Giáo án Ngữ văn 10 Tiết 113 đọc văn: tuần 29 Trao duyên

A. MỤC TIÊU BÀI HỌC : Giúp HS:

 1. Cảm nhận được tình yêu và nỗi đau khổ của Thúy Kiều trong đêm “Trao duyên”

 2. Thấy được tài nghệ tuyệt vời của Nguyễn Du trong việc miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật

B. PHƯƠNG TIỆN :

- SGK nâng cao, SGK chuẩn, SGV, Sách bài tập.

- Thiết kế bài học.

C. PHƯƠNG PHÁP:

 GV có thể tổ chức giờ học theo cách kết hợp giữa đọc với gợi tìm; kết hợp với các hình thức trao đổi thảo luận với trả lời các câu hỏi.

D. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC DẠY HỌC:

 1. Ổn định tổ chức

2. Kiểm tra bài cũ:

3. Bài mới:

 Trong bài thơ “Tâm sự nàng Thúy Vân” nhà thơ Trương Nam Hương bày tỏ cảm xúc:

Xót thương lời chị dặn dò

Mười lăm năm đắm con đò xuân xanh

Chị yêu lệ chảy đã đành

Chớ em nước mắt đâu đành chàng Kim

Ô kìa sao chị ngồi im

Máu còn biết chảy về tim để hồng

 Lấy người yêu chồng làm chông

Đời em thế thắt một vòng oan khiên

Bài thơ kết luận:

Em thành vợ của chàng Kim

Ngồi ru giọt máu tượng hình chị trao

Giấu đầy đêm nỗi khát khao

Kiều ơi! Em biết khi nào được yêu.

 Đó là lời tâm sự của Thúy Vân, còn Kiều biểu hiện tâm trạng gì và xử sự như thế nào, chúng ta tìm hiểu “Trao duyên”, phần trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.

 

doc6 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1456 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo án Ngữ văn 10 Tiết 113 đọc văn: tuần 29 Trao duyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiết 113 ĐỌC VĂN: Tuần 29 TRAO DUYÊN Nguyễn Du Ngày soạn : 14.03.2007 A. MỤC TIÊU BÀI HỌC : Giúp HS: 1. Cảm nhận được tình yêu và nỗi đau khổ của Thúy Kiều trong đêm “Trao duyên” 2. Thấy được tài nghệ tuyệt vời của Nguyễn Du trong việc miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật B. PHƯƠNG TIỆN : - SGK nâng cao, SGK chuẩn, SGV, Sách bài tập. - Thiết kế bài học. C. PHƯƠNG PHÁP: GV có thể tổ chức giờ học theo cách kết hợp giữa đọc với gợi tìm; kết hợp với các hình thức trao đổi thảo luận với trả lời các câu hỏi. D. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC DẠY HỌC: 1. Ổn định tổ chức 2. Kiểm tra bài cũ: 3. Bài mới: Trong bài thơ “Tâm sự nàng Thúy Vân” nhà thơ Trương Nam Hương bày tỏ cảm xúc: Xót thương lời chị dặn dò Mười lăm năm đắm con đò xuân xanh Chị yêu lệ chảy đã đành Chớ em nước mắt đâu đành chàng Kim Ô kìa sao chị ngồi im Máu còn biết chảy về tim để hồng Lấy người yêu chồng làm chông Đời em thế thắt một vòng oan khiên Bài thơ kết luận: Em thành vợ của chàng Kim Ngồi ru giọt máu tượng hình chị trao Giấu đầy đêm nỗi khát khao Kiều ơi! Em biết khi nào được yêu. Đó là lời tâm sự của Thúy Vân, còn Kiều biểu hiện tâm trạng gì và xử sự như thế nào, chúng ta tìm hiểu “Trao duyên”, phần trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. HOẠT ĐỘNG CỦA GV &HS YÊU CẦU CẦN ĐẠT HS đọc SGK - Phần tiểu dẫn trình bày nội dung gì? - Giải thích các từ khó - Xác định bố cục và nội dung mỗi đoạn nói gì? - Đại ý? 1. Trao duyên là chuyện tế nhị, khó nói. Kiều đã nói và làm như thế nào để Thúy Vân chấp nhận. Hãy phân tích. - Em có suy nghĩ như thế nào về lời lẽ của Thúy Kiều? - Em có suy nghĩ gì về cử chỉ này? - Ngoài lời nói và cử chỉ, trong trtao duyên, Kiều còn nối những gì? - Em có suy nghic gì về lời lẽ ấy? 2. Phân tích tâm trạng của Kiều sau khi trao duyên, ý thức của nàng về thân phận, về tình yêu? - Trao kỉ vật xong, kiều cảm thấy như thế nào khi nghĩ về Kim Trọng? I. Tìm hiểu chung: 1. Tiểu dẫn - Tác giả SGK trình bày vị trí đoạn trích Sau đêm thề nguyền giữa Kim Trọng và vàThúy Kiều ở Liễu Dương. Tai nạn ập đến với gia đình Kiều vì sự xưng xuất của thằng bán tơ. Cha, em bị đánh đập tàn nhẫn, của nả bị cướp sạch. Kiều phải bán mình chuộc tội cho cha và em. Công việc nhà tạm ổn, nhưng mối tình của mình thì lở dỏ. Chỉ còn lại một đêm ở nhà, ngày mai phải đi theo MãGiám Sinh, Thúy Kiều đã cậy nhờ Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng. Đoạn trích từ câu 723 đến 756 trong tác phẩm “Truyện Kiều”. Tiêu đề do người soạn sách tự đặt ra. 2. Đoạn trích: a) Bố cục: Đoạn trích có thể chia làm hai doạn + Đoạn 1: 10 câu đầu: Thúy Kiều trao duyên, cậy nhờ Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng + Đoạn 2: Còn lại: Diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều sau khi trao duyên. Đó là lưu luyến những kỉ vật, với tình yêu của mình. Nàng coi hạnh phúc của mình đã chấm dứt, nàng càng đau đớn vì tình yêu tan vỡ, vì buộc phải phụ tình Kim Trọng - Đoạn trích miêu tả cách xử sự của Thúy Kiều khi cậy nhờ Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng. Đồng thời làm rõ diễn biến tâm trạng đầy đau khổ tuyệt vọng của Kiều khi tình yêu tan vỡ, buộc phụ tình với Kim Trọng II. Đọc hiểu: - Đem tình yêu của mình trao cho người khác là một chuyện bất đắc dĩ. Trường hợp của Kiều không thể đđành được, buộc nàng phải làm như thế.. Vả lại việc vợ chồng là chuyện hệ trọng cả một đời người, không yêu sao có thể lấy làm chồng được. Trao duyên trong hoàn cảnh của Thúy Kiều là chuyện tế nhị và khó nói. - Kiều đã xử xự như thế nào, đã lựa chọn cách nói như thế nào để người em gái của mình chấp nhận lời thỉnh cầu? Ngay từ lời mở đầu Kiều đã lựa chọn lời lẽ thích hợp nhất: Cậy em em có chịu lời - “Cậy” chứ không phải nhờ. “Cậy” là thể hiện niềm tin nhất. Vì thế, “cậy” có sức nặng của niềm tin hơn. “Chịu lời” chứ không phải nhận lời. “Chịu lời” buộc người mình tin phải nghe theo không thể từ chối. Nếu nói nhận lời thì người nghe có thể chối từ. - Trong lúc bối rối và đau khổ nhất, Kiều vẫn lựa những lời lẽ để thuyết phục đứa em ruột của mình. Bởi những gì nàng sắp nói ra vô cùng hệ trọng với hạnh phúc của em mình. Kiều không chỉ lựa lời mà cử chỉ thông qua lời thoại. “Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa” - Tại sao chị phải lạy em? Làm như thế có trái với đạo lí không? Kiều lạy là lạy đức hi sinh cao cả của Thúy Vân. Bởi rồi đây Thúy Vân phải chấp nhận lấy người mình không được yêu, cụ thể “lấy người yêu của chị làm chồng” Hai câu mở đầu đoạn trích, ta nhận ra dù trong hoàn cảnh tan nát lòng Thúy Kiều vẫn bộc lộ sự đoan trang tế nhị - Nàng có nói về mối tình của mình, hoàn cảnh của mình: Kể từ khi găp chàng Kim Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề Sự đâu sóng gió bất kì Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai Tình sâu mà hiếu cũng nặng. Hoàn cảnh này buộc Kiều phải lựa chọn. Lẽ tất nhiên Kiều phải hi sinh tình yêu để làm tròn chữ Hiếu. Cách nói này của Thúy Kiều cốt để Thúy Vân thấy được sự hi sinh của Kiều mà thương lấy nàng. Đến đây kiều có thể nối được những điều muốn nói: Ngày xuân em hãy còn dài Xót tình máu mủ thay lời nước non - Trao duyên cho ThúyVân, Thúy Kiều trao kỉ vật: Chiếc vành với bức tờ mây Duyên này thì giữ, vật này của chung + Bức tờ mây -> Tờ giấy có trang trí hình mây, ghi lại lời thề chung thủy của Kim-Kiều. + Chiếc vành còn gọi là xuyến bằng vàng, đồ trang sức của phụ nữ, Kim Trọng đã trao cho Thúy Kiều để làm tin. Đó là những kỉ vật. Một tiếng “giữ” không có nghĩa là “trao” hẳn mà chỉ để cho em giữ. Nhưng tiếng “chung” mới thật xa xót. Bởi đáng lẽ kỉ vật này là của nàng mới đúng sao lại là của chung. Không đành được, Kiều phải trao lại cho em. Thế mới biết tình yêu Kim-Kiều nồng nàn và sâu sắc đến mức độ nào. Kiều vẫn trao duyên cho em chứng tỏ trong tình yêu và vì tình yêu, Kiều đã đặt hạnh phúc của người yêu lên trên hết. - Có người cho rằng khi trao kỉ vật, tâm trạng Thúy Kiều chứa đầy mâu thuẫn giữa hoàn cảnh bắt buộc và nội tâm của Kiều. Nàng đã vượt qua mâu thuẫn ấy để đón nhận nỗi đau về mình. - Nàng coi như mình đã chết. Đó là cái chết của tâm hồn. Vì nàng ý thức hạnh phúc của mình là hết rồi, đã chấm dứt. Từ đây ngôn ngữ trong lời đối thoại của Kiều gợi ra cuộc sống ở cõi âm, đầy ma mị Trông ra ngọn cỏ lá cây Thấy hiu hiu gió là hay chị về Hồn còn mang nặng lời thề Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai Dạ đài cách mặt khuất lời Rưới xin giọt nước cho người thác oan. Những từ ngữ và hình ảnh: Cách mặt khuất lời, dạ đài, người thác oan, hồn, nát thân bồ liễu, hiu hiu gió là hay chị về… Nàng đã ý thức được thân phận của mình. Lời nói của Kiều là lời nói của một oan hồn. Tâm trạng của nàng đau đớn đến tột cùng. Nàng đã tự khóc cho mình. Đó là tiếng khóc cho thân phận - Nàng quên hẳn người ngồi trước mặt mình là Thúy Vân, Kiều tâm sự với chàng Kim: “Bây giờ trâm gãy bình tan Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân Trăm nghìn gửi lạy tình quân Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi Phận sao phận bạc như vôi Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng Ôi ! Kim lang hỡi Kim lang ! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây » Từ đau khổ, lời thơ chuyển thành tiếng khóc. Nỗi khổ đau cứ tăng lên mãi, đau cho « tơ duyên ngắn ngủi », đau cho « phận bạc », đau cho một đời « hoa trôi lỡ làng » và cuối cùng tiếng khóc nức nở ấy tự cho mình là người phụ bạc người mình yêu. III. Củng cố : Trao duyên là âm hưởng mở đầu cho cung đàn bạc mệnh, đau đớn của Thúy Kiều. - Đoạn trích bộc lộ phẩm chất cao quý của Thúy Kiều trong tình yêu. Tình yêu tan vỡ, nàng đã làm tất cả những gì cho hạnh phúc của người mình yêu. - Đoạn trích cũng thể hiện nỗi đau đớn cực độ khi phải tự nguyện lìa bỏ mối tình đầu của mình Nghệ thuật của đoạn trích thể hiện Nguyễn Du rất thấu hiểu về con người qua lởi thoại thể hiện tâm trạng của Kiều. 4. HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN BÀI TẬP NÂNG CAO: Đoạn trích “Trao duyên” thể hiện bi kịch tình yêu. Hãy cho biết thực chất của bi kịch ở đây là gì? * Khát vọng lớn lao của Kiều là xây dựng tình yêu và hạnh phúc với Kim Trọng. Song thực tế xã hội phong kiến đã không để cho nàng thực hiện một khát vọng ấy. Nó như một trở lực, một thế lực đè nặng lên khát vọng của nàng mà kéo xuống thành bi kịch, buộc nàng phải từ bỏ mối tình đầu. Vì thế cơ sở của bi kịch tình yêu ấy là sự hi sinh. Trong tác phẩm, Kiều đã hai lần hi sinh tình yêu của mình. Lần thứ nhất nàng chọn chữ ‘hiếu” “làm con quyết phải đền ơn sinh thành”. Lần tứ hai nàng cũng tự hi sinh để mang lại hạnh phúc cho người yêu. Sự hi sinh ấy làm cho nhân phẩm của thúy Kiều càng cao thượng. Mặt khác, ta nhận ra sự đau đớn xót xa của sự hi sinh. Nỗi mất mát nào chẳng mang đến sự thức tỉnh về hạnh phúc, quyền sống cá nhân con người. Từ đây, đoạn trích “trao duyên” thể hiện sâu sắc tư tưởng nhân đạo của Đại thi hào Nguyễn Du. 5. CỦNG CỐ: 6. DẶN DÒ: E. TƯ LIỆU (DÀNH CHO HS CHUYÊN VĂN): Đoạn thơ cuối là cảm giác trở về của Thúy Kiều từ cõi hư không. Thời gian không còn là thời gian tâm trạng, đó là thời gian khách thể. Trở về với hiện thực, Thúy Kiều xót xa chấp nhận sự phũ phàng của định mệnh, chấp nhận “trâm gãy bình tan”, ‘tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”. Đoạn thơ dùng nhiều thành ngữ để nói tới cái “nhất thành bất biến” không thể thay đổi, chuyển dời, ý thức về hiện tại, Kiều chỉ còn biết thương mình, oán hờn số phận mình. Ngay trong lúc tưởng chừng Kiều sẽ buông xuôi, thì suy nghĩ của nhân vật lại rẽ sang hướng khác: Ôi ! Kim lang hỡi Kim lang ! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây ! Câu thơ thực chất là tiếng kêu thảng thốt, là tiếng nấc nghẹn ngào của người con gái đã hoàn toàn tuyệt vọng. Thúy Kiều sau đó cách xa Kim trọng mười lăm năm nhưng trong mười lăm năm ấy, không lúc nào nàng nguôi nhớ đến mối tình đầu. Song có lẽ không cần phải đợi đến mười lăm năm. Ngay trong ngày phải đau đớn « trao duyên » người đọc có thể thấy tình yêu trong lòng người con gái ấy không có gì có thể chia cắt nổi. Ở Trao duyên , còn phải ghi nhận một thành công, đó là bút lực sắc sảo tuyệt vời của Nguyễn Du trong nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật.

File đính kèm:

  • docTrao duyen .doc