Sáng kiến kinh nghiệm tổ chức hoạt động nhóm trong dạy Ngữ văn THCS

I. Lý do chọn đề tài:

1. Cơ sở lí luận:

- Đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề cơ bản, cấp thiết hiện nay. Nghị quyết TW4 khoá VII đã xác định: đổi mới phương pháp dạy học nghĩa là phải khuyến khích tự học, phải áp dụng những phương pháp dạy học hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề. Điều đó có nghĩa là người GV phải biết hướng tới các hoạt động nhằm kích thích, rèn luyện tính tích cực, sáng tạo, độc lập trong tư duy của học sinh. Mục đích cuối cùng của của quá trình dạy học phải là giúp học sinh có khả năng tiếp cận tri thức, kĩ năng mới tiên tiến hiện đại đồng thời có năng lực giải quyết những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống.

- Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện lối tư duy sáng tạo của học sinh, thực hiện phương châm “học đi đôi với hành” giáo dục kết hợp lao động sản xuất, nhà trường gắn với đời sống XH. Coi trọng thực hành, thực nghiệm, ngoại khoá làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, dạy chay, học chay.

- Điều 24 luật GD chỉ rõ: phương pháp GD phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của học sinh, phải phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học. Bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn tác động tới tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Đây chính là định hướng cơ bản và thiết thực đối với ngành GD - ĐT.

 

doc11 trang | Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 3213 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm tổ chức hoạt động nhóm trong dạy Ngữ văn THCS, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sáng Kiến kinh nghiệm Tổ chức hoạt động nhóm trong dạy ngữ văn THCS I. Lý do chọn đề tài: Cơ sở lí luận: - Đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề cơ bản, cấp thiết hiện nay. Nghị quyết TW4 khoá VII đã xác định: đổi mới phương pháp dạy học nghĩa là phải khuyến khích tự học, phải áp dụng những phương pháp dạy học hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề. Điều đó có nghĩa là người GV phải biết hướng tới các hoạt động nhằm kích thích, rèn luyện tính tích cực, sáng tạo, độc lập trong tư duy của học sinh. Mục đích cuối cùng của của quá trình dạy học phải là giúp học sinh có khả năng tiếp cận tri thức, kĩ năng mới tiên tiến hiện đại đồng thời có năng lực giải quyết những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống. - Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện lối tư duy sáng tạo của học sinh, thực hiện phương châm “học đi đôi với hành” giáo dục kết hợp lao động sản xuất, nhà trường gắn với đời sống XH. Coi trọng thực hành, thực nghiệm, ngoại khoá làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, dạy chay, học chay. - Điều 24 luật GD chỉ rõ: phương pháp GD phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của học sinh, phải phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học. Bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn tác động tới tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Đây chính là định hướng cơ bản và thiết thực đối với ngành GD - ĐT. Tóm lại: khi nói tới đổi mới phương pháp dạy học phải nhìn vấn đề một cách rộng dãi và linh hoạt theo 3 hướng: Phát triển năng lực nội sinh của người học. Đổi mới quan hệ thày trò. c. Đưa công nghệ hiện đại vào nhà trường trong đó chú trọng vào đổi mới về tính chất hoạt động, nhận thức và hoạt động tự học của học sinh. Hình thức tự học rất đa dạng: đọc sách, thí nghiệm, thực hành, làm bài tập,… Trong đó, có hoạt động nhóm trong và ngoài giờ học trên lớp. 2.Cơ sở thực tiễn: a. Nhận thức của GV về đổi mới phương pháp dạy họctheo hướng tích cực: Đại đa số GV đã nhận thức đúng đắn, có ý thức áp dụng phương pháp dạy học song mới chỉ hiểu và áp dụng ở mức độ lí thuyết đơn giản, chưa linh hoạt trong việc vận dụng phương pháp giảng dạy đặc biệt nội dung tổ chức hoạt động nhóm còn lúng túng, thậm chí còn làm chiếu lệ nên chưa có hiệu quả, nặng tính chất hình thức. b.Về phía học sinh: Nhìn chung các em thông minh ham tìm tòi cái mới. Song bên cạnh đó còn có một bộ phận học sinh lười, không yêu thích, có nhận thức lệch lạc về bộ môn Ngữ văn. Các em ngại học cho rằng môn ngữ văn là không có vai trò trong cuộc sống. Với các em học môn Ngữ văn là bắt buộc nên soạn bài thì chép “để học tốt”. Trong giờ học khi cô giáo nêu vấn đề không có ý thức tư duy, được gọi trình bày ý kiến thì không mạnh dạn bộc lộ suy nghĩ của mình hoặc chẳng có gì để nói. Giờ học Ngữ văn với các em rất nhàm chán. Xuất phát từ thực tế như trên tôi đã cố gắng vận dụng linh hoạt phương pháp trong giảng dạy theo tinh thần đổi mới. Một trong những phương pháp được tôi vận dụng trong giờ Ngữ văn là: Tổ chức sinh hoạt nhóm để kích thích tính tư duy sáng tạo niềm yêu thích bộ môn cho học sinh.Tổ chức sinh hoạt nhóm nhiều GV và bản thân tôi đã thực hiện thành công trong các giờ dạy phần Tiếng Việt và Tập làm văn song tổ chức hoạt động theo nhóm ở đọc hiểu văn bản là một vấn đề ít được quan tâm hoặc nếu được sử dụng trong giờ dạy cũng chỉ là mang tính chất hình thức, chưa hiệu quả. Nhiều GV cho rằng hình thức này không phù hợp với tiết đọc hiểu văn bản làm ngắt mạch bài dạy. Từ thực tế giảng dạy tôi cho rằng nếu đầu tư, tìm tòi hình thức hoạt động nhóm cũng có những kết quả tích cực, kích thích được hứng thú học tập cho học sinh. Tôi xin trình bày những suy nghĩ và việc làm của mình trong việc tổ chức sinh hoạt nhóm ở giờ đọc hiểu văn bản. II. Nội dung và phương pháp thực hiện: 1. Điều tra cơ bản học sinh: Năm học 2007 – 2008 tôi được phân công giảng dạy: Ngữ văn 7; 9. Qua khảo sát chất lượng đầu năm tôi đã phân loại đối tượng cụ thể như sau: Lớp Sĩ số Phân loại Giỏi Khá Trung bình Yếu 9T 42 7V 42 7T 41 Số lượng học sinh giỏi: em Số lượng học sinh yếu: 21 em Nguyên nhân: - Chưa thích bộ môn: 14 em - Hổng kiến thức : 7 em 2. Nội dung phương pháp: Từ kết quả khảo sát như trên, tôi đã xây dựng kế hoạch chú trọng bồi dưỡng học sinh giỏi, kèm cặp học sinh yếu để năng cao chất lượng bộ môn: với phương pháp giảng dạy thích hợp – phát huy tích cực, chủ động của học sinh theo tinh thần: “ Bài giảng của thày, thày giảng một nửa thôi Còn một nửa để cho học sinh làm lấy.” Nghĩa là phải chấm dứt tình trạng độc thoại một mạch của GV. Phải khơi gợi, khuyến khích học sinh tự tìm đến con đường kiến thức, mạnh dạn “giao việc” cho học sinh, phối hợp cùng học sinh tiếp cận phân tích tổng hợp hình thành những tri thức cần nắm. Một trong những con đường ấy là tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh thật hiệu quả, không mang tính hình thức. Phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm là để những vấn đề khó. Lớp học được chia làm nhiều nhóm nhỏ, có một nhóm trưởng phụ trách. Để hình thức học tập theo nhóm thực sự tích cực, có kết quả thì phải làm theo quy trình từng bước: - Từng cá nhân trong nhóm phải làm việc độc lập. - Sau khi mỗi cá nhân có kết quả của mình mọi người trong nhóm mới cùng nhau trao đổi thảo luận dưới sự điều hành của nhóm trưởng để đi tới ý kiến thống nhất chung của cả nhóm. - Đại diện của nhóm sẽ thay mặt các thành viên trình bày quan điểm của nhóm mình trước tập thể. - Các nhóm tranh luận dưới sự hướng dẫn, gợi mở của GV để đạt dược mục tiêu tiết cần đạt của vấn đề đưa ra thảo luận. Hình thức học tập theo nhóm không chỉ được tiến hành trong từng tiết học ở trên lớp. ở trên lớp dùng hình thức học tập theo nhóm để giải quyết những câu hỏi nêu cao vấn đề, tháo gỡ những tình huống học tập khó khăn có yêu cầu cao. Trong thời gian hạn chế của một tiết học không phải mọi vấn đề đều được giải quyết. Còn những vấn đề mới được đặt ra nhiều vấn đề được liên quan tới tiết học sau. Do đó sau giờ học việc học tập theo nhóm là rất cần thiết. Cần phải rút kinh nghiệm từ những thành công và thất bại trong giờ học trước đó và cần tiếp tục giải quyết những vấn đề mới phục vụ cho bài học mới. Chính vì vậy học tập theo nhóm cần được tiến hành theo một quy trình: Trước, trong và sau giờ học. *Trước khi bước vào giờ học trên lớp, học theo nhóm là điều kiện để các em thâm nhập tiếp cận bài học. Nhiều vấn đề mới mẻ đôi khi vượt quá khả năng của một cá nhân hoặc dễ dàng với cá nhân này nhưng rất khó với cá nhân khác, đòi hỏi phải có sự cộng tác của cả nhóm. Học tập hợp tác theo nhóm sẽ giúp các em vượt qua những hạn chế, thiếu hụt về kiến thức tạo ra mặt bằng tri thức để các em tiếp thu bài học tốt hơn ở trên lớp. Việc hình thành nhóm học tập ở nhà có thể là sự tự phát (do học sinh dựa trên quan hệ bạn bè thân tình hay theo địa bàn dân cư…) cũng có thể theo sự phân công của GV, của lớp (khá kèm yếu…). *Trong giờ học những kiến thức kinh nghiệm có được trước đó được học sinh vận dụng để giải quyết những vấn đề GV nêu ra. Các thành viên của nhóm này được nghe ý kiến của nhóm khác. Kiến thức, kinh nghiệm của các nhóm sẽ được điều chỉnh (nếu sai), bổ sung (nếu thiếu) mở rộng, khắc sâu… các phương pháp, cách thực hiện học tập tích cực được tiếp thu. Ví dụ: Khi dạy bài “ Tức nước vỡ bờ ” _ Ngữ văn 8: GV có thể cho học sinh tranh luận về sự thay đổi thái độ của chị Dậu. Cuộc tranh luận có thể bắt đầu từ những từ then chốt có liên quan đến quá trình diễn biến tâm lý của chị Dậu trong đoạn trích và có thể gây tranh luận về cách nhìn nhận về hành động của chị Dậu khi đánh lại cai lệ và người nhà lý trưởng: (GV viết các từ ngữ đó thành cột vào bảng phụ) Chị Dậu: Cai lệ: * run run hằm hè: thiết tha: nhà cháu…xin ông * xám mặt: xin tha Tha này, tha này * tức quá -> cự lại: -> xấn đến “Chồng tôi đau ốm ông không tát vào mặt chị Dậu được phép hành hạ.” nhảy vào cạnh anh Dậu * Nghiến hai hàm răng “Mày trói chồng bà đi bà cho mày xem.” Tóm cổ -> ấn giúi Túm tóc -> lẳng GV dành cho học sinh thừ 3 đến 5 phút để học sinh suy nghĩ lựa chọn ý kiến, chuẩn bị lý lẽ cho quyết định lựa chọn của mình: ? Em có nhận xét gì về thái độ của chị Dậu khi tên cai lệ xuất hiện trong nhà chị để đòi tiền nộp sưu? ( Thay đổi: Từ chỗ van xin đến liều mạng cự lại lúc đầu là bằng lý lẽ sau đó là bằng vũ lực) ? Sự thay đổi thái độ của chị Dậu trước hành động của tên cai lệ và người nhà lý trưởng chứng tỏ điều gì ở người phụ nữ nông thôn ấy? Giáo viên nêu vấn đề : + Đây là người đần bà đanh đá, ghê gớm ? + Đây là người phụ nữ nông dân thuần hậu, cam tâm chịu đựng song khi bị đẩy tới bước đường cùng tự phát vùng dậy đấu tranh ? + Chống lại tên cai lệ và người nhà lý trưởng là thể hiện tình yêu thương chồng, kiên quyết bảo vệ chồng khi bị đau ốm, không cho kẻ khác hành hạ ? Giáo viên giám sát tranh luận của HS, chuẩn bị một vài câu hỏi cho từng nhóm theo mhững ý các em nêu ra để tất cả học sinh đều có thể tham gia tranh luận. Từ đó giúp các em chốt lại vấn đề: Sự thay đổi thái độ của chị Dậu liên quan mật thiết tới quá trình diễn biến tâm lý của chị. Từ đó toát lên vẻ đẹp tiềm ẩn của người phụ nữ nông dân giàu đức hy sinh. Hành động của chị tuy là bột phát song khẳng định chân lý: “ở đâu có áp bức ở đó có đấu tranh”. Chị hiện lên như một ánh sáng chói loà trong màn đêm của “Tắt đèn”… Bài tập nhóm rất đa dạng có thể là viết một bài báo về một sự kiện trong câu chuyện, một lời thoại và một đoạn trích trong bài học. Ví dụ: GV có thể tổ chức bài tập nhóm để học sinh có ý kiến với truyện ngắn “Lão Hạc” (Ngữ văn 8 tập 1) *Vấn đề thảo luận: Cái chết của Lão Hạc gợi cho em suy nghĩ gì về xã hội thực dân nửa phong kiến thời bấy giờ ? Giáo viên: + Chia lớp thành 4 nhóm (theo đơn vị tổ). Mỗi nhóm có một nhóm trưởng, một thư ký. + Định hướng cho các nhóm thảo luận theo hướng sau: ? Nếu không tự tử lão Hạc sẽ sống kiếp như thế nào ? (Tổ 1) ? Cái chết của lão Hạc có phù hợp với diễn biến tâm lý, tính cách của lão Hạc hay không ? (Tổ 2) ? Tại sao Nam Cao không giải quyết cái chết của lão Hạc bằng cách khác ? (Tổ 3) ? Thông qua cái chết của lão Hạc tác giả muốn nói điều gì? (Tổ 4) - Thời gian để các nhóm thảo luận 2 phút - Các tổ cử đại diện, trình bày ý kiến của mình - Các thành viên của nhóm khác đặt câu hỏi những chỗ mình chưa hiểu để đại diện của nhóm kia trả lời (nếu không trả lời được các thành viên trong nhóm khác có thể bổ xung). - GV nhận xét rút ra kết luận về cái chết của lão Hạc. Nhều tác phẩm của Nam Cao viết về tình cảm “sống mòn” – “chết mòn” của con người dưới xã hội cũ, nhưng khác với các nhân vật khác như Chí Phèo (Chí Phèo), bà cháu cái Tí (Một bữa no), hay Binh Tư,… ta thấy nhân cách rõ hơn của lão Hạc. Trước cái đói và miếng ăn, trước tình cảnh khốn cùng nhiều nhân vật gục ngã. Với lão Hạc, tác giả đặt nhân cách con người bên bờ vực của hoàn cảnh khốn cùng để thử thách suy nghiệm. Sự lựa chọn cái chết cái chết trong đau đớn tuyệt vọng của lão Hạc đem tới cho người đọc một nỗi đau đớn xót xa, thương cảm, nhưng đồng thời nhen nhóm trong ta niềm tin ở cái đẹp, cái thiện, ở nhân cách con người. Đói nghèo không làm cho lão Hạc thay đổi nhân cách. Nhưng để giữ gìn nhân cách lão Hạc đã phải “sống mòn” chết thảm cả về thể xác lẫn tinh thần. Thông qua cái chết thảm khốc, tất yếu của lão Hạc, Nam Cao đã phơi bày ra trước mắt người đọc số phận của những người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng tám, đồng thời lên tiếng tố cáo chế độ thực dân phong kiến đã đẩy họ vào bước đường cùng. Cái kiếp của họ như chính lão Hạc đã nói một cách chua chát là không bằng kiếp chó. Lão Hạc muốn lương thiện thì cũng phảI chết như Chí Phèo muốn làm người lương thiện phải tự đâm vào ngực mình. 3. Bài tập sáng tạo (viết, vẽ…) thường là bài giao cho cá nhân nhưng cũng có thể đem lại kết quả đáng ngạc nhiên khi làm việc theo nhóm. Ví dụ 1: Sau khi đọc hiểu văn bản “Chiếc lá cuối cùng” của Ô -hen – ri, học sinh có thể làm việc theo nhóm: vẽ và kể lại một tình tiết có ấn tượng trong tác phẩm. ở bài tập này hầu như các em vẽ hình ảnh chiếc lá cuối cùng: GV cho các nhóm thực hiện bài tập: - Thi vẽ (nhanh, đẹp) - Các tranh vẽ của học sinh (các nhóm) được sắp xếp theo thứ tự thời gian (treo trên bảng). - Lần lượt đại diện nhóm kể lại câu chuyện từ chiếc lá… - Hướng dẫn học sinh nhận xét, đánh giá lẫn nhau giữa các nhóm. Ví dụ 2: Bài “Cô bé bán diêm” Ví dụ 3: Bài “Tức cảnh Pác Bó” Hai văn bản trên cũng có thể tổ chức cho học sinh vẽ tranh chi tiết hay lấy một hình ảnh sâu sắc nhất cho các em thảo luận. 4. Một hình thức học tập theo nhóm ở mức độ quy mô hơn đó là hình thức tổ chức các câu lạc bộ văn học: ví dụ lớp 9: “câu lạc bộ truyện Kiều” tập trung những em yêu thích truyện Kiều: Thi ngâm hoạ, thi bình hình ảnh thơ… hoặc “câu lạc bộ những em yêu thích văn học”: ở đó, các em được tập làm thơ (thơ lục bát, thơ bảy chữ,…) được trao đổi ý kiến với nhau về bài viết của mình, của bạn từ đó tự rèn luyện kĩ năng nghe, đọc, nói, viếtmột cách có hiệu quả hơn. Đây là một hoạt động có tính chất nâng cao nhằm phát huy năng khiếuvăn học của học sinh (giành cho học sinh khá giỏi). Để đạt hiệu quả cao ở hình thức trên tôi luôn chú ý để thực hiện tích hợp văn với tập làm văn, văn với mĩ thuật, âm nhạc thông qua việc tập vẽ tranh minh hoạ, sưu tầm bài hát cùng chủ đề, các bài hát được phổ nhạc từ thơ. Ví dụ: Bài “ Mùa xuân nho nhỏ ” ( Thanh Hải ) “ Viếng Lăng Bác ” ( Viễn Phương ) “ Đồng chí ” ( Chính Hữu ) GV đều có thể cho học sinh vẽ tranh minh hoạ, hát ( vì các bài thơ trên đều đã được phổ nhạc ). III. Kết quả: Mặc dù mới chỉ là những thử nghiệm ban đầu, chưa được thực hiện thường xuyên ở tất cả các giờ dạy đọc hiểu văn bản, song tôinhận thấy hình thức học tập theo nhóm trong các giơ dạy đọc hiểu văn bảnđạt được những kết quả tích cực: - Tạo cho học sinh từ tư duy độc lập đã bộc lộ những suy nghĩ cảm nhận của mình rước tập thể “ ngại nói ” đã “ tự giác nói ”. - Giờ học sôi nổi, các em hứng thú trao đổi thảo luận, đưa ra những ý kiến rất mới mẻ độc đáo, táo bạo. Tạo cho học sinh tác phong nhanh nhẹn hoạt bát, hỗ trợ tích cực cho kĩ năng nói, viết. - GV đóng vai trò chủ đạo, dẫn dắt, học sinh chủ động trong quá trình cảm thụ dẫn đến hiểu tác phẩm. Chính vì vậy học sinh của tôi đã yêu môn học có nhiều học sinh giỏi, tỉ lệ yếu kém giảm. - Năm học 2007 – 2008: + Các giờ dạy của tôi qua thao giảng, thanh kiểm tra đều được đánh giá xếp loại: Giỏi. + Có 02 em học sinh đạt học sinh giỏi cấp thị (01 giảI nhất); 02 em đạt học sinh giỏi cấp tỉnh (1 giải nhì; 1 giải 3) chất lượng bộ môn đạt 100% với 85% khá giỏi. IV. Bài học kinh nghiệm: 1. Với những vấn đề khó, cần sử dụng hình thức dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ. Để hình thức theo nhóm thực sự tích cực, có kết quả, từng cá nhân trong nhóm phải làm việc độc lập. Sau đó các cá nhân cùng nhau trao đổi, thảo luận dưới sự điều hành của nhóm trưởng để đi đến thống nhất thành ý kiến chung của cả nhóm mình trước tập thể lớp. Các nhóm tranh luận dưới sự hướng dẫn, gợi mở của giáo viên để được các mục tiêu của bài học. Hình thức học tập hợp tác theo nhóm không chỉ được tiến hành trong từng tiết học ở trên lớp, không nên lạm dụng hình thức này để giải quyết những câu hỏi vụn vặt. ở trên lớp, chỉ nên dùng hình thức học tập theo nhóm để giải quyết những câu hỏi nêu vấn đề, cần huy động trí tuệ tập thể để tháo gỡ những học tập ở mức độ cao. Hình thức học tập theo nhóm còn và cần phải được vận dụng nhiều hơn ở bên ngoài lớp học, ở giờ ngoại khoá hoặc giờ học tập theo nhóm. ở đây, điều kiện thời gian và không gian cho phép các em đào sâu vấn đề, bày tỏ ý kiến riêng, tranh luận tự do và thẳng thắn, mạnh dạn trao đổi kinh nghiệm và kiến thức mà mình tích luỹ được, cố điều kiện được học tập lẫn nhau, giải tháo gỡ giúp nhau nhiều vấn đề mà trong khuôn khổ hạn chế về không gian và thời gian, môi trường quy phạm của một tiết học các em không có điều kiện để tự bộc lộ, tự thể hiện mình. Học tập theo nhóm cần được tiến hành theo một quy trình: trước, trong và sau giờ học. Trước giờ học, học tập hợp tác theo nhóm là điều kiện để các em thâm nhập, tiếp cận bài học. Nhiều vấn đề mới mẻ đôi khi vượt quá khả năng của một cá nhân hoặc dễ dàng với cá nhân này nhưng lại là khó khăn với một cá nhân khác. Hoặc có những tác phẩm lớn nhiều chi tiết, sự kiện, nhân vật cần phải đọc và nắm vững trước khi đi vào tìm hiểu từng đoạn trích (chẳng hạn các đoạn trích của Truyện Kiều). Học tập theo nhóm nhỏ là điều kiện giúp nhau vượt qua các hạn chế, thiếu hụt kiến thức, đạt tới mặt bằng tri thức cơ sở để có điều kiện tiếp thu bài học. Trong giờ học, một lần nữa những kĩ năng, những kiến thức của từng nhóm đã đạt được trước đó được vận dụng giải quyết những nhiệm vụ học tập cụ thể được GV đặt ra. Qua trao đổi thảo luận, kinh nghiệm của các nhóm bạn được học tập để bù đắp thêm được những bất cập, thiếu hụt của nhóm mình. Tuy nhiên không phải lúc nào, tất cả mọi vấn đề cũng được giải quyết tiếp những nhiệm vụ được đặt ra sau giờ học. 2. Để tổ chức hoạt động nhóm đạt kết quả khâu chuẩn bị là rất cần thiết dành cho cả GV và học sinh *Với GV: + Nghiên cứu nội dung bài dạy để định hướng phần kiến thức tổ chức hoạt động nhóm: Thời gian; trước giờ học; trong giờ học; sau giờ học. + Cần thể hiện rõ, tập trung vào các nội dung tổ chức hoạt động nhóm, xem xét vận dụng những nội dung có liên quan để hướng dẫn một cách cụ thể cho từng cá nhân học sinh khi tham gia. + Các nội dung sinh hoạt nhóm phải được khai thác tính tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh; chuẩn bị phương tiện đồ dùng: tranh ảnh, bảng phụ, tư liệu tham khảo. *Với học sinh: Việc chuẩn bị của các em không kém phần quan trọng: Ôn lý thuyết, những bài tập có liên quan, tập đọc, tập ngâm, tập kể, tập vẽ, tập hát,… sưu tầm những kiến thức theo hướng dẫn của cô giáo. Việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị là rất cần thiết không thể chung chung tuỳ tiện mà phải có yêu cầu cụ thể. Để làm tốt được thao tác này trước hết bản thân GV phải chuẩn bị chu đáo từ phần nghiên cứu chương trình, thiết kế giáo án. V. Kết luận: Trên đây là những công việc tôi đã thực hiện về một khía cạnh trong rất nhiều vấn đề cần bàn để có một gìơ học đọc hiểu văn bản đạt hiệu quả. Việc làm này chưa thực sự là thường xuyên, còn có những vấn đề bất cập song qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy việc tổ chức hoạt động nhóm nếu được đầu tư và thực hiện đúng chỗ, đúng lúc cũng sẽ đạt được kết quả tích cực; giờ học sôi nổi, học sinh năng động hơn trong cảm thụ văn bản. Đồng thời cũng bộc lộ được những điểm yếu trong đọc – nói – viết để từ đó GV có biện pháp thích hợp giúp các em khắc phục từng bước , thực hiện tốt mục tiêu mon học Ngữ văn trong chương trình THCS. Tôi mạnh dạn trình bày những vấn đề trên với tinh thần học hỏi để nâng cao trình độ nghiệp vụ của bản thân, hoàn thành tốt nhiệm vụ giảng dạy. Rất mong được sự chỉ đạo của cấp trên, sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp. Cửa Ông, ngày 25 tháng 5 năm 2008 Người thực hiện

File đính kèm:

  • docsang kien kinh nghiem(2).doc
Giáo án liên quan