Sáng kiến kinh nghiệm Rèn luyện tính tích cực học tập của học sinh qua phương pháp dạy học giải quyết vấn đề môn Địa lý 9

1.Về đội ngũ giáo viên bộ môn:

 Cơ bản đủ giáo viên theo biên chế, được đào tạo đạt và vượt chuẩn, có năng lực, nhiệt tình trong giảng dạy, có ý thức chấp hành kỉ luật tốt và quan trọng là nắm được phương pháp giảng dạy, quan tâm đến việc phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, có ý thức học hỏi đồng nghiệp thông qua các hoạt động dự giờ rút kinh nghiệm, soạn giáo án chung. Đặc biệt chú trọng đến đặc trưng của bộ môn là sử dụng thiết bị, đồ dùng dạy học khi lên lớp. Về vấn đề này nhóm bộ môn Địa lý luôn được Ban giám hiệu đánh giá là nhóm thực hiện tốt.

 2. Về học sinh:

 Trong những năm gần đây việc học bộ môn Địa lý đã được học sinh quan tâm hơn, có đủ các phương tiện để phục vụ cho học tập đặc biệt là vở bài tập, sách tham khảo.

 Học sinh đã quen thuộc với cách học mới, tích cực chủ động hơn trong việc phát hiện kiến thức, có ý thức tự giác trong làm bài tập, chuẩn bị bài mới. Qua kiểm tra và chấm vở bài tập của học sinh cho thấy phần lớn học sinh đã đầu tư thời gian cho việc làm bài tập, làm bài đầy đủ có chất lượng, chịu khó tìm tòi những kiến thức thực tế khi giáo viên yêu cầu.

 Tuy nhiên, việc học tập của học sinh vẫn còn một số tồn tại sau:

 - Một số ít học sinh còn lười học, thiếu tính tích cực chủ động trong học tập tập đặc biệt là trong việc hoạt động nhóm.

 - Một số học sinh không chịu khó trong việc làm bài tập ở nhà, thậm chí còn mượn vở bài tập của bạn để chép lại một cách thụ động.

 - Qua kết quả kiểm tra học kì II và điểm trung bình môn cuối năm, tỉ lệ học sinh yếu kém ở khối 9 về môn Địa lý là 13 em (6,0%).

 

doc11 trang | Chia sẻ: trangtt2 | Ngày: 25/06/2022 | Lượt xem: 302 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Rèn luyện tính tích cực học tập của học sinh qua phương pháp dạy học giải quyết vấn đề môn Địa lý 9, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Rèn luyện tính tích cực học tập của học sinh qua phương pháp dạy học giải quyết vấn đề môn Địa Lý 9 i. Đặt vấn đề. Trong dạy học, việc tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh tự tìm tòi phát hiện kiến thức nhằm phát huy tính tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh chính là một trong những mục tiêu của dạy học tích cực và lấy học sinh làm trung tâm. Dạy học giải quyết vấn đề là dựa trên những quy luật của sự lĩnh hội tri thức và cách thức hoạt động sáng tạo, có những nét cơ bản của sự tìm tòi khoa học. Bản chất của phương pháp này là tạo nên một chuỗi những tình huống có vấn đề, điều khiển học sinh giải quyết những vấn đề đó. Nhờ vậy nó đảm bảo cho học sinh lĩnh hội vững chắc những cơ sở khoa học, phát triển năng lực tư duy sáng tạo và hình thành cơ sở thế giới quan khoa học. Dạy học theo cách giải quyết vấn đề giúp học sinh liên hệ và sử dụng những tri thức đã có trong việc tiếp thu tri thức mới cũng như tạo được mối liên hệ giữa những tri thức khác. Thông qua đó học sinh có thể giải thích được các sự sai khác giữa lý thuyết và thực tiễn, những mâu thuẩn nhận thức được tìm thấy trong quá trình học tập. Dạy học giải quyết vấn đề giúp học sinh thấy rõ trách nhiệm về việc học tập của bản thân, phát triển được các kĩ năng viết và kĩ năng diễn đạt, giải quyết vấn đề và đưa ra quyết định, phát triển năng lực giao tiếp xã hội. Sự tham gia tích cực của học sinh trong quá trình học tập làm tăng cường niềm vui và khả năng của bản thân đối với việc lĩnh hội kiến thức nên làm tăng cường động cơ học tập. Đặc trưng cơ bản của dạy học giải quyết vấn đề là “Tình huống có vấn đề” hoặc “Tình huống học tập”. Qua thực tế giảng dạy cho thấy: Tư duy của học sinh chỉ bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề, tức là ở đâu không có vấn đề thì ở đó không có tư duy. Tình huống có vấn đề luôn luôn chứa đựng một nội dung cần xác định, một nhiệm vụ cần giải quyết, một vướng mắc cần tháo gỡ. Do đó, kết quả của việc nghiên cứu và giải quyết tình huống có vấn đề sẽ là tiếp thu tri thức mới, nhận thức mới hoặc phương pháp hành động mới. Dạy học giải quyết vấn đề phải dựa trên các yếu tố sau: - Nhu cầu nhận thức hoặc hành động của học sinh. - Có sự kiếm tìm những tri thức và phương thức hành động chưa biết. - Khả năng trí tuệ của học sinh thể hiện ở kinh nghiệm và năng lực. Nó xuất hiện nhờ tính tích cực nghiên cứu của chính học sinh. Đối với dạy học ở lớp 9 nói chung và ở môn Địa lý lớp 9 nói riêng việc dạy học để rèn luyện tính tích cực, tự lập của học sinh là hết sức cần thiết, góp phần hình thành ý thức tự giác học tập, say mê với bộ môn và nâng cao chất lượng dạy học. Chính vì vậy, bản thân tôi trong quá trình dạy học đã thấy được việc rèn luyện tính tích cực học tập của học sinh thông qua dạy học tạo tình huống có vấn đề là không thể thiếu trong các khâu lên lớp và tôi dã chọn chủ đề này để thử nghiệm trong quá trình dạy học, bước đầu mang lại những kết quả khả quan. Vì thế, tôi đã mạnh dạn viết thành đề tài này để áp dụng cho các năm học sau của bản thân và đồng nghiệp trong tổ Sinh –Hóa - Địa. II. Một số nét về thực trạng dạy học môn Địa Lý ở trường THCS Hồng Thủy. 1.Về đội ngũ giáo viên bộ môn: Cơ bản đủ giáo viên theo biên chế, được đào tạo đạt và vượt chuẩn, có năng lực, nhiệt tình trong giảng dạy, có ý thức chấp hành kỉ luật tốt và quan trọng là nắm được phương pháp giảng dạy, quan tâm đến việc phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, có ý thức học hỏi đồng nghiệp thông qua các hoạt động dự giờ rút kinh nghiệm, soạn giáo án chung. Đặc biệt chú trọng đến đặc trưng của bộ môn là sử dụng thiết bị, đồ dùng dạy học khi lên lớp. Về vấn đề này nhóm bộ môn Địa lý luôn được Ban giám hiệu đánh giá là nhóm thực hiện tốt. 2. Về học sinh: Trong những năm gần đây việc học bộ môn Địa lý đã được học sinh quan tâm hơn, có đủ các phương tiện để phục vụ cho học tập đặc biệt là vở bài tập, sách tham khảo... Học sinh đã quen thuộc với cách học mới, tích cực chủ động hơn trong việc phát hiện kiến thức, có ý thức tự giác trong làm bài tập, chuẩn bị bài mới. Qua kiểm tra và chấm vở bài tập của học sinh cho thấy phần lớn học sinh đã đầu tư thời gian cho việc làm bài tập, làm bài đầy đủ có chất lượng, chịu khó tìm tòi những kiến thức thực tế khi giáo viên yêu cầu. Tuy nhiên, việc học tập của học sinh vẫn còn một số tồn tại sau: - Một số ít học sinh còn lười học, thiếu tính tích cực chủ động trong học tập tập đặc biệt là trong việc hoạt động nhóm. - Một số học sinh không chịu khó trong việc làm bài tập ở nhà, thậm chí còn mượn vở bài tập của bạn để chép lại một cách thụ động. - Qua kết quả kiểm tra học kì II và điểm trung bình môn cuối năm, tỉ lệ học sinh yếu kém ở khối 9 về môn Địa lý là 13 em (6,0%). III. Những việc cần làm trong dạy học Địa lý để rèn luyện tính tích cực học tập của học sinh. Dạy học theo phương pháp giải quyết vấn đề là hình thức dạy học mà người giáo viên phải tổ chức được tình huống có vấn đề giúp học sinh nhận thức được tình huống, chấp nhận giải quyết và tìm kiếm được kiến thức trong quá trình hoạt động hợp tác giữa thầy và trò, phát huy tối đa tính tích cực của học sinh kết hợp với sự hướng dẫn của giáo viên. Các bước thực hiện như sau: 1. Xây dựng tình huống có vấn đề. Trong một tiết lên lớp để tạo nên tình huống có vấn đề, trước hết cần: tìm hiểu vấn đề, sau đó xác định được vấn đề cần giải quyết, đưa ra những giả thiết khác nhau để giải quyết vấn đề, thử nghiệm giải pháp thích hợp nhất, hiệu quả nhất. Ví dụ: Khi dạy bài “Vùng đồng bằng Sông Cửu Long” (Phần các ngành kinh tế). Đây là vùng trọng điểm lương thực, thực phẩm đồng thời là vùng xuất khẩu nông sản hàng đầu của cả nước. Giáo viên phải xây dựng được vấn đề yêu cầu học sinh giải quyết là: Vì sao Đồng bằng Sông Cửu Long trở thành vùng sản xuất lương thực lớn nhất nước ta? Để giải quyết được vấn đề này học sinh phải dựa vào các điều kiện tự nhiên – xã hội đã học ở lớp 8 và phần đầu của vùng Đồng bằng Sông Cửu Long để hoàn thành nội dung theo yêu cầu. 2. Giải quyết vấn đề. Sau khi đã tạo được tình huống có vấn đề, giáo viên hướng dẫn học sinh tiến hành giải quyết từng vấn đề. Tùy theo từng nội dung cần giải quyết mà áp dụng mức độ phù hợp từ dễ đến khó, theo các cách sau: 2.1. Mức độ 1: Nếu những nội dung giáo viên đưa ra khó học sinh không tự giải quyết được giáo viên nên áp dụng như sau: Giáo viên đặt vấn đề rồi nêu cách giải quyết. Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của giáo viên. Giáo viên đánh giá kết quả làm việc của học sinh. Ví dụ: Khi dạy phần “Địa hình Quảng Bình” giáo viên nêu vấn đề cần giải quyết như sau: Em hãy nhận xét hướng nghiêng của địa hình Quảng Bình? Đây là nội dung không phải học sinh nào cũng biết, vì vậy giáo viên phải hướng dẫn và nêu cách giải quyết vấn đề theo các bước sau: Gợi ý bằng các câu hỏi: Độ dốc của địa hình ở phía bắc và phía nam Quảng Bình có sự khác nhau như thế nào? Học sinh dựa vào quan sát thực tế về hướng chảy của sông Kiến Giang theo hướng Tây Nam - Đông Bắc. Từ đó học sinh khẳng định được địa hình phía nam Quảng Bình nghiêng theo hướng Tây Nam - Đông Bắc còn ở phía bắc nghiêng theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Như vậy, hướng nghiêng của địa hình không đồng nhất từ bắc vào nam (điều này thể hiện rõ theo dòng chảy của sông ngòi). Với phần này, giáo viên tự đánh giá kết quả trả lời của học sinh để khẳng định kiến thức. 2.2. Mức độ 2: Với câu hỏi ở mức độ dễ hơn, thì: Giáo viên đặt vấn đề, gợi ý để học sinh tìm ra cách giải quyết. Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề. Giáo viên và học sinh cùng đánh giá. Ví dụ: Khi dạy Địa lý Quảng Bình: Phần liên hệ huyện Lệ Thủy, giáo viên nêu câu hỏi: Huyện Lệ Thủy có mấy xã, mấy thị trấn? Để giúp học sinh giải quyết được vấn đề này, giáo viên cần gợi ý cho học sinh đếm các xã ở vùng biển, các xã vùng ven quốc lộ, số xã ven đường 15, các xã vùng giữa, vùng núi... Với sự gợi ý đó, học sinh sẽ dễ dàng tổng hợp được toàn huyện có 26 xã và 2 thị trấn. 2.3. Mức độ 3: Giáo viên cung cấp thông tin tạo tình huống. Học sinh phát hiện và xác định vấn đề nảy sinh, tự lực đề xuất các giả thiết và lựa chọn giải pháp. Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề với sự giúp đỡ của giáo viên khi cần. Giáo viên và học sinh cùng đánh giá. Ví dụ: Khi dạy về các ngành kinh tế biển. Phần “Phát triển tổng hợp kinh tế và bảo vệ tài nguyên môi trường biển đảo”. Trong mục khai thác và chế biến khoáng sản biển, giáo viên cung cấp cho học sinh một số thông tin về ngành dầu khí như sau: Dầu khí là ngành kinh tế mũi nhọn, chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hiện nay, nước ta đã xây dựng nhà máy Khí - Điện - Đạm ở Vũng Tàu, bước đầu chế biến dầu khí phục vụ cho phát điện, sản xuất phân đạm. Sau khi cung cấp cho học sinh những thông tin trên, giáo viên yêu cầu học sinh nhận xét về triển vọng của ngành dầu khí ở nước ta. Học sinh dựa vào những hiểu biết thực tế về ngành dầu khí ,nêu được triển vọng của ngành như sau: - Từ năm 1999 dầu thô khai thác được là 15,2 triệu tấn. - Năm 2000 là 16,2 triệu tấn. - Năm 2002 là 16,9 triệu tấn. Qua các số liệu đó, học sinh kết luận được: lượng dầu thô khai thác của nước ta tăng liên tục từ năm 1999 đến năm 2002 và triển vọng sẽ tăng cao hơn nữa khi tiến hành khai thác ở khu vực Dung Quất – Quãng Ngãi. Như vậy, trong dạy học đặt và giải quyết vấn đề giáo viên đưa học sinh vào tình huống có vấn đề rồi giúp học sinh giải quyết vấn đề được đặt ra. Bằng cách đó, học sinh vừa nắm được tri thức mới, vừa nắm được phương pháp đi tới kiến thức đó, vừa phát triển tư duy tích cực, sáng tạo và có khả năng vận dụng tri thức vào giải quyết tình huống mới. 3. Các bước của dạy học giải quyết vấn đề. 3.1. Giải thích vấn đề. Tất cả học sinh đều phải nắm được vấn đề giáo viên đưa ra, những điều mà một thành viên chưa rõ cần được các thành viên khác giải thích thông qua thảo luận để làm rõ vấn đề. 3.2. Thu thập các vấn đề liên quan. Các thành viên trong nhóm cùng nhau thu thập các nội dung cần làm rõ nằm trong vấn đề cần giải quyết theo nhận thức của nhóm: Tập hợp các kiến thức được đưa ra, xác định rõ trọng tâm của nội dung cần đạt sau khi có sự thống nhất của nhóm. 3.3. Tập hợp các ý kiến của nhóm. Tập hợp các kiến thức, những dự đoán của nhóm xung quanh vấn đề cần giải quyết và trình bày dưới hình thức mà cả nhóm dễ tiếp thu, theo dõi thông qua phiếu học tập hoặc các bảng biểu có liên quan. 3.4. Xác định mục đích học tập cần đạt. Xác định những nội dung nào đã biết, những nội dung nào cần tìm hiểu, cùng nhau xác định rõ những mục tiêu học tập nhằm mở rộng những tri thức đã có. 3.5. Tập hợp và thảo luận các nội dung đã nghiên cứu. 3.6. Nhận xét rút kinh nghiệm về tiến trình, phương pháp làm việc của từng nhóm. (Có thể cho các nhóm đánh giá lẫn nhau hoặc giáo viên tự đánh giá). 4. Dạy học giải quyết vấn đề thông qua sử dụng các thiết bị dạy học. Thực tế dạy học cho thấy việc quan sát và khai thác kiến thức của học sinh đối với các thiết bị dạy học chỉ đạt hiệu quả nếu trước khi cho học sinh quan sát nhận xét, giáo viên đưa ra vấn đề cần giải quyết nhằm giúp học sinh biết được cần phải quan sát cái gì? Phân tích nội dung gì? Giải thích nguyên nhân, nhận xét và khai thác kiến thức như thế nào? Ví dụ: Khi dạy vùng Đông Nam Bộ phần “công nghiệp” giáo viên cho học sinh khai thác lược đồ kinh tế vùng Đông Nam Bộ. Trước khi học sinh tiến hành khai thác lược đồ, giáo viên cần đưa ra các yêu cầu sau: ? Tìm trên lược đồ các trung tâm công nghiệp của vùng, các ngành công nghiệp của từng trung tâm. ? Giải thích vì sao thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm công nghiệp lớn nhất của vùng. Sau khi đã nắm được vấn đề cần giải quyết mà giáo viên đã định hướng trước, học sinh sẽ tập trung vào khai thác ngay nội dung chính để nắm được các trung tâm công nghiệp là: Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Biên Hòa, Thủ Dầu Một. Trong đó thành phố Hồ Chí Minh tập trung nhiều ngành công nghiệp nhất: Năng lượng, luyện kim, cơ khí, hóa chất, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến lâm sản, chế biến lương thực thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và trở thành trung tâm công nghiệp lớn nhất của vùng cũng như của cả nước. 5. Hệ thống câu hỏi trong dạy học giải quyết vấn đề. Các câu hỏi phải thể hiện rõ ràng về yêu cầu và mức độ nhận thức khác nhau đối với học sinh. Câu hỏi để phân loại và phát triển tư duy địa lý cho học sinh cần có các mức độ khác nhau từ đọc các đối tượng địa lý đến phân tích, so sánh, xác định các mối quan hệ giữa các đối tượng địa lý. Câu hỏi có tác dụng dẫn dắt học sinh biết, hiểu được đặc điểm đặc trưng của các đối tượng địa lý và có cách nhìn tổng hợp giữa các đối tượng địa lý qua các mối quan hệ giữa chúng. Ví dụ: Khi dạy bài 38 “Phát triển tổng hợp kinh tế và bảo vệ tài nguyên môi trường biển đảo”. Giáo viên cần đưa ra các câu hỏi: ? Tại sao phải phát triển tổng hợp các ngành kinh tế biển. ? Công nghiệp chế biến thủy sản phát triển sẽ có tác động như thế nào tới ngành đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Những câu hỏi như vậy thể hiện rõ mối quan hệ giữa các ngành kinh tế biển với nhau mà học sinh cần giải quyết, đòi hỏi học sinh phải tích cực vận dụng các mối quan hệ giữa các ngành kinh tế để trả lời câu hỏi. Để phát huy cao độ tính tích cực học tập của học sinh, giáo viên phải dựa trên nội dung bài học, nội dung các thiết bị dạy học để nêu câu hỏi thành một số vấn đề cầc làm sáng tỏ và hướng dẫn học sinh tự làm việc với các phương tiện học tập. Giáo viên cần chú ý yêu cầu học sinh khai thác các nội dung kiến thức “ẩn” trong mỗi phương tiện, dựa vào đó để phân tích, đánh giá, so sánh, giải thích...trong suốt quá trình dạy học ở trên lớp, ở nhà và trong cả khi kiểm tra, đánh giá... Chúng ta biết rằng, các đối tượng, sự vật địa lý tồn tại trong những mối quan hệ chặt chẽ. Trong dạy học địa lý, để giúp học sinh hiểu được đặc trưng của các đối tượng, sự vật địa lý và hiểu được bản chất của những mối quan hệ đó, giáo viên phải hướng dẫn học sinh sử dụng kết hợp các nội dung kiến thức với thiết bị dạy học để đối chiếu, so sánh, phân tích, tổng hợp để rút ra kết luận, giải quyết vấn đề giáo viên yêu cầu. Việc sử dụng kết hợp các loại phương tiện này sẽ kích thích hứng thú học tập của học sinh – giúp học sinh chủ động, sáng tạo trong hoạt động nhận thức. Ví dụ: Khi dạy mục: Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế (Bài 6: Sự phát triển nền kinh tế Việt Nam). Để giúp học sinh giải quyết được vấn đề cần đặt ra là: Nhận xét về sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta , giáo viên phải hướng dẫn học sinh kết hợp quan sát biểu đồ hình 6.1 (Biểu đồ chuyển dịch cơ cấu GDP từ năm 1991 đến năm 2002), vừa kết hợp quan sát lược đồ các khu vực kinh tế đồng thời phải nắm được các nội dung kiến thức trang 20, trang 22 SGK và bảng số liệu về cơ cấu GDP của các thành phần kinh tế ở trang 23. Như vậy, để giải quyết được một vấn đề đòi hỏi phải có sự kết hợp 4 loại phương tiện liên quan mới đưa ra được kết luận đúng. Kinh tế có sự chuyển dịch mạnh mẽ: giảm tỉ trọng của khu vực nông – lâm – ngư nghiệp, tăng tỉ trọng của khu vực công nghiệp – xây dựng, khu vực dịch vụ chiếm tỉ trọng cao. Cùng với chuyển dịch cơ cấu ngành là hình thành hệ thống vùng kinh tế với các trung tâm công nghiệp mới, các vùng chuyên canh nông nghiệp và sự phát triển các thành phố lớn. Hình thành 3 vùng kinh tế trọng điểm: Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. 6. Cách tổ chức hoạt động trong dạy học giải quyết vấn đề. - Trong dạy học giải quyết vấn đề, cần chú ý sử dụng mọi biện pháp thúc đẩy học sinh mạnh dạn nêu thắc mắc và khéo léo sử dụng thắc mắc đó để tạo nên tình huống có vấn đề, thu hút toàn lớp tham gia thảo luận, tranh luận để giải quyết vấn đề đó. Như vậy có thể góp phần lấp lỗ hỏng, chữa những sai lầm hoặc hiểu chưa chính xác những nội dung học tập của học sinh. - Cần có thái độ bình tĩnh khi học sinh trả lời sai hoặc thiếu chính xác, tránh thái độ nôn nóng, vội vàng cắt ngang ý kiến của học sinh khi không thật cần thiết. Chú ý uốn nắn, nhận xét, bổ sung câu trả lời của học sinh, giúp học sinh hệ thống hóa tri thức tiếp thu được. - Tạo không khí thoải mái trong lớp học để học sinh không quá lo ngại khi trả lời, các học sinh yếu kém không mặc cảm, tự ti về trình độ nhận thức của mình, khuyến khích, động viên sự cố gắng của các em. 7. Hướng dẫn phương pháp học tập cho học sinh. Dù dạy học theo phương pháp gì thì mục đích cuối cùng là học sinh nắm được kiến thức và biết vận dụng tốt. Nếu giáo viên dạy tốt mà không hướng dẫn cho học sinh cách học tốt thì chắc chắn kết quả sẽ không như mong muốn. Vì vậy giáo viên cần chú ý hướng dẫn cách học cho học sinh theo những định hướng sau: - Yêu cầu học sinh phải tự giác,tích cực và tạo thới quen tư duy lôgich, tích cực tham gia xây dựng bài. - Phải thường xuyên liên hệ kiến thức đã được học với kiến thức thực tế qua quan sát hoặc qua các phương tiện thông tin và ngược lại từ kiến thức hiểu được qua thực tế để rút ra bài học trên lớp. - Hướng dẫn cho học sinh thường xuyên đưa ra những câu hỏi, những thắc mắc cần giải quyết, điều đó giúp học sinh có ý thức trách nhiệm hơn trong việc tự giải quyết vấn đề và sẽ hiểu bài tốt hơn, nhớ lâu hơn vì có chủ định. - Trong học tập cần có sự so sánh, đối chứng, phân tích các bảng, biểu, lược đồ để nắm kiến thức một cách chắc chắn. - Yêu cầu học sinh phải có sự hợp tác tốt trong hoạt động nhóm, mạnh dạn thể hiện ý kiến của mình trước nhóm, tích cực tham gia tranh luận những vấn đề còn vướng mắc để cùng làm sáng tỏ vấn đề cần giải quyết. - Tập cho học sinh thói quen quan sát, ghi lại những hiện tượng, đối tượng địa lý và tự đặt câu hỏi, giải thích để đưa ra nhận định. - Thường xuyên làm bài tập, có thói quen tốt trong việc trao đổi với bạn nếu có những vấn đề chưa hiểu rõ. IV. Những kết quả đạt được. Với việc áp dụng cách dạy học như đã nêu trên kết hợp những giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học, kết quả chất lượng bộ môn địa lý 9 mà tôi phụ trách trong năm học 2006 – 2007 đạt được như sau: - Chất lượng: Tổng số học sinh: 215 em. Trong đó: Giỏi : 20 em đạt 9,3% Khá : 82 em đạt 38,1% TB : 100 em đạt 46,5% Yếu : 13 em đạt 6,0% Kém : Không có. - Kĩ năng: + Phần lớn học sinh lớp 9 đã có kĩ năng đọc, khai thác lược đồ, bản đồ để tìm ra kiến thức. + Có kĩ năng vẽ biểu đồ, phân tích, so sánh các bảng, biểu. + Có kĩ năng vận dụng kiến thức đã học để giải thích các hiện tượng thực tế xảy ra xung quanh. Kết luận. Dạy học giải quyết vấn đề là một trong những phương pháp dạy học tích cực nhằm tổ chức cho học sinh tự tìm tòi, phát hiện, giải quyết các vấn đề nhận thức có hiệu quả, học sinh phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động và sáng tạo trong học tập. Để tổ chức các hoạt động học tập có hiệu quả giáo viên phải lựa chọn nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học phù hợp với mục tiêu bài học và trình độ nhận thức của học sinh. Có làm được như vậy mới góp phần giúp học sinh yêu thích và say mê học tập bộ môn Địa lý, đưa bộ môn Địa lý trở thành bộ môn công cụ trong nhà trường.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ren_luyen_tinh_tich_cuc_hoc_tap_cua_ho.doc