Tài liệu bồi dưỡng Học sinh giỏi Môn Ngữ văn 8

A: YÊU CẦU:

 - Giúp học sinh có cái nhìn tổng quan về giai đoạn văn học Việt Nam từ thế kỷ XX đến 1945

 - Rèn kỹ năng tổng hợp, khái quát vấn đề VH.

B: NỘI DUNG CƠ BẢN

1. Khái quát về tình hình xã hội và văn hoá Việt Nam những năm đầu thế kỷ

2. Quá trình phát triển của dòng văn học Việt Nam đầu thế kỷ

a) Chặng thứ nhất: Hai thập niên đầu thế kỷ XX

b) Chặng thứ hai: Những năm hai m¬ơi của thế kỷ XX

c) Chặng thứ ba: Từ đầu những năm 30 đến CMT8- 1945

3. Những đặc điểm chung của văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến CMT8 – 1945

a) Văn học đổi mới theo h¬ướng hiện đại hoá

b) Văn học hình thành hai khu vực (hợp pháp và bất hợp pháp) với nhiều trào l¬ưu cùng phát triển

c) Văn học phát triển với nhịp độ đặc biệt khẩn trư¬ơng, đạt đư¬ợc thành tựu phong phú.

4. Giới thiệu một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu cho từng trào l¬ưu văn học:

- Trào l¬ưu lãng mạn, nói lên tiếng nói của cá nhân giàu cảm xúc và khát vọng, bất hoà với thực tại ngột ngạt, muốn thoát khỏi thực tại đó bằng mộng t¬ưởng và bằng việc đi sâu vào thế giới nội tâm. Văn học lãng mạn th¬ường ca ngợi tình yêu say đắm, vẻ đẹp của thiên nhiên, của “ngày xư¬a” và th¬ường đ¬ượm buồn. Tuy văn học lãng mạn còn những hạn chế rõ rệt về tư¬ tư¬ởng, nh¬ưng nhìn chung vẫn đậm đà tính dân tộc và có nhiều yếu tố lành mạnh, tiến bộ đáng quý. Văn học lãng mạn có đóng góp to lớn vào công cuộc đổi mới để hiện đại hoá văn học, đặc biệt là về thơ ca.

Tiêu biểu cho trào l¬ưu lãng mạn trư¬ớc 1930 là thơ Tản Đà, tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách; sau 1930 là Thơ mới của Thế Lữ, Lư¬u Trọng Lư¬, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính và văn xuôi của Nhất Linh , Khái Hư¬ng, Thạch Lam, Thanh Tịnh, Nguyễn Tuân

- Trào l¬ưu hiện thực gồm các nhà văn hư¬ớng ngòi bút vào việc phơi bày thực trạng bất công, thối nát của xã hội và đi sâu phản ánh thực trạng thống khổ của các tầng lớp quần chúng bị áp bức bóc lột đương thời. Nói chung các sáng tác của trào lư¬u văn học này có tính chân thực cao và thấm đư¬ợm tinh thần nhân đạo. Văn học hiện thực có nhiều thành tựu đặc sắc ở các thể loại văn xuôi (truyện ngắn của Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Bùi Hiển; tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao; phóng sự của Tam Lang, Vũ Trọng Phụng ), nh¬ưng cũng có những sáng tác giá trị ở thể thơ trào phúng (thơ Tú Mỡ, Đồ Phồn).

 

doc30 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 9498 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tài liệu bồi dưỡng Học sinh giỏi Môn Ngữ văn 8, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN: NGỮ VĂN 8 ***** BÀI 1: KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN 1945 A: YÊU CẦU: - Giúp học sinh có cái nhìn tổng quan về giai đoạn văn học Việt Nam từ thế kỷ XX đến 1945 - Rèn kỹ năng tổng hợp, khái quát vấn đề VH. B: NỘI DUNG CƠ BẢN 1. Khái quát về tình hình xã hội và văn hoá Việt Nam những năm đầu thế kỷ 2. Quá trình phát triển của dòng văn học Việt Nam đầu thế kỷ a) Chặng thứ nhất: Hai thập niên đầu thế kỷ XX b) Chặng thứ hai: Những năm hai mơi của thế kỷ XX c) Chặng thứ ba: Từ đầu những năm 30 đến CMT8- 1945 3. Những đặc điểm chung của văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến CMT8 – 1945 a) Văn học đổi mới theo hướng hiện đại hoá b) Văn học hình thành hai khu vực (hợp pháp và bất hợp pháp) với nhiều trào lưu cùng phát triển c) Văn học phát triển với nhịp độ đặc biệt khẩn trương, đạt được thành tựu phong phú. 4. Giới thiệu một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu cho từng trào lưu văn học: - Trào lưu lãng mạn, nói lên tiếng nói của cá nhân giàu cảm xúc và khát vọng, bất hoà với thực tại ngột ngạt, muốn thoát khỏi thực tại đó bằng mộng tưởng và bằng việc đi sâu vào thế giới nội tâm. Văn học lãng mạn thường ca ngợi tình yêu say đắm, vẻ đẹp của thiên nhiên, của “ngày xưa” và thường đượm buồn. Tuy văn học lãng mạn còn những hạn chế rõ rệt về tư tưởng, nhưng nhìn chung vẫn đậm đà tính dân tộc và có nhiều yếu tố lành mạnh, tiến bộ đáng quý. Văn học lãng mạn có đóng góp to lớn vào công cuộc đổi mới để hiện đại hoá văn học, đặc biệt là về thơ ca. Tiêu biểu cho trào lưu lãng mạn trước 1930 là thơ Tản Đà, tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách; sau 1930 là Thơ mới của Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính…và văn xuôi của Nhất Linh , Khái Hưng, Thạch Lam, Thanh Tịnh, Nguyễn Tuân… - Trào lưu hiện thực gồm các nhà văn hướng ngòi bút vào việc phơi bày thực trạng bất công, thối nát của xã hội và đi sâu phản ánh thực trạng thống khổ của các tầng lớp quần chúng bị áp bức bóc lột đương thời. Nói chung các sáng tác của trào lưu văn học này có tính chân thực cao và thấm đượm tinh thần nhân đạo. Văn học hiện thực có nhiều thành tựu đặc sắc ở các thể loại văn xuôi (truyện ngắn của Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Bùi Hiển; tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao; phóng sự của Tam Lang, Vũ Trọng Phụng …), nhưng cũng có những sáng tác giá trị ở thể thơ trào phúng (thơ Tú Mỡ, Đồ Phồn). Hai trào lưu lãng mạn và hiện thực cùng tồn tại song song, vừa đấu tranh với nhau lại vừa ảnh hưởng, chuyển hoá nhau. Trên thực tế, hai trào lưu đó đều không thuần nhất và không biệt lập với nhau, càng không đối lập nhau về giá trị. ở trào lưu nào cũng có những cây bút tài năng và tâm huyết. Văn học khu vực bất hợp pháp gồm thơ văn cách mạng bí mật, đặc biệt là sáng tác thơ ca của các chiến sĩ trong nhà tù. Thơ văn cách mạng cũng có lúc, có bộ phận được lưu hành nửa hợp pháp, nhưng chủ yếu là bất hợp pháp, bị đặt ra ngoài pháp luật và ngoài đời sống văn học bình thường. Ra đời và phát triển trong hoàn cảnh luôn bị đàn áp, khủng bố, thiếu cả những điều kiện vật chất tối thiểu, nhưng văn học cách mạng vẫn phát triển mạnh mẽ, ngày càng phong phú và có chất lượng nghệ thuật cao, nhịp với sự phát triển của phong trào cách mạng. Thơ văn cách mạng đã nói lên một cách thống thiết, xúc động tấm lòng yêu nước, đã toát lên khí phách hào hùng của các chiến sĩ cách mạng thuộc nhiều thế hệ nửa đầu thế kỷ. C: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 1. Tài liệu tham khảo: - Bài khái quát về văn học Việt Nam: +) SGK NV8 trang 3-11 +) Giáo trình VHVN tập 1 trang1-73 2. Bài tập củng cố: 1) Văn học thời kỳ từ XX đến 1945 phát triển với nhịp độ khẩn tr]ơng, mau lẹ nh] thế nào? 2)Vì sao nói văn học nửa đầu TK XX đến 1945 phát triển phong phú rực rỡ và khá hoàn chỉnh (về thể loại) 3) Lập bảng thống kê các tác giả, tác phẩm văn học đầu TK đến 1945. ***************************************** BÀI 2: THANH TỊNH VÀ TÔI ĐI HỌC A.NỘI DUNG 1. Khái quát kiến thức tác giả (tiểu sử, cuộc đời và sự nghiệp) 2. Củng cố lại vẻ đẹp về nội dung và nghệ thuật của áng văn giàu chất thơ “Tôi đi học” 3. Luyện đề Đề 1: Hãy phân tích để làm sáng tỏ chất thơ của truyện “Tôi đi học” (Nâng cao ngữ văn trang 10) Đề 2: Cảm nghĩ về truyện ngắn “Tôi đi học” (Nâng cao NV trang 13) Đề 3: Tìm những nét tơng đồng trong cảm xúc của nhà thơ Huy Cận trong bài “Tựu tr]ờng” và nhà văn Thanh Tịnh trong “Tôi đi học” B. PHƯƠNG PHÁP 1. Tài liệu tham khảo: Nâng cao NV8 - Các bài viết về đoạn trích “Tôi đi học” 2. Đề văn nghị luận, chứng minh, tự sự, cảm nhận về 1 đoạn văn. " Không biết bao nhiêu thế hệ học trò đã từng đọc, từng học và từng nhầm lẫn một cách rất đáng yêu rằng truyện ngắn “Tôi đi học” của nhà văn Thanh Tịnh chính là bài tâp đọc đầu tiên của mình. Sự nhầm lẫn vô lí mà lại hết sức có lí. Vô lí vì bài tập đọc đầu tiên hẳn phải là các câu văn, đoạn văn hay bài thơ chứ khó có thể là cả một truyện ngắn. Còn có lí bởi học trò các thế hệ có thể quên đi nhiều bài tập đọc khác, nhưng hình như ít ai hoàn toàn quên được những cảm xúc trong trẻo nguyên sơ mà từng dòng từng chữ của “Tôi đi học” gợi lên trong miền kí ức tuổi thơ của mình. Liệu có phải Thanh tịnh cũng cảm thấy điều này không khi ông đã viết cả một truyện ngắn nhan đề “Tôi đi học” để rồi lại kết truyện bằng một câu như thế này: “Tôi vòng tay lên bàn chăm chỉ nhìn thầy viết và lẩm nhẩm đánh vần đọc: Bài viết tập: Tôi đi học”? Bài tập đọc đầu tiên, buổi tựu trường đầu tiên, lần đầu tiên con đường “đã quen đi lại lắm lần” bỗng tự nhiên thấy lạ, lần đầu tiên đứng trước ngôi trường đã từng vào chơi bỗng cảm thấy vừa thân quen vừa lạ lẫm, cũng là lần đầu tiên chỉ rời mẹ một lát mà cảm thấy xa mẹ hơn cả những lần đi chơi xa mẹ cả ngày…Trong cuộc đời, có những cảm xúc đầu tiên mà mỗi người đều phải trải qua. Với “Tôi đi học”, Thanh Tịnh đã làm ngân lên một trong những cảm xúc đó trong lòng mỗi người đang là học trò hay đã từng là học trò: cảm xúc về ngày tựu trường đầu tiên. Tính chất đầu tiên của cảm xúc ấy đã được Thanh Tịnh diễn tả một cách giản dị mà lại hết sức tinh tế như chính tâm hồn trẻ thơ vậy. Đâu phải lần đầu tiên nhân vật “tôi” đi trên con đường làng, nhưng đây là lần đầu tiên “tôi” thấy “cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học”. Thanh Tịnh không miêu tả những cảnh tượng lạ, những âm thanh lạ hay những con người lạ lần đầu tiên nhân vật nhìn thấy, nghe thấy hay cảm thấy, mà ông miêu tả một cái cách “tôi” lần đầu khám phá ra trong những điều tưởng chừng như quá quen thuộc những cảm nhận lạ lùng. Cảnh vật, con người và từng sự kiện, từng chi tiết của ngày tựu trường được thuật lại một cách khá cặn kẽ tỉ mỉ, phần nào chứng tỏ chúng ta đã được soi chiếu qua cặp mắt háo hức tò mò của một cậu bé lần đầu tham dự ngày tựu trường. Cái ý thức về một ngày đặc biệt trong cuộc đời đã tạo lên tâm trạng vừa bỡ ngỡ vừa hồi hộp và không phải không pha chút tự hào của một cậu bé bỗng cảm thấy mình đang là một người lớn. Chính vì thế mà cậu bé con mới ngày hôm qua thôi chắc hẳn còn bé bỏng, nghịch ngợm và vô tâm xiết bao, ngày hôm nay đã biết để ý vẻ đẹp của thiên nhiên- “một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh”, đã cảm nhận được một cách thật sâu sắc vẻ “âu yếm” trong bàn tay người mẹ, vẻ hiền từ và cảm động” trong cái nhìn của ông đốc trường Mĩ Lí hay thái độ nhẹ nhàng của các thầy giáo, của các phụ huynh đối với mình và những cậu bé như mình… Dường như đây chính là lần đầu tiên cậu khám phá ra những điều đó vậy! Ngoài ra, cũng cần phải nói rằng “tôi đi học” vốn là những dòng hồi tưởng, cái hiện lên qua truyện ngắn không đơn thuần là một ngày tựu trường mà là những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường. Bên cạnh cái nhìn của nhân vật “tôi” trong quá khứ – cậu bé con lần đầu tiên đi học, còn có cái nhìn của nhân vật “tôi” trong hiện tại – ngời đang ngồi ghi lại những ký ức về buổi tựu trường đầu tiên của mình, đang dõi theo từng bước chân của “tôi’ trong quá khứ một cách bao dung (vì thế nên trong truyện ngắn mới có thể xuất hiện những chi tiết như: “Tôi muốn thử sức mình nên nhìn mẹ tôi: - Mẹ đưa bút thước cho con cầm. mẹ tôi cúi đầu nhìn tôi với cặp mắt thật âu yếm: - Thôi để mẹ cầm cũng được . Tôi có ngay cái ý nghĩ vừa non nớt vừa ngây thơ này: chắc chỉ người thạo mới cầm nổi bút thước”. Chi tiết trên mặc dù được nhìn bằng cặp mắt của “tôi”- cậu bé trong quá khứ nhưng rõ ràng những nhận xét như “cái ý nghĩ vừa non nớt vừa ngây thơ” chỉ có thể là của tôi trong hiện tại). Sự đan xen hai cái nhìn này thật hoà hợp với phong cách của truyện ngắn, từ cách lựa chọn từ ngữ, cách so sánh ví von cho đến giọng văn đều toát lên vẻ trong trẻo mà lại hiền hoà. Đây phải chăng là một trong những lí do làm cho ngời đọc dù thuộc thế hệ nào, lứa tuổi nào cũng tìm thấy chính mình trong nhân vật “tôi” của truyện? Bước vào khu vườn kí ức có cái tên “Tôi đi học”, ta dường như được một bàn tay tin cậy và êm ái dẫn dắt đi từ dòng đầu đến dòng cuối. Tôi đi học giống như một nốt lặng, một mảnh nhỏ, một góc khuất trong cuộc sống rộng lớn. Truyện ngắn không viết về những cái mới, cái lạ (có mới lạ gì đâu một ngày đầu tiên đi học mà học trò nào cũng phải trải qua?), nhưng nó đem lại cho ngời ta cái cảm giác đây là lần đầu tiên mình khám phá ra những điều như vậy. Và có khó tin quá không khi có những người nói rằng giữa bao bộn bề lo toan thường nhật, họ đã dần quên mất ngày tựu trường đầu tiên của mình, nhưng khi đọc “Tôi đi học”, những kỷ niệm tưởng đã ngủ yên trong ký ức lại hồi sinh, và họ bỗng nhớ lại ngày đó thậy rõ ràng sống động dường như nó chưa bao giờ bi lãng quên cả, để rồi họ lại có thể bất giác ngâm nga một cách rất chân thành: “Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường…” ***************************************** BÀI 3: NGUYÊN HỒNG VÀ HỒI KÝ “NHỮNG NGÀY THƠ ẤU” A.MỤC TIÊU: - Củng cố lại những kiến thức cơ bản về nhà văn Nguyên Hồng và đoạn trích “Trong lòng mẹ” - Mở rộng, luyện đề củng cố kiến thức chuyên đề. B. NỘI DUNG: 1. Giới thiệu về tác giả Nguyên Hồng Đọc “Từ cuộc đời và tác phẩm” trang 251 đến256 Giáo trình VHVN 30 – 45 Anh bình dị đến như là lập dị Áo quần ? Rách vá có sao đâu? Dễ xúc động, anh thường hay dễ khóc Trải đau nhiều nên thương cảm nhiều hơn. (Đào Cảng) - Nguyễn Tuân: “Tôi là một thằng thích phá đình phá chùa mà anh đúng là một người thích tô tượng đúc chuông” - Nguyễn Đăng Mạnh: Văn Nguyên Hồng bao giờ cũng lấp lánh sự sống. Những dòng chữ đầy chi tiết….thống thiết mãnh liệt. 2. Giới thiệu khái quát về “Những ngày thơ ấu” a) Thể loại: Hồi ký là thể loại văn học mà người viết trung thành ghi lại những gì đã diễn ra trong cuộc sống của mình, tôn trọng sự thật. Đặc điểm của hồi ký là không thể hư cấu vì nếu thế tác phẩm sẽ không hay, sẽ tẻ nhạt nếu những gì diễn ra trong cuộc đời nhà văn không có gì đặc sắc. Những ngày thơ ấu là một tập hồi ký ghi lại những gì đã diễn ra thời thơ ấu của chính nhà văn. Ta có thể cảm nhận được tất cả những tình tiết, chi tiết trong câu chuyện đều có thật. Có nước mắt của Nguyên Hồng thấm qua từng câu chữ. b) Tóm tắt hồi ký: Chú bé Hồng – nhân vật chính – lớn lên trong một gia đình sa sút. Người cha sống u uất thầm lặng, rồi chết trong nghèo túng, nghiện ngập. Người mẹ có trái tim khao khát yêu đương đành chôn vùi tuổi thanh xuân trong cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Sau khi chồng chết, người phụ nữ đáng thương ấy vì quá cùng quẫn đã phải bỏ con đi kiếm ăn phương xa. Chú bé Hồng đã mồ côi cha lại vắng mẹ, sống thui thủi cô đơn giữa sự ghẻ lạnh, cay nghiệt của những người họ hàng giàu có, trở thành đứa bé đói rách, lêu lổng, luôn thèm khát tình thương yêu mà không có. Từ cảnh ngộ và tâm sự của đứa bé “côi cút cùng khổ”, tác phẩm còn cho thấy bộ mặt lạnh lùng của xã hội đồng tiền, cái xã hội mà cánh cửa nhà thờ đêm Nô-en cũng chỉ mở rộng đón những người giàu sang “khệnh khạng bệ vệ” và khép chặt trước những kẻ nghèo khổ “trơ trọi hèn hạ”; cái xã hội của đám thị dân tiểu tư sản sống nhỏ nhen, giả dối, độc ác, khiến cho tình máu mủ ruột thịt cũng thành khô héo; cái xã hội đầy những thành kiến cổ hủ bóp nghẹt quyền sống của người phụ nữ… c) Giá trị nội dung và nghệ thuật 3.Đoạn trích “Trong lòng mẹ” Xây dựng dàn ý cho đề bài sau Đề 1: Một trong những điểm sáng làm nên sức hấp dẫn của chương IV (trích hồi ký “Những ngày thơ ấu” – Nguyên Hồng) là nhà văn đã miêu tả thành công những rung động cực điểm của một tâm hồn trẻ dại. Hãy chứng minh. Đề 2: Có nhà nghiên cứu nhận định: “Nguyên Hồng là nhà văn của phụ nữ và nhi đồng”. Hãy chứng minh Đề 3: Chất trữ tình thấm đượm “Trong lòng mẹ” Đề 4: Qua nhân vật trẻ em trong đoạn trích “Trong lòng mẹ”của Nguyên Hồng hãy phân tích để làm sáng tỏ: “Công dụng của văn chương là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha” (Hoài Thanh) Yêu cầu đề 4: - Phương pháp: Biết cách làm bài văn nghị luận, chứng minh thể hiện trong các thao tác: tìm ý, chọn ý, dựng đoạn, liên kết đoạn bố cục văn bản đặc biệt là cách lựa chọn phân tích dẫn chứng - Nội dung: Trên cơ sở hiểu biết về đoạn trích “Trong lòng mẹ” của Nguyên Hồng phân tích làm sáng tỏ ý liến của Hoài Thanh về công dụng của văn chương: “Giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha”. Học sinh có thể trình bày bố cục nhiều cách khác nhưng cần tập trung vào các vấn đề sau: + Tình yêu thương con người: Bé Hồng có tình yêu mãnh liệt với người mẹ đáng thương + Giàu lòng vị tha: Bé Hồng bỏ qua những lời dèm pha thâm độc của bà cô lúc nào cũng nghĩ tới mẹ với niềm thông cảm sâu sắc, mong muốn được đón nhận tình yêu thương của mẹ + Bồi đắp thêm về tâm hồn tình cảm C.PHƯƠNG PHÁP: 1.HS và GV tìm đọc các tư liệu tham khảo sau: - Bài đọc thêm “Tôi viết bỉ vỏ” của Nguyên Hồng: Trang 27 – 31 sổ tay văn học - Bài đọc thêm trích “Nguyên Hồng, một tuổi thơ văn”: Trang 16 – 18 tư liệu ngữ văn - Hồi ký “Những ngày thơ ấu” - Các bài viết bàn về đoạn trích “Trong lòng mẹ” 2.Đề văn nghị luận, chứng minh, tự sự, cảm nhận về một đoạn văn VD: Luyện viết đoạn văn chứng minh: Niềm hạnh phúc vô bờ khi ở trong lòng mẹ theo cách: Diễn dịch và quy nạp - Bắt buộc HS ghi nhớ một đoạn văn hay trong đoạn trích. GỢI Ý ĐỀ 1 - Lòng yêu thương mẹ tha thiết của bé Hồng: Xa mẹ, vắng tình thương, thiếu sự chăm sóc, lại phải nghe những lời dèm pha xúc xiểm của người cô độc ác nhưng tình cảm của bé Hồng hướng về mẹ vẫn mãnh liệt duy nhất một phương, không bị “những rắp tâm tanh bẩn xúc phạm đến”. Chính tình yêu thương mẹ tha thiết đã khiến cho bé Hồng có một thái độ kiên quyết, dứt khoát. - Sự căm thù những cổ tục đã đầy đoạ mẹ: Lòng căm ghét của bé Hồmg được diễn đạt bằng những câu văn có nhiều hình ảnh cụ thể, gợi cảm và có nhịp điệu dồn dập tựa như sự uất ức của bé ngày một tăng tiến: “Cô tôi nói chưa dứt câu, cổ họng tôi đã nghẹn ứ không ra tiếng. Giá những cổ tục đã đầy đoạ mẹ tôi là một vật như hòn đá, cục thuỷ tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lại mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kỳ nát vụn mới thôi”. - Khát khao gặp mẹ cháy bỏng: Ngòi bút của nhà văn đã thể hiện thành công đặc sắc khi miêu tả với phương pháp so sánh như khát khao của người bộ hành đi giữa sa mạc nghĩ về bóng râm và dòng nước mát. Hình ảnh chú bé phải xa mẹ lâu ngày, hơn nữa phải sống trong sự ghẻ lạnh của những người xung quanh. - Sự cảm động, sung sướng, bối rối khi gặp mẹ. Niềm hạnh phúc vô bờ khi ở trong lòng mẹ: Để tô đậm niềm sung sướng tột độ của em bé mất cha, xa mẹ lâu ngày, nay được ngồi bên mẹ, lúc thì nhà văn miêu tả những cảm giác cụ thể: “Tôi ngồi trên đệm xe, đùi áp vào đùi mẹ tôi, đầu ngả vào cánh tay mẹ … mơn man khắp da thịt”, lúc thì chen những lời bình luận thấm đẫm chất trữ tình: “Phải bé lại…”, khi thì nghĩ đến câu nói độc ác, đay nghiến của bà cô và “Khômg mảy may nghĩ ngợi gì nữa.” bởi vì bé Hồng được gặp mẹ rất bất ngờ, niềm vui quá lớn. Nêu chính mình chưa phải trải qua nỗi đau xa mẹ, cha có niềm sung sướng tột độ khi được gặp mẹ, chắc Nguyên Hồng khó có được những đoạn văn gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc như vậy. NHỮNG ĐIỀU CẦN LƯU Ý Hồi ký là một thể loại văn học mà người viết trung thành ghi lại những gì đã diễn ra trong cuộc sống của mình, tôn trọng sự thật. Đặc điểm của hồi ký là không thể hư cấu vì thế tác phẩm sẽ không hay, sẽ tẻ nhạt nếu những gì diễn ra trong cuộc đời của nhà văn không có gì đặc sắc. “Những ngày thơ ấu" của Nguyên Hồng là một tập hồi ký ghi lại những gì đã diễn ra thời thơ ấu của chính nhà văn Nguyên Hồng. Ta có thể cảm nhận được tất cả những tình tiết, chi tiết trong câu chuyện đều rất thật. Có nước mắt của Nguyên Hồng thấm qua từng câu chữ. Ở chương IV của tác phẩm, Nguyên Hồng đã thể hiện rất thành công nghệ thuật xây dựng tâm lý nhân vật. Cùng một lúc ở bé Hồng diễn ra những tình cảm rất trái ngược nhau. Có sự nhất quán về tính cách và thái độ. Khi bà cô thể hiện nghệ thuật xúc xiểm và nói xấu về người mẹ của bé Hồng ở một mức độ cao mà một đứa bé bình thường rất dễ dàng tin theo thì con người độc ác này đã thất bại. Bé Hồng không những không tin lời bà cô mà càng thương mẹ hơn. Trong điều kiện lúc bấy giờ, một ngời phụ nữ cha đoạn tang chồng đã mang thai với người khác, là một điều tuyệt đối cấm kỵ. Ai cũng có thể xa lánh thậm chí phỉ nhổ, khinh thường. Hơn ai hết bé Hồng hiểu rất rõ điều này. Vì thế tình thơng của bé Hồng đối với mẹ không chỉ là tình cảm của đứa con xa mẹ, thiếu vắng tình cảm của mẹ mà còn là thương ngời mẹ bị xã hội coi thường khinh rẻ. Bé Hồng lớn khôn hơn rất nhiều so với tuổi của mình. Điều đặc biệt là dù có suy nghĩ chín chắn, từng trải nhưng bé Hồng vẫn là một đứa trẻ, vẫn có sự ngây thơ. Vì thế, làm nên sức hấp dẫn của tác phẩm, điều đầu tiên phải nói tới cảm xúc chân thành: - Những tình tiết, chi tiết trong chơng IV của tác phẩm “Những ngày thơ ấu” diễn ra hết sức chân thật và cảm động. Có thể nói ở bé Hồng nỗi đau xót, niềm bất hạnh được đẩy lên đến đỉnh cao. Niềm khát khao được sống trong vòng tay yêu thương của ngời mẹ cũng ở mức độ cao nhất không gì so sánh bằng. Cuối cùng thì hạnh phúc bất ngờ đến cũng vô cùng lớn, được diễn tả thật xúc động. Có thể biểu diễn những cung bậc của tình cảm của bé Hồng bằng sơ đồ như sau: + Nỗi bất hạnh (cha chết, mẹ phải đi kiếm ăn ở nơi xa, bị mọi người khinh rẻ) + Nỗi căm tức những cổ tục, niềm khát khao gặp mẹ + Hạnh phúc vô bờ bến khi sống trong vòng tay yêu thương của mẹ - Chữ “tâm” và chữ “tài” của Nguyên Hồng: Nguyên Hồng là một cây bút nhân đạo thống thiết. ở chương IV của tác phẩm, nhà văn không những thể hiện sâu sắc niềm đồng cảm với người mẹ Hồng mà còn khẳng định những phẩm chất tốt đẹp cao quý của mẹ, khi mẹ lâm vào những tình cảnh nghiệt ngã nhất. Đằng sau câu chữ, ta đọc được tấm lòng trăn trở yêu thương con người chân thành, thấm thía, đặc biệt là tình yêu thương phụ nữ và trẻ em – những người vốn chịu nhiều thiệt thòi, đau khổ nhất. BÀI 4: NGÔ TẤT TỐ VÀ TIỂU THUYẾT “TẮT ĐÈN” A. YÊU CẦU: - Củng cố, mở rộng và nâng cao kiến thức về tác giả, tác phẩm - Rèn kỹ năng xây dựng đoạn văn bằng phép diễn dịch, quy nạp, song hành, tổng hợp B. NỘI DUNG: 1.Khái quát về tác giả Ngô Tất Tố: Là cây bút xuất sắc nhất của dòng văn học hiện thực trước cách mạng và là một trong những tác giả lớn có vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Chỉ với ba thập kỷ cầm bút, ông đã để lại một sự nghiệp văn học đồ sộ, độc đáo bao gồm nhiều thể loại: Tiểu thuyết, phóng sự, truyện ký lịch sử, khảo cứu, dịch thuật…và ở thể loại nào cũng để lại dấu ấn đặc sắc riêng. Suốt 6 thập kỷ qua, thân thế và văn nghiệp của Ngô Tất Tố đã thực sự thu hút được sự quan tâm, yêu mến của các nhà nghiên cứu, phê bình, giảng dạy văn học và đông đảo công chúng. Tham khảo “Ngô Tất Tố về tác giả và tác phẩm”- NXBGD + Một nhà nho yêu nước, thức thời, một cây bút sắc bén + Sức sống của một văn nghiệp lớn đa dạng: Nhà tiểu thuyết phóng sự đặc sắc, nhà văn của dân quê + Một nhà báo có biệt tài 2. Giới thiệu khái quát về “Tắt đèn” - Tóm tắt tiểu thuyết “Tắt đèn” - Thể loại, nhan đề, giá trị nội dung và nghệ thuật: SGV trang 25, 26; Sổ tay văn học 8 trang 34,35 - Giới thiệu các ý kiến đánh giá về “Tắt đèn”, về nhân vật chị Dậu: Lời giới thiệu truyện “Tất đèn” – Nguyễn Tuân trang 213 +) Tắt đèn của Ngô Tất Tố- (Vũ Trọng Phụng) “Một thiên tiểu thuyết có luận đề xã hội …hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác chưa từng thấy” 3. Củng cố, nâng cao về đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” - Ý nghĩa của cách xây dựng các tuyến nhân vật - Tại sao nói đây là một đoạn văn giàu kịch tính - Phân tích diễn biến tâm lý, hành động của chị Dậu 4. Luyện đề: Các dạng đề văn nghị luận, chứng minh phân tích nhân vật, đề văn sự kết hợp miêu tả và biểu cảm. Ví dụ minh hoạ: Đề 1: Hãy chứng minh nhận xét của nhà nghiên cứu phê bình văn học Vũ Ngọc Phan “Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn tuyệt khéo” Đề 2: Nhà văn Nguyễn Tuân cho rằng với tác phẩm “Tắt đèn” , Ngô Tất Tố đã “xui người nông dân nổi loạn”. Em hiểu như thế nào về nhận xét đó. Hãy chứng minh. Đề 3: “Trên cái tối giời tối đất của đồng lúa ngày xa, hiện lên cái chân dung lạc quan của chị Dậu. Bức chân dung ấy tuy chưa được ánh sáng cách mạng soi rọi tới nhưng dù sao tôi vẫn quý bức chân dung ấy”. Chứng minh qua “Tức nước vỡ bờ” Đề 4: “Tôi nhớ như đã có lần nào tôi đã gặp chị Dậu ở một đám đông phá kho thóc Nhật, ở một cuộc cướp chính quyền huyện kỳ tổng khởi nghĩa hay chí ít đậy nắp hầm bem cho cán bộ”. Em hiểu ý kiến trên như thế nào. Bằng sự hiểu biết của em về đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. C. PHƯƠNG PHÁP: 1. Tài liệu tham khảo: - Tiểu thuyết “Tắt đèn” - Xem băng hình phim “Chị Dậu” (diễn viên Lê Vân đóng vai chị Dậu) - Các tư liệu bàn về “Tắt đèn” (Từ trang 195 – 313 Ngô Tất Tố về tác gia và tác phẩm) 2. Phương pháp: - Rèn kỹ năng dựng đoạn, xây dựng luận điểm trong văn nghị luận - Kỹ năng tạo lập văn bản tự sự, nghị luận. Đề: - Hình ảnh nhân vật chị Dậu qua “Tức nước vỡ bờ” Bản chất xã hội thực dân phong kiến qua “Tức nước vỡ bờ” Sức sống và tinh thần phản kháng của người nông dân trớc CM qua hình ảnh chị Dậu Ngòi bút hiện thực của Ngô Tất Tố qua “Tức nước vỡ bờ”… ************************************** BÀI 5: NAM CAO VỚI TRUYỆN NGẮN “LÃO HẠC” A.YÊU CẦU: - Củng cố, mở rộng và nâng cao kiến thức về nhà văn Nam Cao và truyện ngắn “Lão Hạc” - Viết được các đoạn văn liên kết mạch lạc. chặt chẽ - Kiểm tra kỹ năng tạo lập văn bản nghị luận B.NỘI DUNG: 1. Giới thiệu khái quát về tác gia Nam Cao a)Vị trí: - “Nam Cao là một tài năng lớn, một nhà văn xuất sắc đã góp phần cách tân và hiện đại hoá nền văn xuôi quốc ngữ”. Ông đóng một vai trò quan trọng trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Cả cuộc đời Nam Cao là một quá trình chiến đấu không khoan nhượng cho một nhân cách cao đẹp – nhân cách trong sáng tạo nghệ thuật. - Là nhà văn - chiến sĩ liệt sĩ, Nam Cao khép lại văn ở tuổi 35. Ômg để lại trong kho tàng văn chương dân tộc một gia tài không đồ sộ về số lượng nhưng lại luôn ẩn chứa sức sống, sức bền lâu của một giá trị văn chương vượt lên trên “các bờ cõi và giới hạn” có được những tri kỷ, tri âm. Nam Cao là một trong 9 nhà văn được lựa chọn để giảng dạy trong chơng trình môn văn ở trường phổ thông với tư cách tác gia lớn của văn học dân tộc” (NXBGD) + Tham khảo phần I “Văn và người” cuốn “Nam Cao về tác gia và tác phẩm” trang 44-174 + Chú ý các bài luận: Người và tác phẩm Nam Cao – Tô Hoài Nam Cao – Nhà văn hiện thực sâu sắc, nhà văn nhân đạo chủ nghĩa lớn – Trần Đăng Xuyền Tês khôp và Nam Cao – Một sáng tác hiện thực kiểu mới Gặp gỡ giữa M.Goorky và Nam Cao b)Tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp, nội dung chính trong tác phẩm của Nam Cao (Giáo trình VHVN trang 283 – 327) 2. Giới thiệu khái quát về truyện ngắn “Lão Hạc” - Tóm tắt truyện, bố cục - Các giá trị của tác phẩm : + Giá trị nội dung: Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo + Giá trị về nghệ thuật: Thể loại, ngôn ngữ, kết cấu… 3.Luyện đề: Đề 1: So sánh để chỉ ra sự giống và khác nhau giữa cái chết của Lão Hạc và cái chết của anh đĩ Chuột trong truyện ngắn “Nghèo” của Nam Cao Đề 2: Viết lời bình cho đoạn văn: “Mặt lão đột nhiên co rúm lại …………..Lão hu hu khóc” Đề 3: Cái chết của Lão Hạc đã được nhà văn Nam Cao miêu tả như thế nào. Từ cái chết đó, em nghĩ gì về số phận và phẩm chất của người nông dân nghèo khổ trước CM Tháng Tám? Đề 4: Trong “Lão Hạc” nhà văn Nam Cao đã phát biểu suy nghĩ của mình về cách đánh giá nhìn nhận con người: “Chao ôi! Đối với những ngời ở quanh ta…………….không bao giờ ta thương” Bằng sự hiểu biết của em về tác phẩm “Lão Hạc” em hãy làm sáng tỏ tình yêu thương con người của tác giả Đề 5: Phân tích nhân vật Lão Hạc – Hình ảnh tiêu biểu của ng

File đính kèm:

  • docGiao an BD HSG Van 8.doc