sinh tư duy tái tạo trí tưởng tượng, khả năng phân tích so sánh, tăng trí nhớ hoàn thành mục tiêu. 2/ Sử dụng sách giáo khoa nhằm thực hiện phương pháp tích cực và phát triển tư duy, sáng tạo cho học sinh. - Sách giáo khoa được coi là một pháp lệnh, là tài liệu viết cho học sinh, nó cũng là cơ sở để cho giáo viên chuẩn bị bài giảng, xác định hệ thống kiến thức cơ bản để dạy cho học sinh giúp cho sinh học bài và làm bài ở nhà. - Trong soạn giáo án, sách giáo khoa là điểm tựa để giáo viên xác định kiến thức cơ bản. Vì vậy trước khi soạn giáo án người giáo viên cần nghiên cứu kỹ kênh chữ, kênh hình trong sách giáo khoa để xác định phương pháp dễ truyền thụ, và hướng dẫn học sinh hoàn thành mục tiêu bài học, tự tìm ra kiến thức cần học, cần nghiên cứuvà phát huy được tính tích cực của mình. Trong giảng dạy ở trên lớp sách giáo khoa là cầu nối quan trọng giữa giáo viên với học sinh; học sinh vừa nghe giảng vừa quan sát kênh hình, nghiên cứu kênh chữ và tìm ra kiến thức cần đạt, lúc đó giáo viên chỉ nhận xét và giúp các em hoàn thiện. - Ngoài ra sách giáo khoa còn giúp học sinh nghiên cứu và học tập ở nhà; ôn lại kiến thức đã học, nghiên cứu trước bài mới, làm những bài tập cuối mỗi bài, tìm hiểu thêm ở mục có thể em chưa biết. vì vậy giáo viên phải hướng dẫn và giao nhiệm vụ cụ thể cho các em. 3/ Sử dụng phương pháp trong giảng dạy học sinh học ở trên lớp là một điều rất khó áp dụng nên người giáo viên khai thác bài để đưa ra phương pháp tích cực. Chẳng hạn phương pháp quan sát tìm tòi được vận dụng để dạy kiến thức về hình thái, cấu tạo ở các bài: 31, 32, 33, 34, 37, 38, 39 nên giáo viên phải tổ chức cho học sinh quan sát, mô tả đối tượng: tự thu thập số liệu, tư liệu theo yêu cầu của bài tập. Hướng dẫn sử lí tư liệu đã thu thập thực bằng các thao tác tư duy như phân tích, so sánh, khái quát hóa để tìm ra tính chất chung, riêng, bản chất đối tượng. Hoặc phương pháp thí nghiệm tìm tòi được vận dụng để dạy học tìm hiểu chức năng sinh lí cho phép khẳng định dự đoán nảy sinh lúc quan sát tìm hiểu hoạt động sống của các động vật trong những điều kiện khác nhau. Ví dụ: Đặt thí nghiệm tìm hiểu vai trò của giun đất trong cải tạo đất trồng hay thí nghiệm cắt lần lượt từng loại vây để tìm hiểu tác dụng của mỗi loại vây (hoặc cố định các chủng loại vây). Ngoài ra hầu hết các bài đều phải xây dựng hệ thống các câu hỏi nhằm phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh, nên người giáo viên cần chú ý các điểm sau: - Câu hỏi phải vừa sức, đúng với đối tượng học sinh. - Cần triệt để khai thác nội dung các loại câu hỏi có trong sách giáo khoa, kết hợp với câu hỏi sáng tạo trong soạn giảng của giáo viên. - Câu hỏi phải đảm bảo tính khoa học rõ ràng. Ví dụ: Loại câu hỏi nêu đầu giờ học : Vào giờ học giáo viên có thể kiểm tra hoặc không kiểm tra bài cũ và nêu ngay câu hỏi định hướng nhận thức cho học sinh, đương nhiên khi đặt câu hỏi giáo viên không bắt học sinh trả lời ngay mà ghi vào góc bảng. Sau khi học sinh có đầy đủ hiểu biết quan trọng giờ học thì cuối giờ mới trả lời. Vì thế loại câu hỏi này tôi thấy nó xác định rõ nhiệm vụ nhận thức của học sinh trong học và hướng học sinh vào kiến thức trọng tâm của bài, và định ra hướng giải quyết. II/ Những biện pháp áp dụng để thực hiện sáng kiến và hiệu quả sáng kiến trong dạy học. Trong quá trình dạy học sinh lớp 7 tôi đã áp dụng dạy thử phương pháp nêu trên, đối với học sinh trung bình và so sánh với pương pháp cổ truyền, thấy đạt hiệu quả hơn hẳn, và thấy rằng dù phương pháp nào thì người giáo viên cũng phải tìm cách lôi cuốn học sinh tìm hiểu khoa học và yêu thích bộ môn, từ đó luôn đặt ra câu hỏi cần phải soạn, cần phải giảng như thế nào? để có hiệu quả. Từ suy nghĩ đó tôi đã cải tiến phương pháp soạn giảng của mình và đã lôi cuốn được học sinh, luôn có những giờ học sôi nổi và đạt kết quả cao nhất. Kết quả đó thể hiện ở bảng khảo sát chất lượng học kỳ một vừa qua: Loại điểm Lớp Đầu năm Điểm yếu Cuối năm Điểm yếu Đầu năm Điểm TB Cuối năm Điểm TB Đầu năm Khá giỏi Cuối năm Khá giỏi SL % SL % SL % SL % SL % SL % Sau đây tôi xin giới thiệu một tiết soạn của tôi áp dụng phương pháp tính tích cực trong dạy học sinh học lớp 7 mới mà bản thân tôi thấy đã sử dụng phương pháp đó triệt để nhất. Tiết 31 Bài 31: cá chép A/ Mục tiêu: 1/ Kiến thức: Hiểu đuợc các đặc điểm sống của cá chép, giải thích được các đặc điểm cấu tạo ngoài của cá thích nghi với đời sống ở nước. Chức năng các loại vây của cá chép. 2/ Kỹ năng: Rèn kỹ năng quan sát mẫu vật và tranh, kỹ năng hoạt động nhóm. 3/ Thái độ: Giáo dục ý thức học tập yêu thích bộ môn. B/ Chuẩn bị: 1/. Giáo viên: Tranh cấu tạo ngoài của cá chép 1 con, cá chép thả trong bình thủy tinh. 2/. Học sinh: Mỗi học sinh kẻ sẵn bảng 1 vào vở bài tập. C/ Hoạt động dạy học: I/ ổn định tổ chức: kiểm tra sĩ số. II/ Kiểm tra bài cũ: ? Em hãy kể tên các ngành động vật đã học, các ngành này có những đặc điểm gì ? Trả lời: ngành động vật nguyên sinh, ngành ruột khoang, các ngành giun, ngành thân mềm, ngành chân khớp các ngành này đều có đặc điểm là động vật không xương sống. III/ - Bài mới: Mở bài: lớp cá có rất nhiều loài cá khác nhau, cô cùng các em tìm hiểu đại diện của lớp cá gần gũi và quen thuộc với các em đó là cá chép. Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh Nội dung Hoạt động 1: (9 phút) GV: gọi học sinh đọc thông tin SGK ? Cá chép sống ở đâu, ăn thức ăn gì ? ? Nhiệt độ cơ thể cá như thế nào? + Qua vấn đề vừa nêu trên em rút ra điều gì về đời sống cá chép ? ? Cá chép đẻ con hay đẻ trứng ? GV: Đến mùa sinh sản cá chép cái bơi đi trước tìm cây thủy sinh để đẻ trứng, cá đực bơi theo sau tưới tinh dịch lên trứng. ? Sự thụ tinh trong môi trường nước là thụ tinh ngoài hay trong? ? Vì sao số lượng trứng trong mỗi lứa đẻ của cá chép lên đến hàng vạn trứng? GV: đời sống của cá thích nghi với môi trường nước vậy cá có những đặc điểm như thế nào phù hợp với đời sống của nó? +/ Hoạt động 2: (24phút) GV: Gọi học sinh đọc thông tin SGK yêu cầu học sinh quan sát tranh vẽ và mẫu vật đối chiếu với hình 31.1 (3) (103) nhận biết cơ thể cá ? Cá chép có hình dạng như thế nào? ? Các giác quan của cá tập trung ở phần nào? ? Thân cá được bao phủ bằng lớp gì? GV: cho học sinh thảo luận theo yêu cầu sau: Lựa chọn câu A, B, C, D, E, F, G điền vào bảng 1 (SGK trang103). GV: phát phiếu học tập cho các nhóm và treo bảng phụ goị học sinh lên điền. GV: nhận xét các nhóm lên điền bảng và nêu đáp án đúng 1B, 2C, 3E, 4A, 5G. + Qua bảng trên nêu được cấu tạo ngoài của cá thích nghi với đời sống ? GV: Cho học sinh đọc thông tin SGK yêu cầu học sinh thảo luận. ? Vậy cá chép có mấy loại vây? ? Vây chẵn gồm những loại vây nào? nêu chức năng ? GV: Phát phiếu học tập cho học sinh theo yêu cầu trên. GV: Gọi các nhóm trình bày GV:nhận xét. Học sinh đọc thông tin và ghi nhớ kiến thức TL: Sống ở ao hồ sông suối...ăn động vật, thực vật. TL: Nhiệt độ cơ thể cá không ổn định phụ thuộc vào môi trường. TL: Cá chép đẻ trứng TL: Thụ tinh ngoài. TL: Cá chép thụ tinh ngoài=>khả năng trứng gặp tinh trùng ít nhiều trứng khôngđược thụ tinh. Học sinh bằng cách đối chiếu giữa mẫu vật với hình vẽ ghi nhớ kiến thức. TL: hình thoi dẹp bên. TL: cá giác quan của cá tập trung ở phần đầu. TL: thân cá được bao phủ lớp vây xương mỏng xếp tỳ lên nhau như ngói lợp. - Học sinh các nhóm thảo luận điền vào bảng 1- SGK (103); các nhóm thống nhất ý kiến Học sinh đại diện các nhóm lên điền bảng phụ các nhóm khác nhận xét. Học sinh các nhóm thảo luận HS các nhóm thảo luận điền vào phiếu học tập. Học sinh đại diện các nhóm trình bày nhóm khác bổ sung. HS nêu kết luận I/ Đời sống: */ Đời sống: KL: Cá chép sống ở nước ngọt là động vật ăn tạp nhiệt độ khong ổn định -> là động vật biến nhiệt. */ Sinh sản: KL: Cá chép đẻ trứng với số lượng lớn từ 15->20 vạn trứng, thụ tinh ngoài. II/ Cấu tạo ngoài. 1/ Cấu tạo ngoài. KL: Cá chép thon dài đầu thân gắn chặn với thân vảy có da bao bọc, trong da có nhiều tuyến nhầy, vẩy cá xếp trên thân khớp với nhau như ngói lợp. 2/ Chức năng của vây cá: KL: Gồm có 2 loại vây: - Vây chẵn: +/ Vây ngực. +/ Vây bụng. - Vây lẻ: +/ Vây lưng +/ Vây đuôi. +/ Vây hậu môn. IV/ Củng cố: (5phút) : Giáo viên gọi học sinh đọc kết kuận chung SGK. * Kiểm tra đánh giá. GV: Gọi học sinh lên trình bày trên tranh đặc điểm cấu tạo ngoài cá chép thích nghi đời sống. Cho học sinh làm bài tập sau: Hãy chọn những mục tương ứng của cột A ứng với cột B trong bảng dưới đây: Cột A Cột B 1/ Vây ngực, Vây bụng 2/ Vây lưng, Vây hậu môn. 3/ khúc đuôi mang vây đuôi a/ Giúp cá di chuyển về phía trước. b/ Giữ thăng bằng về phải, trái lên xuống. c/ Giữ thăng bằng theo chiều dọc. Đáp án 1-> b, 2 -> c, 3 -> a V – Hướng dẫn học ở nhà: (1 phút) Học bài theo câu hỏi SGK. Làm bài tập SGK (105) Chuẩn bị thực hành: mỗi nhóm một con cá chép. Phần ba đánh giá khái quát khi thực hiện sáng kiến Qua thực tế giảng dạy môn sinh học 7 tôi nhận thấy muốn cho học sinh yêu mến, hứng thú say mê coi trọng bộ môn quả là một điều không dễ dàng chút nào, để thực hiện điều đó, trước hết người giáo viên dạy sinh học phải là người có kiến thức hiểu biết nhiều, thành thạo trong kỹ năng thực hành. Trong soạn giảng phải kết hợp thật nhuần nhuyễn hợp lý các phương pháp có hệ thống các câu hỏi mở rộng lô gíc để hướng dẫn học sinh chủ động sáng tạo hứng thú trong giờ học . Trong thực hiện các phương pháp trên lớp, người giáo viên phải kết hợp vận dụng các phương pháp dạy học đặc thù của sinh học với phương pháp dạy học khác, có tác dụng khích thích năng lực, tích cực, độc lập sáng tạo của học sinh như phương pháp dạy học theo nhóm và phải khéo léo hướng phương pháp phù hợp với nội dung của bài, phù hợp với trình độ của học sinh. Ngoài ra hệ thống sư phạm cũng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động dạy học được xây dựng trên mục đích, nội dung và phương pháp; vì nó là cầu nối là công cụ trực tiếp của người giáo viên trong quá trình thực hiện dạy học nếu không có hệ thống thao tác sư phạm chuẩn và khoa học, thì dạy học chắc chắn không đạt hiệu quả cao ...... Trên đây là vài suy nghĩ và biện phát thực hiện việc dạy và học bộ môn sinh học lớp 7 Trường THCS của tôi. Rất mong được sự đóng góp ý kiến đánh giá của các đồng chí, đồng nghiệp trong tổ, nhóm và BGH, cấp trên để tôi có kinh nghiệm quý báu hơn trong dạy học bộ môn sinh học . Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_phuong_phap_tich_cuc_trong_day.doc