Sử dụng di sản văn hóa trong dạy học ở trường Phổ thông

Nhận dạng di sản: quan niệm di sản, đặc điểm, phân loại di sản

a. Khái niệm về di sản:

Di sản văn hóa Việt Nam bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại. Di sản văn hoá Việt Nam có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.

b. Đặc điểm của di sản văn hoá Việt Nam:

Di sản văn hoá Việt Nam là những giá trị kết tinh từ sự sáng tạo văn hoá của cộng đồng 54 dân tộc anh em, trải qua một quá trình lịch sử lâu đời, được trao truyền, kế thừa và tái sáng tạo từ nhiều thế hệ cho tới ngày nay. Di sản văn hoá Việt Nam là bức tranh đa dạng văn hoá.

Di sản văn hoá Việt Nam là những giá trị sáng tạo từ việc học hỏi, giao lưu và kế thừa từ các nền văn hoá và văn minh của nhân loại. Những giá trị đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa văn hoá và văn minh của nhân loại với nền văn hoá bản địa lâu đời của các dân tộc Việt Nam.

Di sản văn hoá Việt Nam, đặc biệt là di sản văn hoá phi vật thể có sức sống mạnh mẽ, đang được bảo tồn và phát huy trong đời sống của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá thông qua Luật di sản văn hoá năm 2001, được sửa đổi năm 2009.

 

doc14 trang | Chia sẻ: trangtt2 | Ngày: 23/06/2022 | Lượt xem: 419 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sử dụng di sản văn hóa trong dạy học ở trường Phổ thông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỬ DỤNG DI SẢN VĂN HÓA TRONG DẠY HỌC Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG Phát biểu của Tiến sĩ Katherine Muller – Marin, Trưởng Đại diện UNESCO tại Việt Nam khai mạc Hội thảo Tập huấn Giáo viên về Giáo dục Di sản tại Hà Nội ngày 21/01/2013 : “Giáo dục Di sản giúp chúng ta giữ gìn bản sắc dân tộc, hiểu rõ về quá khứ, đồng thời kết nối với hiện tại và tương lai. Di sản là yếu tố tạo nên sự độc đáo của một quốc gia, và sự khác biệt với các quốc gia khác trong một thế giới toàn cầu hóa. Nó nhắc nhở cho chúng ta về bản thân chúng ta là ai, chúng ta từ đâu đến và chúng ta muốn đi đến đâu. Giáo dục di sản sẽ dạy cho các thế hệ tương lai cách bảo tồn di sản vì hạnh phúc trong cuộc sống của chính họ” “Một kho tàng tri thức được chứa đựng trong các di tích, đền chùa, bảo tàng cũng như trong môi trường sống xung quanh chúng ta và trong bản thân mỗi người dân; di sản văn hóa là nguồn tài nguyên vô tận cho học tập suốt đời” DI SẢN VĂN HÓA VỚI GIÁO DỤC VÀ DẠY HỌC Ở PHỔ THÔNG 1. Nhận dạng di sản: quan niệm di sản, đặc điểm, phân loại di sản Khái niệm về di sản: Di sản văn hóa Việt Nam bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại. Di sản văn hoá Việt Nam có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Đặc điểm của di sản văn hoá Việt Nam: Di sản văn hoá Việt Nam là những giá trị kết tinh từ sự sáng tạo văn hoá của cộng đồng 54 dân tộc anh em, trải qua một quá trình lịch sử lâu đời, được trao truyền, kế thừa và tái sáng tạo từ nhiều thế hệ cho tới ngày nay. Di sản văn hoá Việt Nam là bức tranh đa dạng văn hoá. Di sản văn hoá Việt Nam là những giá trị sáng tạo từ việc học hỏi, giao lưu và kế thừa từ các nền văn hoá và văn minh của nhân loại. Những giá trị đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa văn hoá và văn minh của nhân loại với nền văn hoá bản địa lâu đời của các dân tộc Việt Nam. Di sản văn hoá Việt Nam, đặc biệt là di sản văn hoá phi vật thể có sức sống mạnh mẽ, đang được bảo tồn và phát huy trong đời sống của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá thông qua Luật di sản văn hoá năm 2001, được sửa đổi năm 2009. Phân loại di sản: Di sản văn hóa Việt Nam được chia thành hai loại: di sản văn hoá vật thể và di sản văn hoá phi vật thể. Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác. Di sản văn hoá vật thể bao gồm: Di tích lịch sử - văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học. Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử thẩm mỹ, khoa học. Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học. Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên. Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học. Di sản văn hoá phi vật thể bao gồm: Tiếng nói, chữ viết của các dân tộc Việt Nam;  Ngữ văn dân gian, bao gồm sử thi, ca dao, dân ca, tục ngữ, hò, vè, câu đố, truyện cổ tích, truyện trạng, truyện cười, truyện ngụ ngôn, hát ru và các biểu đạt khác được chuyển tải bằng lời nói hoặc ghi chép bằng chữ viết;  Nghệ thuật trình diễn dân gian, bao gồm âm nhạc, múa, hát, sân khấu và các hình thức trình diễn dân gian khác; Tập quán xã hội, bao gồm luật tục, hương ước, chuẩn mực đạo đức, nghi lễ và các phong tục khác;  Lễ hội truyền thống;  Nghề thủ công truyền thống; Tri thức dân gian;  2. Ý nghĩa của di sản đối với hoạt động dạy học, giáo dục phổ thông Góp phần đẩy mạnh, hướng dẫn hoạt động nhận thức cho học sinh Giúp học sinh phát triển kỹ năng học tập, tự chiếm lĩnh kiến thức Kích thích hứng thú nhận thức của học sinh Phát triển trí tuệ của học sinh Giáo dục nhân cách học sinh Góp phần phát triển một số kỹ năng sống ở học sinh + Kỹ năng giao tiếp + Kỹ năng lắng nghe tích cực + Kĩ năng trình bày suy nghĩ ý tưởng + Kỹ năng hợp tác + Kỹ năng tư duy phê phán + Kỹ năng đảm nhận trách nhiệm + Kỹ năng đặt mục tiêu + Kỹ năng quản lí thời gian + Kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin Tạo điều kiện tổ chức quá trình họat động của giáo viên và học sinh một cách hợp lý 3. Những di sản thường được sử dụng trong dạy học, giáo dục ở nhà trường phổ thông Tính đến năm 2012, Việt Nam có : 7 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới (Quần thể di tích Cố đô Huế; Vịnh Hạ Long, Phố Cổ Hội An; Khu di tích Mỹ Sơn,Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, Hoàng Thành Thăng Long; Thành Nhà Hồ ); 6 di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại (Nhã nhạc cung đình Huế; Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên; Không gian văn hóa Quan họ Bắc Ninh; Ca trù, Hội Gióng; Hát Xoan); 3 di sản thông tin tư liệu thế giới (Mộc bản triều Nguyễn; 82 bia đá ở Văn Miếu Quốc tử giám; Mộc bản kinh Phật chùa Vĩnh Nghiêm); 8 khu dự trữ sinh quyển thế giới (rừng ngập mặn Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh; đảo Cát Bà, Hải Phòng; khu dự trữ sinh quyển ven biển và biển đảo Kiên Giang; khu dự trữ sinh quyển đồng bằng châu thổ sông Hồng; khu dự trữ sinh quyển miền tây Nghệ An, khu dự trữ sinh quyển mũi Cà Mau; khu dự trữ sinh quyển Cù lao Chàm; khu dự trữ sinh quyển Đồng Nai); 1 di sản thiên nhiên thuộc mạng lưới công viên địa chất toàn cầu (Cao nguyên đá Đồng Văn); Trên 3000 di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh cấp quốc gia; hàng triệu mẫu vật, di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia được lưu giữ trong hơn 120 bảo tàng và các sưu tập tư nhân. Đặc biệt, các hiện vật văn hóa trong cuộc sống hàng ngày, các di sản văn hóa phi vật thể đang sống trong cộng đồng rất giàu có nhưng ít được biết đến và khai thác. Di sản văn hoá Việt Nam là nguồn tài nguyên vô tận để dạy và học suốt đời. Kho tàng tri thức chứa đựng trong hệ thống di tích, đền chùa, bảo tàng, trong con người và trong môi trường sống chung quanh chúng ta vô cùng phong phú. Mọi di sản văn hoá đều có tiềm năng và điều kiện để sử dụng trong dạy học, giáo dục ở trường phổ thông. Những di sản của địa phương bao gồm các di tích, di vật, những đồ vật thể hiện văn hóa đời thường và các di sản phi vật thể gần gũi với nhà trường là tiềm năng trực tiếp, dễ khai thác và phát huy thường xuyên, hiệu quả nhất. Nhà trường cần ưu tiên sử dụng những di sản này trong dạy và học 2. Các hình thức tổ chức dạy học với di sản (Các hình thức sử dụng di sản trong dạy học một số bộ môn ở trường phổ thông). 2.1. Khai thác, sử dụng tài liệu về di sản để tiến hành bài học ở trường phổ thông Một trong những biện pháp quan trọng góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn là sử dụng tài liệu về di sản khi tiến hành bài học trên lớp. Tài liệu về di sản đóng vai trò là một nguồn kiến thức góp phần bổ sung, cụ thể hoá, làm phong phú hơn nội dung bài học. Nó làm cho những kiến thức trong bài học không chỉ đơn thuần là con số, các sự kiện khô khan mà sinh động hơn, có hồn hơn, giúp cho học sinh tái hiện được kiến thức và hiểu bài nhanh, nhớ lâu hơn. Tuy nhiên, để khai thác các tài liệu về di sản phục vụ cho bài nội khoá thì giáo viên phải tuân thủ những yêu cầu sau: - Giáo viên phải tiến hành chọn lọc kỹ và xác minh tính chân thực của các tài liệu về di sản. - Tài liệu di sản có nhiều nhưng do thời gian của một tiết trên lớp có hạn (45 phút) nên đòi hỏi giáo viên phải biết chọn lọc những tài liệu điển hình nhất, sắp xếp các tài liệu đó thành hệ thống phù hợp với tiến trình bài học kết hợp với các phương tiện trực quan, phương tiện kỹ thuật hiện đại làm cho bài học sinh động hơn. Sử dụng tài liệu về di sản trong tiến hành bài học trên lớp là phương pháp khá phổ biến được nhiều giáo viên sử dụng. Do những điều kiện chủ quan và khách quan của từng trường, nên giáo viên nhiều khi không thể tiến hành bài nội khoá ngay tại nơi có di sản. Để bài giảng sinh động, hấp dẫn hơn, gây hứng thú học tập cho học sinh, giáo viên phải sử dụng các phương tiện trực quan trong bài giảng. Có thể tiến hành khai thác tài liệu về di sản bằng cách: Thứ nhất, khi trực tiếp đến nơi có di sản thì điều đầu tiên là giáo viên phải tìm hiểu bao quát quá trình hình thành và xây dựng của khu có di sản. Sau đó đi tham quan toàn bộ để xác định những tài liệu nào (tranh ảnh, hiện vật, những mẩu chuyện) phù hợp với nội dung giảng dạy. Mỗi giáo viên phải luôn có ý thức sưu tầm tư liệu để phục vụ bài giảng. Nhà trường và giáo viên nên phát động học sinh tham gia sưu tầm tài liệu, tranh ảnh hoặc hiện vật về di sản phục vụ cho hoạt động dạy học. Công việc này có thể phát động trong các đợt thi đua chào mừng những ngày lễ lớn, thông qua đây mà tạo hứng thú học tập và bước đầu tập dượt nghiên cứu khoa học cho học sinh. Sau khi đã sưu tầm được tài liệu về di sản, giáo viên phải tiến hành phân loại cho phù hợp với nội dung từng bài học cụ thể và sắp xếp thành hồ sơ dạy học. Khi tiến hành soạn giáo án, giáo viên phải chọn những tài liệu điển hình nhất, cần thiết nhất để đưa vào bài giảng. Những tài liệu về di sản được sử dụng trong hình thức này như là các phương tiện trực quan, nguồn kiến thức, do đó cần kết hợp chặt chẽ với trình bày miệng và các phương pháp khác. Song phải đảm bảo phù hợp với từng đối tượng học sinh. 2.2. Tiến hành bài học tại nơi có di sản Bài học tại thực địa. Bài học là hình thức tổ chức cơ bản của việc dạy học ở trường phổ thông. Bài học không chỉ tiến hành ở trên lớp mà còn có thể tiến hành ở nơi có di sản hay thực địa. Tuy hình thức học tập có thay đổi song bài học tại thực địa là bài học nội khoá, một mắt xích trong toàn bộ khoá trình có liên quan đến các bài học khác. Việc học tập loại bài này là bắt buộc đối với tất cả học sinh. Bài học tại thực địa có ý nghĩa rất lớn đối với học sinh về cả ba mặt: kiến thức, tư tưởng, tình cảm và kỹ năng. Bởi vì thực địa – nơi có di sản là những dấu vết, mảnh vụn của quá khứ còn sót lại nên khi tiến hành bài học nội khoá tại đây tức là học sinh đã được quan sát các dấu vết, mảnh vụn của quá khứ để bổ sung, cụ thể hoá những kiến thức các em đang nghiên cứu. Nó giúp các em phát triển trí tưởng tượng, đa dạng hoá hoạt động nhận thức, gây hứng thú học tập bộ môn. Tiến hành học tại thực địa là phương thức thực hiện dạy học gắn với đời sống có tác dụng nâng cao hiểu biết về kiến thức môn học, về văn hoá – giáo dục, lòng yêu quê hương, đất nước, óc thẩm mĩ cho các em. Bài học tại di sản cũng phải tuân thủ đầy đủ các yêu cầu của một bài học nội khóa đồng thời cũng phải thực hiện đầy đủ các yêu cầu của bài học tại thực địa. 2.2.1. Để tiến hành bài học tại thực địa cần bảo đảm một số yêu cầu sau: Thứ nhất, công tác chuẩn bị cho việc tiến hành bài học tại nơi có di sản phải được thực hiện chu đáo, kỹ lưỡng. Một là, chọn vấn đề, địa điểm phù hợp với mục tiêu, nội dung, số tiết học và điều kiện tiến hành. Nếu ở địa phương trường đóng hoặc các vùng lân cận có di sản liên quan đến những sự kiện lớn được ghi trong chương trình môn học thì cố gắng tiến hành bài học tại di sản, còn ở những địa phương không có di sản liên quan đến kiến thức trong chương trình thì tổ chức dạy học tại di sản những bài học về địa phương (lịch sử địa phương, địa lý địa phương, âm nhạc dân gian ở địa phương). Hai là, phải lập kế hoạch cụ thể về công tác chuẩn bị và tiến hành bài học, Đi khảo sát thực địa, liên hệ với các cơ quan quản lý di sản. Sau khi đã lựa chọn được vấn đề dạy học và di sản phù hợp, giáo viên phải xây dựng được kế hoạch chuẩn bị và tiến hành bài học tại nơi có di sản một cách chi tiết cho từng nội dung công việc, thời gian thực hiện, lực lượng phối hợp, phương tiện thiết bị hỗ trợ. Kế hoạch tiến hành bài học tại di sản phải báo cáo với tổ chuyên môn, lãnh đạo nhà trường để được duyệt thực hiện và có kế hoạch hỗ trợ. Tiếp đó, giáo viên tiến hành khảo sát thực địa, tìm hiểu kỹ lưỡng các đặc điểm về vị trí địa lí, địa hình địa vật tự nhiên, các hiện vật, chứng tích có liên quan đến nội dung bài học. Ngoài ra, khi làm việc với các cơ quan quản lý di sản, giáo viên cần chú ý khai thác, tìm hiểu các nguồn tài liệu về di sản và các nội dung bài học có liên quan đến di sản bao gồm tài liệu hiện vật gốc, sa bàn, mô hình phục chế, phim ảnh, các công trình nghiên cứu, bài viết chuyên đề. Đây sẽ là nguồn tài liệu về địa phương phong phú, có giá trị để giáo viên bổ sung vào bài giảng hoặc thiết kế bài giảng về địa phương. Ba là, giáo viên phải chuẩn bị trước cho học sinh về tư tưởng và kiến thức chuyên môn như nêu mục đích, yêu cầu của bài học và nội dung kiến thức cơ bản cần tìm hiểu trước ở nhà, thông báo sơ qua về địa điểm có di sản, sự kiện, nội dung kiến thức liên quan đến di sản, yêu cầu các em sưu tầm thêm tài liệu có liên quan; chuẩn bị đồ dùng trực quan, phương tiện dạy học cần thiết; phổ biến nội qui học tập tại thực địa. Thứ hai, nội dung bài học tại di sản phải đảm bảo tính chính xác, cơ bản và bám sát nội dung kiến thức mà di sản phản ánh. Chuẩn bị nội dung bài học tại nơi có di sản là công việc quan trọng mà giáo viên phải thực hiện tốt. Nội dung bài học tại di sản vừa phải đảm bảo tính chính xác, cơ bản, vừa sức hoạt động nhưng đồng thời phải phù hợp, bám sát nội dung kiến thức mà các chứng tích, hiện vật tại di sản phản ánh. Một là, nội dung bài học phải là kiến thức cơ bản được quy định trong chương trình của lớp học, nhưng phải lựa chọn những kiến thức phù hợp với di sản. Tuy nhiên, cần phải lưu ý là “không cần và không thể giới thiệu toàn bộ di sản hoặc toàn bộ bài học mà giáo viên chỉ lựa chọn những kiến thức được minh chứng rõ ràng qua di vật của di sản”. Đối với bài học có trong SGK môn học, Bài giảng tại di sản cần bổ sung các tài liệu địa phương phù hợp bằng cách vừa giảng, vừa kết hợp tổ chức cho học sinh quan sát, tìm hiểu các hiện vật, chứng tích thực địa có liên quan tới bài học. Tuy nhiên, giáo viên phải chú ý làm sao để đảm bảo mạch nội dung chương trình của bài học, tránh quá tải đối với hoạt động nhận thức của học sinh, hay quá ôm đồm kiến thức về địa phương. Đối với bài học về địa phương, nội dung bài giảng tại di sản có thể do giáo viên thiết kế theo tài liệu hướng dẫn của Sở Giáo dục và Đào tạo hoặc do giáo viên tự biên soạn. Thứ ba,bài học tại địa điểm có di sản phải phát triển được các hoạt động nhận thức tích cực, độc lập óc quan sát, đặc biệt là tư duy độc lập của học sinh. Để phát triển tính tích cực, độc lập trong nhận thức của học sinh, giáo viên nên vận dụng kiểu dạy học nêu vấn đề kết hợp với trao đổi, đàm thoại, trực quan và phối hợp các dạng tổ chức hoạt động học tập (toàn lớp, nhóm, cá nhân) một cách tốt nhất. Thứ tư, bài học tại di sản phải giúp học sinh “Trực quan sinh động” các chứng tích, hiện vật, phản ánh các kiến thức của môn học mà các em đang tìm hiểu. Đây là ưu thế vượt trội của bài học tại nơi có di sản so với bài học ở trên lớp. Vì vậy, bài học tiến hành tại nơi có di sản phải chú ý phát triển óc quan sát của học sinh, khi tiến hành bài học tại di sản. Thứ năm, phải tổ chức cho học sinh tự học trong và sau giờ học. Đây là điều kiện cần thiết để bài học tại di sản đạt kết quả tốt. Học sinh chỉ có thể trả lời được các câu hỏi, chỉ ra được các mối quan hệ bên trong giữa các đối tượng quan sát và bản chất của hiện tượng trên cơ sở biết phân tích, so sánh, khái quát các mặt chủ yếu của những điều quan sát được. Vì vậy, phải phát triển khả năng tự học của học sinh trong và sau bài học. Khi tiến hành bài học tại thực địa, tuỳ vào điều kiện cụ thể, giáo viên có thể tổ chức các hoạt động tự học cho học sinh như: - Hướng dẫn học sinh tập dượt nghiên cứu thông qua tiếp xúc với các loại tài liệu tại di sản như tìm hiểu niên đại, xuất xứ, chất liệu, hình thức thể hiện (kiểu kiến trúc, hoa văn trang trí, kiểu chữ) và nội dung kiến thức của các dấu vết, hiện vật liên quan đến bài học. - Hướng dẫn học sinh làm các loại bài tập thực hành từ đơn giản đến phức tạp: Vẽ sơ đồ khu di sản, vẽ lược đồ thể hiện diễn biến sự kiện, hiện tượng đã diễn ra tại nơi có di sản, lập hồ sơ, đánh giá, phân loại hiện vật tại di sản - Hướng dẫn học sinh viết bài thu hoạch về bài học. - Kết hợp tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động ngoại khoá sau bài học như tham quan toàn bộ khu di sản, tổ chức các trò chơi lịch sử, đóng kịch diễn lại các câu chuyện, sự tích liên quan đến di sản 2.2.2. Các cách tiến hành bài học tại di sản Tại nơi có di sản, giáo viên có thể tiến hành hai loại bài học: bài học nghiên cứu kiến thức mới và bài học ôn tập, sơ kết, tổng kết. Việc tiến hành bài học tại di sản rất đa dạng, phong phú, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể và sự sáng tạo của giáo viên. Giáo viên giới thiệu những nét cơ bản về nội dung kiến thức liên quan đến di sản. Một cán bộ địa phương (cán bộ lãnh đạo, cán bộ phụ trách văn hoá, hay người đã tham gia, chứng kiến) trình bày cụ thể về nội dung kiến thức bài học liên quan đến di sản. Giáo viên chốt lại những vấn đề chủ yếu, nhất là những vấn đề được quy định trong chương trình học. Tuỳ theo điều kiện cụ thể mà tổ chức các hoạt động sau buổi học. Tổ chức các hoạt động dạy học: Giáo viên cần kết hợp khéo léo, hợp lí và nhuần nhuyễn các biện pháp: + Kết hợp việc huy động kiến thức cũ, kiến thức mới đã chuẩn bị trước của học sinh với nguồn kiến thức của bài học ít hay không được phản ánh bởi các chứng tích, hiện vật tại di sản. + Kết hợp nhuần nhuyễn giữa việc hướng dẫn học sinh quan sát thực địa – di sản với trao đổi, thảo luận để làm rõ kiến thức trọng tâm của bài học. + Sử dụng đồ dùng trực quan kết hợp với chứng tích, hiện vật tại di sản. + Kết hợp nhuần nhuyễn, hợp lý giữa việc hướng dẫn học sinh quan sát chứng tích, hiện vật tại di sản với việc trình bày có hình ảnh sinh động của giáo viên. + Nếu bài học tại thực địa – di sản là một vấn đề chung về đất nước, dân tộc có trong SGK thì giáo viên cần gắn nội dung bài học với thực tế địa phương. - Kết thúc bài học, giáo viên có thể dựa vào những dấu vết, hiện vật tại di sản để kiểm tra hoạt động nhận thức của học sinh, học sinh báo cáo kết quả đồng thời kết hợp tổ chức một số hoạt động ngoại khoá thích hợp. 2.2.3. Tổ chức tham quan học tập tại nơi có di sản phải được tổ chức chặt chẽ, theo đúng chương trình quy định, tránh việc làm tuỳ tiện không có kế hoạch vì đây là một hoạt động nội khoá. 2.3. Tổ chức tham quan ngoại khoá, trải nghiệm di sản Tổ chức tham quan ngoại khoá, trải nghiệm di sản cho học sinh là hình thức phổ biến, có hiệu quả trong các hoạt động giáo dục ở trường phổ thông. Song việc tổ chức học sinh tham quan ngoại khoá, trải nghiệm di sản đòi hỏi phải bỏ nhiều công sức để chuẩn bị và tiến hành về thời điểm tổ chức, có thể tiến hành vào đầu năm học hoặc nhân dịp kỉ niệm các ngày lễ lớn trong năm như ngày thành lập quân đội nhân dân Việt Nam (22/12), ngày thành lập Đảng (03/02), kỉ niệm ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5) ngày truyền thống của quê hương. Để cho việc tổ chức được chu đáo, tránh các sự cố xảy ra, cần phải có kế hoạch và phương pháp tiến hành, quy định thời gian và nhiệm vụ của học sinh. Đồng thời để buổi tham quan di sản đạt kết quả tốt cần có sự phối hợp giữa giáo viên các bộ môn liên quan với tổ chức Đoàn – Đội trong nhà trường. 2.4. Sử dụng di sản để tổ chức các hoạt động ngoại khoá khác 2.4.1. Khai thác và sử dụng tài liệu về di sản để tổ chức triển lãm, ra báo học tập Những tài liệu dùng trong triển lãm, ra báo học tập sẽ được sử dụng vào xây dựng phòng học bộ môn để phục vụ dạy học lâu dài. 2.4.2. Tổ chức thi tìm hiểu về di sản ở địa phương Hoạt động ngoại khoá này cũng có thể thực hiện nhân dịp kỉ niệm các ngày kỉ niệm lớn của đất nước, ngày truyền thống địa phương kết hợp với các phong trào thi đua của nhà trường. 2.4.3. Kể chuyện, nói chuyện về di sản * Kể chuyện: Đây là hình thức hoạt động ngoại khoá hấp dẫn, dễ làm và có tác dụng giáo dục cao. Nội dung kể chuyện về di sản là câu chuyện kể phải có chủ đề (về một sự kiện lịch sử, một nhân vật, một địa danh liên quan đến di sản) và dựa vào tài liệu chính xác. Nội dung câu chuyện phải liên quan đến các kiến thức cơ bản trong bài học Kể chuyện phải làm cho người nghe xúc động, như được sống lại với sự kiện ấy, như câu chuyện của các nhân chứng lịch sử hay người kể lại đã “nhập thâm” với sự kiện. * Nói chuyện về di sản: Nói chuyện có nội dung, yêu cầu cao hơn kể chuyện, vì nói chuyện chủ yếu làm cho người nghe nhận thức một cách khái quát, được minh họa dẫn chứng bằng các kiến thức cụ thể theo một chủ đề nào đấy. Người nói chuyện phải là người am hiểu sâu sắc về di sản. Do đó, người nói chuyện thường là giáo viên, cán bộ nghiên cứu, cán bộ giảng dạy trường đại học, cán bộ làm công tác văn hoá, tuyên huấn 3.2. Đánh giá quá trình học tập, đánh giá qua sản phẩm của HS Đánh giá kết quả học tập của học sinh là một hoạt động rất quan trọng trong công tác giáo dục của nhà trường phổ thông. Đánh giá kết quả học tập của học sinh khi giáo viên tiến hành dạy học với di sản có đặc trưng riêng, vẫn cần đảm bảo những yêu cầu chung của công tác đánh giá. Đó là: (i) Bảo đảm tính khách quan, toàn diện, khoa học và trung thực; (ii) Căn cứ vào chuẩn kiến thức, kỹ năng và yêu cầu về thái độ của môn học/ hoạt động giáo dục ở từng lớp, vào mục tiêu giáo dục di sản được xác định ở từng bài/hoạt động; (iii) Phối hợp giữa đánh giá của giáo viên và tự đánh giá của học sinh; (iv) Kết hợp các hình thức đánh giá khác nhau (tự luận, trắc nghiệm khách quan, quan sát, sản phẩm,...). - Trong đánh gía kết quả học tập của học sinh khi dạy học với di sản cần lưu ý thêm đánh giá kết quả giáo dục về sự hiểu biết đối với di sản theo mục tiêu đã xác định và đánh giá các kỹ năng học tập của học sinh với di sản bởi một trong những yêu cầu của dạy học với di sản là học sinh phải được hoạt động chủ động tích cực, được trải nghiệm. Khi được giao một nhiệm vụ học tập cụ thể, kết quả hoàn thành nhiệm vụ phải được học sinh thể hiện qua việc trình bày miệng hoặc trên giấy hoặc trình bày một sản phẩm, một báo cáo; trả lời câu hỏi; ... Quan sát việc thực hiện nhiệm vụ học tập của học sinh cùng những sản phẩm cụ thể ta có thể nhận biết mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các em. - Trong các câu hỏi của bài kiểm tra định kì, thường xuyên (kiểm tra viết và miệng) giáo viên nên thiết kế một câu hỏi có nội dung liên quan đến di sản mà học sinh được tiếp cận. - Trong đánh giá kết quả học tập môn học, thang điểm 10/10 được sử dụng để đánh giá theo quy định, có thể dành một phần điểm đó cho việc đánh giá kết quả giáo dục về di sản của học sinh. Có thể dành từ 1 đến 2 điểm cho những câu hỏi về kiến thức liên quan đến di sản hoặc về kỹ năng liên quan đến việc tìm hiểu di sản. - Dạy học với di sản, tổ chức cho học sinh tìm hiểu di sản giáo viên nên sử dụng phương pháp đánh giá bằng quan sát trực tiếp của mình đối với các họat động của học sinh. - Kết quả học tập với di sản đôi khi được thể hiện qua các sản phẩm học sinh tạo được trong quá trình thu thập và xử lý thông tin về di sản. - Trong quá trình dạy học với di sản, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tự đánh giá kết quả học tập của mình. GV nên làm mẫu và nhận xét. HS có thể bắt đầu bằng cách viết những suy xét của mình ra giấy hoặc nói với những bạn khác. Sau đó có thể giúp HS tiến tới những hình thức đánh giá phức tạp hơn bằng cách GV đưa ra những câu hỏi như: + “Có thể cho tôi biết em đã làm gì khi tiến hành bài học tại địa điểm có di sản?”; + “Em thích phần nào trong bài trình bày về di sản của mình/nhóm mình?”; + “Em sẽ làm gì tiếp theo?; Từ đó HS hiểu được đâu là điểm mạnh của mình và thông qua câu trả lời của HS, GV cũng có thể đáp ứng được nhu cầu học tập của các em. Khi HS đánh giá các hoạt động và mức độ đạt được của mình qua bài viết, báo cáo, các em sẽ có những điều chỉnh hoạt động học của mình. Ví dụ yêu cầu học sinh kể ra những khó khăn gặp phải và cách khắc phục những khó khăn đó. HS ghi vào phiếu tự đánh giá sau: Họ và tên: ........................................... Những điều đã học được: ..................................................................................... ..................................................................................... Những khó khăn gặp phải khi thực hiện: .................................................................................... ..................................................................................... Cách khắc phục khó khăn: ..................................................................................... .........

File đính kèm:

  • docsu_dung_di_san_van_hoa_trong_day_hoc_o_truong_pho_thong.doc
Giáo án liên quan