I. MỤC TIÊU CHUNG:
1. Kiến thức: HS cần nắm được:
a) Nội dung:
- Đặc điểm thể loại truyện thơ, tư tưởng chủ đề được phản ánh trong truyện thơ, trong “Truyện Kiều” nói chung, và của tác phẩm đoạn trích “Trao duyên” nói riêng.
- Diễn biến tâm trạng sâu sắc của Thuý Kiều trong từng đoạn thơ khi trao duyên và trao kỷ vật cho em.
b) Nghệ thuật:
- Nghệ thuật ước lệ trung đại đặc sắc.
- Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật.
- Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt đạt đến đỉnh cao thông qua các phép láy, đối, so sánh
C) Ý nghĩa:
- Giá trị nhân đạo của tác phẩm “Truyện Kiều” nói chung, và của đoạn trích “Trao duyên” nói riêng.
- Vai trò to lớn, vị trí thứ nhất của của đại thi hào Nguyễn Du trong nền văn học Việt Nam.
- Vị trí đột phá về mặt nội dung và nghệ thuật của tác phẩm “Truyện Kiều”.
2. Kỹ năng:
Biết cách tiếp cận một tác phẩm trữ tình thuộc thể loại truyện thơ.
3. Thái độ:
- Đồng cảm với đau đớn, giằng xé của người phụ nữ tài hoa mà bạc mệnh, học tập tư tưởng nhân đạo được phản ánh trong tác phẩm.
- Lên án chế độ xã hội thối nát đã đẩy những con người lương thiện, những con người tài hoa vào đến bước đường cùng.
- Thêm yêu ngôn ngữ tiếng Việt hơn.
- Có một thái độ đúng đắn khi nhìn về hình tượng nàng Kiều và người phụ nữ nói chung.
11 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1440 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo án Ngữ văn 10- Trao duyên (trích “truyện kiều”), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đại học quốc gia hà nội
Trường Đại học Ngoại NGữ
Phổ thông trung học chuyên ngoại ngữ
Giáo án môn đọc – hiểu văn
Bài: truyện kiều
Phần hai: đoạn trích
“Trao duyên”
Giáo viên hướng dẫn : Nguyễn Thị Hoa
Giáo sinh thực tập : Dương Văn Thiệu
Hà Nội, 3/2007
Trao duyên
(Trích “Truyện Kiều”)
Nguyễn Du
Vị trí bài dạy: Chương trình lớp 10 ban Cơ Bản, SGK Ngữ Văn 10 (cơ bản), tập II, NXBGD.H2006. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên)
Số tiết: 1
Đối tượng: Học sinh lớp 10 trường PTTH chuyên Ngoại Ngữ, Đại học Ngoại Ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Mục tiêu chung:
Kiến thức: HS cần nắm được:
Nội dung:
Đặc điểm thể loại truyện thơ, tư tưởng chủ đề được phản ánh trong truyện thơ, trong “Truyện Kiều” nói chung, và của tác phẩm đoạn trích “Trao duyên” nói riêng.
Diễn biến tâm trạng sâu sắc của Thuý Kiều trong từng đoạn thơ khi trao duyên và trao kỷ vật cho em.
Nghệ thuật:
Nghệ thuật ước lệ trung đại đặc sắc.
Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật.
Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt đạt đến đỉnh cao thông qua các phép láy, đối, so sánh…
ý nghĩa:
Giá trị nhân đạo của tác phẩm “Truyện Kiều” nói chung, và của đoạn trích “Trao duyên” nói riêng.
Vai trò to lớn, vị trí thứ nhất của của đại thi hào Nguyễn Du trong nền văn học Việt Nam.
Vị trí đột phá về mặt nội dung và nghệ thuật của tác phẩm “Truyện Kiều”.
Kỹ năng:
Biết cách tiếp cận một tác phẩm trữ tình thuộc thể loại truyện thơ.
Thái độ:
Đồng cảm với đau đớn, giằng xé của người phụ nữ tài hoa mà bạc mệnh, học tập tư tưởng nhân đạo được phản ánh trong tác phẩm.
Lên án chế độ xã hội thối nát đã đẩy những con người lương thiện, những con người tài hoa vào đến bước đường cùng.
Thêm yêu ngôn ngữ tiếng Việt hơn.
Có một thái độ đúng đắn khi nhìn về hình tượng nàng Kiều và người phụ nữ nói chung.
Phương pháp:
Thuyết giảng tích cực.
Hỏi - đáp.
Phương tiện:
SGK Ngữ Văn 10 (cơ bản), tập II, NXBGD.H2006. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên)
Tài liệu tham khảo:
+ SGV Ngữ Văn 10.
+ Kỹ năng đọc – hiểu văn bản Ngữ Văn 10.
+ Bình giảng văn học Việt Nam.
+ Thiết kế bài giảng Ngữ Văn 10…
Phấn, bảng …
Chuẩn bị:
Giáo viên:
Soạn giáo án.
Hướng dẫn HS chuẩn bị bài ở nhà.
Học sinh:
HS chuẩn bị bài theo yêu cầu của giáo viên.
Nội dung cần chuẩn bị:
Đọc, chia đoạn đoạn trích.
Trả lời các câu hỏi phần hướng dẫn đọc hiểu.
Tiến trình bài dạy:
Hoạt động của thầy
Hoạt động của trò
Nội dung
- Dẫn vào bài mới
- Hỏi: Gọi HS đọc đoạn trích.Theo em đoạn trích có thể được chia thành mấy đoạn?
- Nhận xét câu trả lời của HS và giới thiệu về đoạn trích.
- Hỏi: Em thấy có điều gì khác biệt trong cách dùng từ của Nguyễn Du khi miêu tả cảnh Thuý Kiều nhờ cậy Thuý Vân?
- Tổng kết câu trả lời của học sinh và trình bày về cảnh trao duyên và tâm trạng của Thuý Kiều khi trao duyên cho Thuý Vân.
- Hỏi: Thuý Kiều đã dùng những lý lẽ nào để để thuyết phục em thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng?
- Nhận xét câu trả lời và hệ thống lại các lý lẽ mà Thuý Kiều đã đưa ra để thuyết phục Thuý Vân.
- GV dẫn vào đoạn trao kỷ vật cho Thuý Vân.
- Hỏi: Em nghĩ thế nào về chữ “duyên” và chữ “của chung”?
- Nhận xét và giải thích thêm về chữ “duyên” và “của chung”.
- GV phân tích về tâm trạng đau đớn của Thuý Kiều khi trao xong kỷ vật cho Thuý Vân.
- GV Phân tích tâm trạng của Thuý Kiều khi chím vào suy tưởng.
- GV dẫn và phân tích về tâm trạng của Kiều khi trở lại thực tại.
- GV Tổng kết lại bài học
- Nghe.
- Nghe, trả lời câu hỏi.
- Nghe, ghi chép.
- Nghe, trả lời câu hỏi.
- Nghe, ghi chép.
- Nghe, trả lời câu hỏi.
- Nghe, ghi chép.
- Nghe, ghi chép
- Nghe, trả lời câu hỏi.
- Nghe, ghi chép
- Nghe, ghi chép
- Nghe, ghi chép
- Nghe, ghi chép
- Nghe, ghi chép
Dẫn: “Truyện Kiều” là một câu truyện về cuộc đời đầy biến cố và đau khổ của Thuý Kiều. Sóng gió của cuộc đời Kiều bắt đầu từ vụ vu oan của thằng bán tơ, đó là dịp để cho bọn quan sai bắt bớ kiếm trác. Kiều đã phải bán thân để có tiền chuộc cha và em trai ra khỏi tù ngục. Nhưng nàng còn mang nặng mối tình với Kim Trọng, do vậy Thuý Kiều đã quyết định nhờ cậy em thay mình lấy Kim Trọng. Đoạn Thuý Kiều trao duyên cho em là một đoạn thơ đặc sắc của tác phẩm, nó khắc hoạ tâm trạng của nhân vật một cách sâu sắc, đa dạng với một phong cách nghệ thuật bậc thầy về ngôn ngữ tiếng Việt và thơ lục bát của Nguyễn Du.
Giới thiệu về đoạn trích “Trao duyên”:
Trích trong “Truyện Kiều” từ câu 723 đến câu 756.
Nội dung: Sau khi bọn sai nha gây ra vụ án oan sai với gia đình Vương viên ngoại, Vương ông và Vương Quan bị bắt giam. Thuý Kiều phải hy sinh mối tình với Kim Trọng để có tiền lo lót cứu cha và em trai ra khỏi tù ngục. Thuý Kiều đã thức trắng đêm để suy nghĩ về chữ tình và chữ hiếu, cuối cùng nàng quyết định hy sinh tình yêu riêng của mình vì chữ hiếu. Đoạn trích kể về việc Thuý Kiều nhờ Thuý Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng.
Độc thoại nội tâm: lời phát ngôn của nhân vật nói với chính mình, thể hiện trực tiếp biến đổi nội tâm, mô phỏng hoạt động cảm xúc, suy nghĩ trực tiếp của con người trong dòng chảy của nó.
Bố cục: 2 phần:
+ Phần 1: Từ đầu đến “Ngậm cười chính suối hãy còn thơm lây”: Thuý Kiều trao duyên cho Thuý Vân.
+ Phần 2: Phần còn lại: Thuý Kiều trao kỷ vật cho Thuý Vân.
Phân tích:
Thuý Kiều cậy nhờ Thuý Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.
- Thuý Kiều đau đớn, khấn khoản muốn nhờ cậy em một việc rất hệ trọng:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”
Nàng phải băn khoăn giữa chữ tình và chữ hiếu, cuối cùng nàng đã chọn chữ hiếu, nhưng nàng không muốn là người bạc quá bạc tình với Kim Trọng. Nàng nhờ Thuý Vân thay mình hoàn thành lời hứa với Kim Trọng.
ở đây nàng không dùng từ “nhờ em” mà dùng từ “cậy em”; không dùng từ “nhận lời” mà dùng từ “chịu lời”. Nói “cậy em” là Thuý Kiều đã đặt tất cả niềm tin vào em, nàng khẩn khoản, tha thiết nhờ cậy em kết duyên cùng với Kim Trọng. Kiều nói “em có chịu lời” là đã để cho Thuý Vân có một sự lựa chọn, Thuý Vân có thể đồng ý hoặc không, Thuý Kiều không dề bắt buộc nhưng nàng lại nhờ em với cả tấm lòng tin tưởng và tha thiết nhất, có lẽ Kiều cảm thấy đây là một sự thiệt thòi, một sự hi sinh của Thuý Vân.
- Trong hoàn cảnh này thì không ai hi sinh lớn bằng Thuý Kiều, nhưng nàng luôn nghĩ về người khác. Nàng nhờ cậy em và nghĩ rằng em phải hi sinh thiệt thòi vì mình. Nhưng nàng đã quyết định hi sinh cả cuộc đời mình, cả mối tình đầu đẹp đẽ của mình vì chữ hiếu.
- Trong ý nghĩ của nàng thì cuộc đổ vỡ này, Kim Trọng là người chịu thiệt thòi nhất. Nàng không hứa hẹn kiếp sau đền đáp tình nghĩa mà nàng nghĩ cách bù đắp thiệt thòi cho chàng ngay ở kiếp này. Do vậy mà nàng nghĩ đến việc nhờ Thuý Vân thay mình nối duyên trả nghĩa cho chàng. Thuý Kiều suy nghĩ cặn kẽ trước sau mới bán mình chuộc cha.
Thuý Kiều đã dùng rất nhiều lẽ để có thể nhờ được Thuý Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng:
+ Thuý Kiều không thể đến với Kim Trọng được, nàng muốn em tiếp nối mình trả tình, trả nghĩa cho mối tình Kim – Kiều:
“Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”
“Mặc em” đó là một câu nói để cho Thuý Vân lựa chọn nhưng thực chất thì Thuý Kiều đã đặt một niềm tin tưởng vào em rất cao và có lẽ không còn tin tưởng vào ai được hơn Thuý Vân nữa.
+ Nàng kể lại chuyện của mình với Kim Trọng, một moío tình tuyệt đẹp giữa hai người:
“Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sang gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.”
Nàng băn khoăn, day dứt, đau đớn khi phải lựa chọn một trong hai thứ mà mình đều yêu quý nhất đời. Nhưng làm phận con chữ Hiếu luôn đè nặng trên vai. Trải qua bao nhiêu suy nghĩ, cân đong nặng nhẹ của chữ Tình và chữ hiếu và nàng chọn chữ hiếu để trả. Nàng nói ra điều đó với Thuý Vân để Thuý Vân có thể hiểu được tâm trạng của mình và hy vọng em mình có thể giúp đỡ mình trả nghĩa cho lang quân.
+ Về phần Thuý Vân thì Kiều thuyết phục em về tuổi xuân:
“Ngày xuân em hãy còn dài,”
Vì Thuý Vân còn trẻ nên có thời gian, có cơ hội để thay mình làm một việc mà Kiều đã đau khổ rất nhiều để có thể đi đến quyết định nhờ cậy em gái.
+ Thuý Kiều đã vin đến cả tình cảm ruột thịt máu mủ thiêng liêng nhất để thuyết phục em.
“Xót tình máu mủ thay lời nước non.”
+ Nàng thâm chí còn lấy cái chết ra để nhờ cậy em giúp mình:
“Cho dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Toàn đoạn này Thuý Kiều cậy nhờ Thuý Vân thay mình trả tình nghĩa cho Kim Trọng, tác giả Nguyễn Du đã khác hoạ một Thuý Kiều có suy nghĩ trước sau vẹn toàn là một mẫu hình phụ nữ trong xã hội xưa. Nàng đã hi sinh tình riêng để trả phần nào chữ hiếu. Bước đầu nỗi đau khổ, lo lắng về tương lai của mình được Thuý Kiều biểu hiện dù rất nhanh và kín nhưng ta cũng thấy được sự đau đớn trong lòng nàng.
Tâm trạng của Thuý Kiều hiện lên thật đau đớn, giằng xé, lòng rối bời tuy nàng rất bình tĩnh.
Thuý Kiều trao kỷ vật cho Thuý Vân:
Thuý Kiều trao kỷ vật cho Thuý Vân:
Giây phút trao kỷ vật cho em thật là thiêng liêng, cảm động và đau lòng. Kỷ vật của mối tình thật đơn sơ nhưng chứa chất bao nhiêu tình cảm chân thành nhất của Thuý Kiều dành cho Kim Trọng. Kỷ vật chỉ có “Chiếc vành với bức tờ mây” có ghi lời thề ước của hai người, “Phím đàn với mảnh hương nguyền”.
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung.”
Trong hai câu thơ này Nguyễn Du đã cố tình dùng những từ không rõ nghĩa, lấp lửng: “Duyên này” là “duyên” của ai với ai?
+ Duyên kỳ ngộ của nàng với Kim Trọng trong ngày tả mộ du xuân.
+ Duyên là duyên đã đã dứt gánh giữa đường, đã trao vào tay Thuý Vân và bây giờ trở thành duyên Thuý Vân – Kim Trọng.
Thuý Kiều dặn dò em từ nay phải giữ nó làm của riêng em. Nhưng ta cũng cần hiểu thêm tại sao khi trao duyên cho em rồi mà Thuý Kiêu vẫn nói “duyên này thì giữ vật này của chung”? ở đây của chung là của chung Kim – Kiều trước kia, bây giờ là của chung Thuý Vân – Kim Trọng nhưng nàng vẫn không thể dứt mối tình với Kim Trọng được , đó là một đau xót cực điểm trong tâm can Thuý Kiều, nên có lẽ chăng nàng đã suy nghĩ đó là của chung ba người Thuý Kiều – Thuý Vân – Kim Trọng.
Thuý Kiều muốn Thuý Vân và Kim Trọng sẽ nên vợ chồng:
”Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.”
Kiều thấy mình thật buồn tủi, chua chát, nó đọng lại ở câu nói: “Dù em nên vợ nên chồng”, nàng đã trao duyên, trao cả kỷ vật của mối tình cho em rồi, đã “cậy em”, đã “lậy em” biết bao khẩn khoản, tin tưởng… ấy thế mà vẫn đặt ra một giả thiết như có điều gì đó không ổn. Đến đây Kiều tự thấy mình đáng thương biết bao, mình là người bạc mệnh để cho người khác phải “xót”, phải thương hại! Đó là những suy nghĩ khi nàng nhìn thấy của tin còn đó nhưng người thì mất, nàng phải ra đi, nàng phải bán thân mình chỉ còn gửi lại cho chàng kỷ vật theo người em gái mà thôi. (Đã có 3 lần trước đó Thuý Kiều nói về sự bạc mệnh của mình: ở mả Đạm Tiên, nằm mơ khi đi chơi xuân về, nói chuyện với Kim Trọng về thời thơ ấu của mình)
Thuý Kiều đau lòng, luyến tiếc, thương xót cho mối tình ngắn ngủi của mình với chàng Kim. Nàng nói chuyện với Thuý Vân ở thực tại để rồi trao kỷ vật cho em, từ đó làm nền cho suy tưởng của Thuý Kiều về tương lai, cái tương lai đau thương, mù mịt mà đến nàng cũng không biết mình sẽ ra sao, mà có lẽ cũng không ai biết rồi cuộc đời Kiều sẽ ra sao.
Thuý Kiều chìm sâu trong suy tưởng:
Đoạn này hình ảnh cái chết cứ trở đi trở lại trong suy nghĩ của Thuý Kiều. Nhất là khi đã trao kỷ vật cho Thuý Vân thì lúc này Kiều như người đã chết. Thời gian hiện tại đối với nàng như lùi vào quá khứ xa xăm của một tương lai mù mịt. Nàng đặt mình vào thời gian tương lai để nhìn về quá khứ, cái tương lai đau thương. Nàng nghĩ mình đã chết:
“Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.”
Hình ảnh hồn oan Thuý Kiều trở về vật vờ trong khói hương nghi ngút với làn gió hiu hiu, trong âm thanh dìu dặt của phím tơ, với những lay động khẽ khàng của lá cây ngọn cỏ, gợi cho ta một hình ảnh nàng Kiều vừa thật đáng thương, tội nghiệp vừa thật thê thiết quá chừng. Lúc này đầu bút của Nguyễn Du như pha lẫn máu và nước mắt để viết nên những câu thơ thấm đẫm tinh thần nhân đạo cà cảm thông sâu sắc.
Nàng Kiều đang nói chuyện với em, đang trao duyên cho em bỗng dưng đã biến thành một oan hồn thực sự khi Nguyễn Du điểm bút viết những câu:
“Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền ghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.”
Cách đây mấy tháng ở mả Đạm Tiên nàng đã khóc cho người thác oan:
“Kiều đâu sẵn mối thương tâm
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.”
Giờ đây Thuý Kiều chỉ cầu mong Thuý Vân thương xót cho nàng. Hồn của nàng “mang nặng lời thề” là hồn oan không siêu thoát được. Tuy ở chốn “dạ đài” tăm tối nàng vẫn dõi theo cuộc sống của Thuý Vân, của chàng Kim … nhưng vì âm dương cách biệt nàng không thể nói nên lời, nàng chỉ xin em rưới vài giọt nước nơi lá cây ngọn cỏ để làm mát lòng người thác oan.
Thuý Kiều chìm mọi suy nghĩ vào suy tưởng, nàng đau khổ cực điểm về cuộc sống, về một cái quá khứ đau khổ trong tương lai của mình. Nàng nghĩ nàng đã chết, nhưng nàng chưa trả xong món nợ ở đời, món nợ với chàng Kim. Đó là lý do mà nàng nghĩ nàng là một người thác oan, một oan hồn.
Cái tương lai mà Thuý Kiều nghĩ đến thật là đau thương, nó như một cái định mệnh phũ phàng đã được nhắc đến nhiều lần trong tác phẩm.
Thuý Kiều đột ngột trở lại hiện tại và hướng mọi suy nghĩ về người yêu:
Nỗi tuyệt vọng và đau khổ cực điểm của Thuý Kiều đến khi nàng thoát khỏi những tưởng tượng đau thương từ cõi âm với cái chết oan nghiệt trở lại thực tại và nàng hướng về người yêu:
“Bây giờ trâm ngãy bình tan,
Kể làm sao hết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!”
Hai câu thơ “Bây giờ … ái ân!” như cắt đứt toàn bộ suy tưởng của Thuý Kiều đưa nàng về với thực tại nhưng cái thực tại cũng đau thương, nó cũng như một cái địa ngục, địa ngục trần gian.
- Đang nói với Thuý Vân rồi nàng đột ngột chuyển hướng như chuyển hẳn sang nói chuyện với Kim Trọng nhưng thực chất đây chỉ là một đoạn độc thoại nội tâm của Thuý Kiều theo dòng suy tư mà nàng đã nghĩ đến một tương lai mù mịt. Nàng đau xót, tưởng nhớ, nuối tiếc về mối tình, về cuộc tình duyên lỡ dở, nàng quằn quại như đau xé lòng. Nàng gửi lạy tình quân nghìn lại để tạ tội với chàng. Nhưng nỗi đau lại tràn đến thêm một cơn nữa khi nàng nghĩ đến thâm phận bạc mệnh của mình:
“Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.”
Hai câu thơ đã khắc hoạ tâm trạng thấm thía nỗi đơn độc của Thuý Kiều. Nàng thấy mình bạc mệnh, nàng thấy mình bị cô lập trong cái thế giới đầy rẫy khổ đau ấy. Nàng cất tiếng gọi người yêu như một tiếng kêu cứu chới với tuyệt vọng, nhưng không có hồi âm:
“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Kết luận
+ Đoạn trích “Trao duyên” diễn tả tâm trạng đau khổ của nàng Kiều khi tình yêu tan vỡ, từ khẩn khoản muốn trả nghĩa cho lang quân, đến đau dớn khi trao kỷ vật cho Thuý Vân, tiếp đến là sự tuyệt vọng của nàng khi đột ngột nàng trở vào suy tưởng về thế giới bên kia, rồi trở lại thực tại và thấy mình cô đơn mang số phận của một kiếp người bạc mệnh. Cuối cùng là sự đau khổ cực điểm và nỗi thất vọng sâu sắc khi nàng nhìn về hiện tại, khi hướng về người yêu.
+ Đoạn cuối sử dụng nhiều câu cảm thán có tác dụng bộc lộ trực tiếp tâm trạng đau thương của Thuý Kiều.
+ Nguyễn Du đã khắc hoạ tâm lý nhân vật biến đổi thật sâu sắc hợp lý với mọi thời đại.
Tổng Kết:
Nội dung:
Đoạn trích “Trao duyên” diễn tả bi kịch tình yêu ttan vỡ, bi kịch mở đầu cho một chuỗi bi kịch của đời Kiều đằng đẵng mười lăm năm sau đó mà bi kịch sau luôn nặng nề hơn bi kịch trước.
Nghệ thuật:
Đoạn trích thể hiện nghệ thuật miêu tả tâm lý đặc sắc cảu Nguyễn Du: Chỉ với 17 cặp lục bát (34 câu thơ), ông đã khắc hoạ được sự biến đổi tâm trạng của nàng Kiều biến đổi một cách sâu sắc. Cụ thể là qua 4 sắc thái tâm trạng khác nhau.
Nghệ thuật sử dụng từ ngữ điêu luyện, có sắc thái gợi cảm mạnh: cây em, chịu lời, lạy, thưa, thịt nát xương mòn, … hay những từ gợi cảm giác buồn : hiu hiu, thác oan, ….
Cả đoạn trích là toàn bộ lời của Thuý Kiều, không có sự tham gia của Thuý Vân nhưng ta cũng thấy được hình ảnh của Thuý Vân hiện lên, đó là nghệ thuật khắc hoạ nhân vật gián tiếp bậc thầy của Nguyễn Du.
File đính kèm:
- Bai Trao Duyen.doc