Đổi mới thiết kế bài học ngữ văn lớp 10 thpt theo hướng tích hợp

1.1. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế tri thức và sự phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ, trong ngành giáo dục, đào tạo cũng đang diễn ra cuộc cách mạng về PPDH (phương pháp dạy học). Bản chất của cuộc cách mạng này là phải chuyển từ phương pháp truyền tin sang phương pháp tổ chức, điều khiển để người học học tự mình tìm tòi, phát hiện và chiếm lĩnh nội dung học vấn bằng chính hành động và thao tác của họ. Nói chữ A Đixtecvec (1790 - 1966) thì người thày giáo không phải chỉ "Mang trí thức đến với học sinh" mà quan trọng hơn là phải "Dạy họ cách tìm ra chân lý"; phải tăng cường tổ chức hoạt động tự học, tự nghiên cứu, "Biến quá trình dạy học thành quá trình tự học", tự nghiên cứu, hướng dẫn hình thành kỹ năng tự học như T.Maki đã nhấn mạnh: "Nhà giáo, trước hết không phải là người cung cấp thông tin mà là người hướng đắc lực cho học sinh tự mình học tập tích cực Họ phải nhường quyền cung cấp tri thức cho sách vở, tư liệu và cuộc sống", thay vào đó giáo viên phải là cố vấn, là "Trọng tài khoa học". Muốn vậy, trước hết cần phải đổi mới cách dạy, cách học theo phương hướng hiện đại hoá về nội dung, phương pháp và phương tiện dạy học. Nói như Thủ tướng Phạm Văn Đồng thì "Dứt khoát chúng ta phải có cách dạy khác". (Dạy văn là một quá trình phát triển toàn diện 1973).

 

doc80 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1616 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đổi mới thiết kế bài học ngữ văn lớp 10 thpt theo hướng tích hợp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đổi mới thiết kế bài học ngữ văn lớp 10 THPT theo hướng tích hợp Phần một Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài: 1.1. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế tri thức và sự phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ, trong ngành giáo dục, đào tạo cũng đang diễn ra cuộc cách mạng về PPDH (phương pháp dạy học). Bản chất của cuộc cách mạng này là phải chuyển từ phương pháp truyền tin sang phương pháp tổ chức, điều khiển để người học học tự mình tìm tòi, phát hiện và chiếm lĩnh nội dung học vấn bằng chính hành động và thao tác của họ. Nói chữ A Đixtecvec (1790 - 1966) thì người thày giáo không phải chỉ "Mang trí thức đến với học sinh" mà quan trọng hơn là phải "Dạy họ cách tìm ra chân lý"; phải tăng cường tổ chức hoạt động tự học, tự nghiên cứu, "Biến quá trình dạy học thành quá trình tự học", tự nghiên cứu, hướng dẫn hình thành kỹ năng tự học như T.Maki đã nhấn mạnh: "Nhà giáo, trước hết không phải là người cung cấp thông tin mà là người hướng đắc lực cho học sinh tự mình học tập tích cực … Họ phải nhường quyền cung cấp tri thức cho sách vở, tư liệu và cuộc sống", thay vào đó giáo viên phải là cố vấn, là "Trọng tài khoa học". Muốn vậy, trước hết cần phải đổi mới cách dạy, cách học theo phương hướng hiện đại hoá về nội dung, phương pháp và phương tiện dạy học. Nói như Thủ tướng Phạm Văn Đồng thì "Dứt khoát chúng ta phải có cách dạy khác". (Dạy văn là một quá trình phát triển toàn diện 1973). 1.2. Trong cuốn "Văn học giáo dục thế kỷ XXI" (của giáo sư Phan Trọng Luận - NXBGD năm 2002 trang 85), giáo sư (GS) đã khẳng định về việc "Đổi mới PPDH TPVC" là "Nhất thiết chúng ta phải đi tiếp không phải chỉ vì đó là con đường đang đi của các nước tiên tiến mà còn là đòi hỏi cấp thiết hàng mấy chục năm của đời sống sư phạm nước ta". 1.3. Hiện nay đổi mới PPDH nhằm "Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh … bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng vào thực tiễn. Tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh là một việc làm rất cấp thiết" (Trích điều 24 Luật giáo dục). Những năm gần đây nền giáo dục nước ta có nhiều cải cách, chỉnh lý. Mặc dù cải cách đó đã thể hiện sự tiến bộ nhưng vẫn còn tồn tại những bất cập như: Chương trình SGK chỉnh lý vẫn còn mang tính chất chắp vá, vụn vặt; việc thi cử, kiểm tra, đánh giá còn hạn chế; thêm vào đó là sự quá tải khiến học sinh phải học nhiều mà hiệu quả vẫn chưa cao. Nhận thấy điều đó, ngành giáo dục của chúng ta đã quyết tâm đổi mới phương pháp, đổi mới chương trình SGK các cấp học theo hướng tích hợp như một số nước tiên tiến đã thực hiện. Trong những năm đầu thực hiện thay đổi chương trình SGK THPT thí điểm, thay đổi PPDH theo hướng tích hợp, chúng ta không khỏi bỡ ngỡ, lúng túng trước vấn đề mới mẻ này. Giáo viên và học sinh đang từng bước làm quen với chương trình mới, cách dạy học mới. Do đó trong quá trình thực hiện chương trình cả GD và HS đã không tránh khỏi những khó khăn. Chương trình SGK mới, cách dạy học mới theo hướng tích hợp đòi hỏi GV và HS ở mức độ cao hơn hẳn so với chương trình và cách dạy - học cũ. Để thực hiện được chương trình tích hợp, bắt buộc GV phải đầu tư nhiều hơn cho việc soạn bài, tham khảo tài liệu, suy nghĩ để tìm ra cách tiếp cận phù hợp, tìm ra cách hiểu cách lý giải vấn đề sát thực, có cơ sở lý luận, HS phải đọc bài trước khi lên lớp, phải tự tìm tòi, khám phá, tự chiếm lĩnh tri thức mà bài học chứa đựng, đồng thời từ kiến thức của bài học, môn học đó HS (và cả GV) biết liên hệ, mở rộng sang những kiến thức của bài học, môn học khác của liên quan. Để thực hiện được những yêu cầu đó đối với GV và HS không phải là điều dễ dàng. 1.4. Qua khảo sát thực trạng dạy học SGK thí điểm THPT theo hướng tích hợp nổi lên vấn đề dễ nhận thấy: Phần lớn GV chưa hiểu kỹ, hiểu sâu về tích hợp nên khi vận dụng vào bài dạy còn hiện vướng mắc, lúng túng. Đó là hiện tượng các giáo viên trong khi dạy, vẫn phân tách rõ ràng các phần văn, tiếng và làm văn. Giáo viên coi đó là các phân môn độc lập. Trong khi thực chất văn học là nghệ thuật ngôn từ, dễ hiểu được văn chương thì phải xem xét cả trên bình diện ngữ nghĩa của từ. Việc dạy tách rời các phân môn của văn đã tạo nên hiện tượng giờ học khó khăn, gây nên sự nhàm chán cho học sinh, làm cho học sinh tiếp thu một cách thụ động, không phát huy được vai trò chưa thể sáng tạo, HS không có khả năng tư duy tổng hợp. Bên cạnh đó, nhiều khi GV hiểu về tích hợp một cách lệch lạc nên trong giờ dạy TPVH người dạy lại lấn sân sang kiến thức tiếng Việt một cách quá đà làm cho giờ dạy học TPVH trở thành giờ phân tích từ ngữ, ngữ pháp một cách khô cứng. Ngược lại cũng có khi giáo viên dạy tiếng Việt lại lấy quá nhiều ngữ liệu từ văn mà không có sự chọn lọc để lựa ra những giữ liệu thật tiêu biểu, hơn nữa GV lại sa vào phân tích chất văn hơn là một giờ dạy - học tiếng Việt. Những hiện tượng này đều chưa thể hiện được yêu cầu đổi mới của PPDH mới theo hướng tích hợp. 1.5. Năm học 2006 - 2007 SGK Ngữ văn 10 mới chính thức sẽ được đưa vào dạy học đại trà trên toàn quốc sau ba năm thí điểm. Để đáp ứng các yêu cầu về đổi mới PPDH theo hướng tích hợp thì thiết kế bài học cũng là một phương diện quan trọng có ý nghĩa quyết định chất lượng dạy học ngữ văn. Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài "Đổi mới thiết kế giờ học Ngữ văn lớp 10 theo hướng tích hợp" với mong muốn ít nhiều góp phần đáp ứng những yêu cầu căn bản nhất của nội dung và phương pháp xây dựng thiết kế bài học Ngữ văn lớp 10 theo hướng tích hợp. Thiết nghĩ đó cũng là ý nghĩa thực tiễn của đề tài. 2. Lịch sử vấn đề. 2.1. Về vấn đề tích hợp. 2.1.1. Về dạy học theo hướng tích hợp đã có một số công trình nghiên cứu được công bố. Trong đó nổi bật là cuốn sách "Khoa sư phạm trích lập hay làm thế nào để phát triển các năng lực ở nhà trường" của tác giả Xavier Roegiers - Phó Giám đốc văn phòng Công nghệ Giáo dục và Đào tạo (của nước nào, hoặc tổ chức nào?) (BIEF) (NXBGD 1996 do Đào trọng Quang và Nguyễn Ngọc Nhị dịch). Đây là cuốn sách có giá trị lý luận cao giúp ta hiểu được nội dung và bản chất của tích hợp và cho thấy những ảnh hưởng của khoa sư phạm tích hợp đối với chương trình SGK cũng như kiến thức mà HS lĩnh hội được. Hiện nay cuốn sách trên đã trở thành nguồn tài liệu quý giá đối với việc đổi mới giáo dục, đặc biệt là việc đổi mới dạy học môn văn trong nhà trường của chúng ta theo hướng tích hợp. 2.1.2. SGK Ngữ văn theo hướng tích hợp đã được xây dựng xuyên suốt từ cấp Tiểu học, THCS và hiện nay đang tiếp tục triển khai ở THPT. Chương trình SGK đổi mới hợp nhất ba phân môn còn tồn tại độc lập: Văn học, Tiếng Việt, tập làm văn thành một quyển sách có tên gọi Ngữ văn. ở cuốn "Ngữ văn 6" ngay trong lời nói đầu tổng chủ biên SGK THCS Nguyễn Khắc Phi đã khẳng định: "Bên cạnh những hướng cải tiến chung của chương trình như: Giảm tải tăng thực hành, gắn đời sống cải tiến nổi bật của chương trình và SGK môn Ngữ văn là hướng tích hợp". Điều này thể hiện rõ ở sự thay đổi cấu trúc bài học trong SGK "Mục kết quả cần đạt đặt ở đầu nên mục tiêu mà học sinh cần đạt tới, ở mỗi bài gồm đủ cả ba phần ứng với ba phân môn, các văn bản được bố trí theo hệ thống thể loại và phần nào theo tiến trình văn học sử … Ngoài số lượng lớn văn bản được hướng dẫn tìm hiểu tại lớp, còn một số văn bản tự học có hướng dẫn mang tính chất bắt buộc nhằm hình thành phát triển thói quen và khả năng tự học, tìm tòi nghiên cứu. ở sách Ngữ văn 10 - chương trình đại trà tập 1 do GS Phan Trọng Luận tổng chủ biên, trong phần "Lời nói đầu" đã nêu rõ mục tiêu và cấu trúc của SGK về việc kế thừa và phát triển vận dụng hướng tích hợp ở mức cao hơn, linh hoạt hơn, phù hợp với trình độ tư duy của học sinh bậc THPT sách nêu rõ "Tiếp tục thực hiện tinh thần tích hợp ở THCS, học Ngữ văn trong nhà trường không thể tách rời ba bộ phận Văn, Tiếng Việt, và làm văn vốn là những yếu tố hợp thành của chương trình. Mỗi văn bản văn chương ưu tú cung cấp nhiều dữ kiện cho sự trau dồi, hoàn thiện tiếng Việt và việc làm văn. Ngược lại kiến thức về tiếng Việt và làm văn càng giúp cho chúng ta am hiểu hơn sự kỳ diệu trong mỗi văn bản, văn chương". Bên cạnh đó SGK còn thể hiện tính chất tổng hợp và cảm và nhân cách "Học Ngữ văn phải hướng vào cuộc sống để vận dụng kiến thức và để sống đúng, sống đẹp". Đặc biệt GS nhấn mạnh: "Học Ngữ văn theo hướng tích hợp là một yêu cầu quan trọng" đối với mỗi anh chị em HS. 2.1.3. Quan tâm đến vấn đề tích hợp, TS. Đỗ Ngọc Thống, người tham gia biên soạn chương trình SGK Ngữ văn THCS cũng có nhiều đóng góp đáng ghi nhận. Trong cuốn "Đổi mới việc dạy và học môn Ngữ văn ở THCS "NXBGD 2002, tác giả có một hệ thống bài viết về quan điểm tích cực và việc dạy học văn theo hướng tích hợp, giúp người đọc hiểu rõ "Việc lấy tên chung của cuốn sách là Ngữ văn không chỉ đơn thuần là dồn ba phân môn lại thành một cuốn sách theo kiểu gộp lại (Combination) mà chúng được xây dựng theo tinh thần tích hợp (Integration)". Trong bài viết "Dạy học môn Ngữ văn theo nguyên tắc tích hợp", tác giả chỉ ra biểu hiện của tích hợp là "Trong cuốn sách cả ba phân môn văn, tiếng Việt, Tập làm văn cùng dựa trên một văn bản chung để khai thác, hình thành, rèn luyện các kiến thức và kỹ năng của mỗi phân môn". Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra ưu điểm của nguyên tắc dạy học tích hợp, tích hợp thể hiện trong việc xây dựng cấu trúc SGK, trong quá trình tổ chức giờ dạy học, thay đổi cách soạn giáo án, cách kiểm tra đánh giá chất lượng học tập của học sinh. 2.1.4. Người tâm huyết với vấn đề đọc hiểu và vấn đề tích hợp là GS - TS. Nguyễn Thanh Hùng. Trong bài "Tích hợp trong dạy học Ngữ văn" đăng trên tạp chí "Nghiên cứu giáo dục" (số 6, tháng 3 năm 2006), tác giả đã chỉ ra bản chất của tích hợp là "Phương hướng phối hợp (Integrate) một cách tốt nhất các quá trình học tập của nhiều môn học cũng như các phân môn Văn, Tiếng Việt, làm văn trong một môn như Ngữ văn". Trên cơ sở phân tích tư tưởng tích hợp tác giả chỉ ra ý nghĩa của tích hợp: "Tích hợp trong nhà trường sẽ giúp học sinh học tập thông minh và vận dụng sáng tạo kiến thức, kỹ năng và phương pháp của khối lượng tri thức toàn diện, hài hoà (Harnonie) và hợp lý (Algebra) trong tình huống khác nhau và mới mẻ trong cuộc sống hiện đại". Trong bài viết này tác giả đã chỉ ra "Cái gốc của quan niệm tích hợp trong dạy học ngữ văn" đồng thời đi phân tích tương đối kỹ lưỡng nội dung và phương pháp, cách thức việc học, việc tích hợp trong dạy học Ngữ văn, ở đây tác giả nêu rõ "Mục đích bao quát của nguyên tắc tích hợp trong chương trình và SGK Ngữ văn là điều kiện giáo dục phù hợp, khả thi, phương pháp dạy và học mới có hiệu quả và cơ sở lý luận tích hợp một cách khoa học cùng với cách thức và mô hình tích hợp đa dạng để hình thành và dầu kỹ năng nghe, nói, đọc, viết trong văn hoá giao tiếp cho học sinh". 2.1.4. Tiến sỹ Nguyễn Văn Đường - CĐSP Hà Nội - trong báo cáo khoa học "tích hợp trong dạy học Ngữ văn bậc THCS" (xuất xứ?) cũng đã đề cập đến một số cơ sở lý luận và thực tiễn, bản chất của tích hợp và đề ra những phương hướng thực hiện tích hợp trong bài học Ngữ văn, song mới chỉ dừng lại ở phạm vi ứng dụng cho THCS. Ngoài ra còn có một số sách tham khảo, các bài báo, luận văn… viết về vấn đề tích hợp trong dạy học Ngữ văn. Các tài liệu trên đã đặt cơ sở lý luận cho việc dạy học theo hướng tích hợp, song đối tượng chủ yếu vẫn là THCS. Đối với cấp THPT, các tài liệu bàn về vấn đề dạy học theo hướng tích hợp còn rất ít. 2.2. Về chương trình SGK Ngữ văn 10 và đổi mới thiết kế giờ học tác phẩm văn chương. SGK Ngữ văn 10 được dựa vào dạy học thí điểm ở một số trường trên toàn quốc từ năm học 2003-2004 được đưa vào dạy thí điểm và năm học 2006 - 2007 áp dụng đại trà. Đây là bộ sách biên soạn theo chương trình mới, cách dạy học mới - dạy học theo hướng tích hợp. Vấn đề tích hợp đối với THCS đã được đưa vào dạy học được vài năm nen nó không có gì mới mẻ. Song đối với các giáo viên bậc THPT thì đây là một vấn đề hoàn toàn mới; bởi cách dạy, cách soạn giáo án là một vấn đề còn nhiều bỡ ngỡ mà tài liệu nghiên cứu về vấn đề này thì không nhiều mà chủ yếu là dựa vào sách giáo viên (SGV). Ngoài ra cũng có một số bài viết, luận văn nói về việc dạy học tích hợp Ngữ văn bậc THPT song mới dừng lại tích hợp ở một bài, một thể loại, hay một tác giả nào đó. SGK Ngữ văn 10 mới yêu cầu có thiết kế giờ học mới. Về đổi mới thiết kế giờ học tác phẩm văn chương (TPVC), GS Phan Trọng Luận là người có nhiều đóng góp đáng trân trọng. Trong cuốn "Thiết kế bài học TPVC ở nhà trường phổ thông" (Tập 1) từ những lý luận nhận thức về vai trò chủ thể sáng tạo của học sinh trong giờ học TPVC theo quan niệm dạy học tích cực (DHTC), GS nêu rõ "Một quan điểm đúng đắn về chủ thể học sinh đưa đến một sự thay đổi khá triệt để về cơ cấu giáo án lên lớp". Từ quan điểm DHTC coi học sinh là chủ thể sáng tạo trong giờ dạy dẫn đến việc phải có thiết kế dạy học phù hợp với quan điểm đó. Từ đó GS khẳng định: "Một giáo án theo quan niệm phát huy tính hài hoà giữa giáo viên và học sinh ở trên lớp, là một giáo án trong đó vận dụng nhiều phương pháp và biện pháp rèn luyện tư duy học sinh, song song với quá trình hoàn thành, kiến thức mới là một giáo án trong đó có được sự kết hợp hữu cơ giữa 3 yêu cầu hiểu biết, giáo dục với rèn luyện để họ tự phát triển". + Trong chuyên đề "Đổi mới thiết kế dạy học TPVC" (Văn học giáo dục thế kỷ XXI), GS đã xác định "Giờ học không phải là vấn đề truyền sáng tạo (xem lại chữ này) mà để khơi dạy sáng tạo của học sinh. Học sinh không phải là cái bình chứa mà là ngọn đèn cần được thắp sáng ". Dạy văn là sự khơi gợi sáng tạo chứ không phải là sự nhồi nhét, áp đặt. Do vậy "Cấu trúc giờ dạy phải được thay đổi về căn bản". Đó là tất yếu bởi chỉ có thay đổi mới phù hợp với sự tiếp cận của học sinh (ý đúng, nhưng cần diễn đạt lại), đặc biệt trong sự biến đổi chung của xã hội ngày nay. Song việc xây dựng thiết kế giờ DHTPVC không đơn giản, bởi "Mỗi học sinh là một thế giới tinh thần riêng. Mỗi giáo viên là một chủ thể độc đáo sáng tạo và không thể xóa bỏ hay lên án một khuôn mẫu sơ cứng, để thay đổi vào đó là một khuôn mẫu khác, cho dù nó được gọi là mới". Như vậy đổi mới thiết kế dạy học TPVC là một việc không đơn giản và không phải là sự phủ định phương pháp cũ mà là sự kế thừa từ phương pháp truyền thống. - Trong bản thảo sách giáo viên lớp 10 thí điểm từ năm học 2003-2004, các tác giả cũng xác định đổi mới thiết kế dạy học như là một trong những khâu then chốt để đổi mới phương pháp dạy học theo yêu cầu của chương trình và sách giáo khoa THPT mới. - Trên cơ sở tiếp thu những người đi trước, chúng tôi muốn tìm hiểu và đề xuất vấn đề cụ thể hơn đó là "Đổi mới thiết kế bài học Ngữ văn lớp 10 THPT theo hướng tích hợp". 3. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở tiếp thu một số tiền đề lý luận về đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn và thực tế của đổi mới chương trình và SGK Ngữ văn THPT, luận văn đề xuất một hướng thiết kế dạy học Ngữ văn lớp 10 THPT theo chương trình và SGK mới, thực hiện đại trà trên toàn quốc từ năm học 2006-2007. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở tiếp thu một số tiền đề lý luận về đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn theo chương trình và SGK mới và thực tế dạy học Ngữ văn lớp 10 ở THPT, luận văn này thực hiện các nhiệm vụ: - Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn ở Trường THPT theo đặc trưng, nhiệm vụ của bộ môn theo hướng tích cực, tích hợp và một số hệ thống các kiến thức có liên quan đến đề tài. - Khảo sát tình hình thiết kế dạy học Ngữ văn ở THPT để làm cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất đổi mới thiết kế dạy học Ngữ văn lớp 10 THPT theo chương trình và SGK mới. - Thiết kế thể nghiệm dạy học 3 bài (thuộc 3 phân môn) trong SGK chương trình lớp 10 mới. 5. Đối tượng nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu chương trình và SGK mới, đối tượng mà đề tài hướng tới là: Thiết kế dạy học Ngữ văn lớp 10 THPT (qua việc xây dựng thiết kế bài số … (3 bài). 6. Phương pháp nghiên cứu Dựa trên trình tự tiếp cận đối tượng, người viết sử dụng 3 nhóm phương pháp nghiên cứu chính: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu (lý thuyết). - Phương pháp so sánh, đối chiếu. - Phương pháp thực nghiệm có đối chứng. 7. Đóng góp mới của luận văn Bước đầu nghiên cứu lý luận và đề xuất một phương án xây dựng thiết kế dạy học Ngữ văn lớp 10 theo hướng tích hợp và phát huy tính tích cực chủ động của học sinh giờ dạy học Ngữ văn. 8. Giả thuyết khoa học Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về đổi mới thiết kế bài học Ngữ văn nếu xây dựng được thiết kế dạy học Ngữ văn theo hướng tích hợp và phát huy tinh thần tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của giờ dạy học Ngữ văn. 9. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chương I: Một số vấn đề về cơ sở khoa học của việc đổi mới thiết kế dạy học Ngữ văn ở THPT. Chương II: Yêu cầu và nội dung của thiết kế dạy học Ngữ văn lớp 10 theo chương trình và SGK mới. Chương III: Thiết kế thể nghiệm. Phần II: Nội dung Chương 1 một số vấn đề về Cơ sở khoa học của việc thiết kế bài học ngữ văn 10 THPT theo hướng tích hợp 1. Một số vấn đề chung về quan điểm tích hợp 1.1 Một số quan điểm về tích hợp Bất kỳ một quam điểm mới mẻ nào khi ra đời cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Quan điểm tích hợp cũng là một trường hợp nằm trong số đó. Trước khi đi vào quan điểm tích hợp, chúng tôi xin điểm ra bốn quan điểm khác nhau về môn học của D' Hainaut (3, T46) đó là: Quan điểm "Trong nội bộ môn học, trong đó chúng ta ưu tiên các nội dung của môn học, quan điểm này nhằm duy trì các môn học riêng rẽ. Quan điểm "Đa môn", quan điểm này đề nghị những tình huống, những đề tài khác nhau có thể được nghiên cứu theo những quan điểm khác nhau. Những môn học được tiếp cận riêng rẽ và chỉ gặp nhau ở một thời điểm trong quá trình nghiên cứu một đề tài, một vấn đề nào đó mà thôi. Như vậy, các môn học không thực sự được tích hợp. Quan điểm "Liên môn" quan điểm này đề xuất những tình huống chỉ có thể được tiếp cận một cách hợp lý qua sự soi sáng của nhiều môn học. Đồng thời nhấn mạnh đến sự liên kết các môn học, làm cho chúng tích hợp với nhau để giải quyết một tình huống cho trước. Các quá trình học tập sẽ không được đề cập một cách rời rạc mà phải liên kết với nhau xung quanh những vấn đề phải giải quyết. Quan điểm "Xuyên môn", chủ yếu phát triển những kỹ năng mà học sinh có thể ứng dụng trong tất cả các môn học, trong tất cả các tình huống. Kỹ năng này gọi là kỹ năng chuyên môn. Bốn quan điểm về môn học nêu trên là cơ sở, tiền đề giúp chúng ta hiểu rõ hơn về khái niệm, bản chất, đặc điểm của tích hợp thông qua một số quan điểm sau đây: 1.1.1 Quan điểm của Franeois - Marie Gerard - do ông Xavier Roegier - Phó Giám đốc Văn phòng Công nghệ giáo dục và đào tạo (BIFF), tác giả cuốn "Khoa sư phạm Tích hợp hay làm thế nào để phát triển các năng lực ở nhà trường" chọn dịch (diễn đạt lại). ở đây, tác giả cho rằng: "Có thể tích hợp các kiến thức được lĩnh hội ở nhà trường bằng nhiều cách: - Tích hợp trong phạm vi một môn học, bằng cách theo đuôi các mục tiêu học tập. - Quan điểm xuyên môn, mà nội dung là phát triển các năng lực chung cho nhiều môn gọi là năng lực xuyên môn. - Quan điểm liên môn hay tích hợp giữa các môn học, mà nội dung là vận dụng các thông tin lấy từ nhiều môn học khác nhau để giải quyết một vấn đề (3,233). Quan điểm này đã giúp chúng ta nắm rõ bản chất nội dung, cách thức của tích hợp. Cũng ở đây ông nhấn mạnh "Quan điểm liên môn, có thể được thể hiện bằng những ứng dụng chung cho nhiều bộ môn, được trình bày khi có điều kiện trong các mô đun (đơn nguyên) tích hợp, hoặc bằng sự phối hợp các quá trình học tập của nhiều bộ môn, sự phối hợp này thực hiện bằng cách theo đuổi mục tiêu tích hợp duy nhất, hoặc thực hiện bằng cách triển khai nhiều bộ môn có nội dung gần nhau trên cơ sở tương tác liên tục, nhưng mỗi bộ môn vẫn giữ những mục tiêu riêng của mình. Như chúng ta đã biết việc dạy học tách biệt các phân môn ràng rẽ tách biệt tồn tại trong thời gian dài vừa qua dù nó cũng có ưu thế riêng song không tách khỏi sự trùng lặp, dư thừa kiến thức một cách không cần thiết, mất nhiều thời gian của cả người học và người dạy mà lượng kiến thức thu được của học sinh lại không cao. Hiện nay cách dạy học theo quan điểm này không còn phù hợp, với sự bùng nổ thông tin như hiện nay nếu dạy theo cách dạy học cũ thì sẽ trở thành lạc hậu. Vì thế giáo dục hiện đại đã có một cái nhìn mới vượt cái nhìn bộ môn ở một khía cạnh mới hơn đó là tích hợp. 1.1.2 Cũng trong cuốn "Khoa sư phạm tích hợp hay làm thế nào để phát triển các năng lực ở nhà trường" tác giả Xivier Roegiers đưa ra định nghĩa về khoa sự phân tích hợp như sau: "KSPTH là một quan niệm về quá trình học tập góp phần hình thành ở HS những năng lực rõ ràng, có dự tính trước những điều cần thiết cho học sinh, nhằm phục vụ cho các quá trình học tập tương lai, hoặc nhằm hoà nhập học sinh vào cuộc sống lao động. Như vậy, KSPTH tìm cách làm cho quá trình học tập có ý nghĩa. Ngoài những quá trình học tập đơn lẻ cần thiết cho các năng lực đó KSPTH dự định những hoạt động tích hợp trong đó học sinh học cách sử dụng phối hợp những kiến thức, những kỹ năng và những động tác đã lĩnh hội một cách rời rạc. KSPTH sàng lọc cẩn thận những thông tin có ích để hình thành các năng lực và mục tiêu tích hợp. 1.1.3 Quan điểm của SGK Ngữ văn THCS: Trong SGV Ngữ văn 6 - tập 1 - NXB GD, HN, 2003, do GS. Những Khắc Phi tổng chủ biên có nêu: Tích hợp là "Một phương hướng nhằm phối hợp một cách tối ưu các quá trình học tập riêng rẽ, các môn học khác nhau theo những hình thức mô hình, cấp độ khác nhau nhằm đáp ứng những mục tiêu, mục đích và yêu cầu cụ thể khác nhau". 1.1.4 Quan điểm của SGK Ngữ văn THPT: Trong "Lời nói đầu" cuốn SGK Ngữ văn 10 tập 1 bộ đại trà do GS Phan Trọng Luân chủ biên viết "SGK Ngữ văn 10 tiếp tục thực hiện tinh thần tích hợp ở THCS cụ thể là học Ngữ văn trong nhà trường không thể tách rời ba bộ phân văn, tiếng việt và làm văn vốn là những yếu tố hợp thành sinh động của chương trình…". Mỗi văn bản văn chương ưu tú cung cấp nhiều dữ kiện cho sự trau dồi, hoàn thiện tiếng việt và việc làm văn. Ngược lại kiến thức về Tiếng việt và làm văn càng giúp cho chúng ta am hiểu hơn sự kì diệu trong mỗi văn bản văn chương. 1.1.5 Một số quan điểm khác về tích hợp: - GS.TS. Nguyễn Thanh Hùng trong bài viết "Tích hợp trong dạy học Ngữ văn" cho rằng "Có thể hiểu tích hợp (Integration) là một phương hướng phối hợp (Integrate) một cách tốt nhất các quá trình học tập của nhiều môn học". TS. Đỗ Ngọc Thống - người tham gia biên soạn SGK Ngữ văn THCS và THPT đã đưa ra quan điểm: "Tích hợp (theo cách hiểu trên thế giới hiện nay) là theo tinh thần ba phân môn hợp nhất lại" hoà trộn "trong nhau, học cái này thông qua các kia và ngược lại" {8, 130}. - TS. Nguyễn Minh Phương và TS Cao Thị Thăng trong bài viết "Xu thế tích hợp môn học trong nhà trường Phổ thông" thì cho rằng: "Tích hợp có nghĩa là sự hợp nhất, sự hoà nhập, sự kết hợp. Trong giáo dục, tích hợp có thể hiểu là sự lồng ghép, kết hợp tổ hợp các nội dung với nhau". - PGS.TS. Nguyễn Huy Quát trong cuốn "Nâng cao năng lực đổi mới PPDH Văn (T 149) PGS thì "Khái niệm tích hợp là sự phối hợp các tri thức gần gũi, có quan hệ mật thiết với nhau nhằm tạo nên kết quả tổng hợp nhanh chóng và vững chắc". - TS. Nguyễn Trọng Hoàn trong bài "Tích hợp và liên hội hướng tới kết nối trong dạy học Ngữ văn" thì "Tích hợp là thuật ngữ mà nơi làm của nó chỉ hướng tiếp cận kiến thức từ việc khai thác giá trị của các tri thức công cụ thuộc từng phân môn trên cơ sở một (hoặc một số) văn bản có vai trò là kiến thức nguồn". - Trong báo cáo khoa học "Tích hợp trong dạy học Ngữ văn bậc THCS". TS. Nguyễn Văn Đường lại cho rằng: "Tích hợp (Intergation) không phải là tổ hợp (combinaison) càng không phải là sự ghép nối hay phép cộng đơn giản. Tích hợp được biểu hiện ở các cấp độ khác nhau trên các bình diện khác nhau". Với các quan điểm, các khái niệm về tích hợp nêu trên chúng ta thấy tuy có quan điểm các giả thể hiện các cách hiểu, cách diễn đạt khác nhau những trong các quan điểm đều thể hiện nội dung, bản chất của tích hợp qua các từ, cụm từ: Phối hợp, chỉnh thể thống nhất, nhất thể, hợp nhất, hoà trộn… Các quan điểm trên đều nêu lên được vấn đề trọng tâm, cốt lõi của tích hợp và đều có điểm chung hợp nhất trong tinh thần tích hợp là làm sao để có thể gắn kết các môn học với nhau, thể hiện rõ được mối liên hệ, tác động lần nhau, tránh việc dạy một cách biệt lập riêng rẽ giữa các môn học. Trong Ngữ văn thì đó là sự gắn kết giữa ba phân môn Văn - Tiếng việt - Làm văn như nó vốn có cũng như làm rõ mối liên hệ giữa Ngữ văn với các bộ môn gần gũi, có liên quan như môn sử, địa, triết học, tâm lí… Với tinh thần học hỏi, tiếp thu, kế thừa các quan điểm của người đi trước, tác giả luận văn mạnh dạn bày tỏ cách hiểu của mình về vấn đề này như sau: Tích hợp là sự hợp nhất, liên kết giữa các phân môn trong bộ môn, giữa các bộ môn có liên quan, giữa các phân môn, bộ môn có quan hệ hỗ trợ nhau tạo thành một thể thống nhất nhằm tránh tình trạng dạy học tách biệt, riêng rẽ giữa các phân môn trong bộ môn. Qua đó rèn luy

File đính kèm:

  • docDoi moi DH ngu van 11 theo huong tich hop.doc