Chúng ta biết rằng, sáng kiến kinh nghiệm là những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà người viết tích luỹ được trong thực tiễn công tác giảng dạy và giáo dục bằng những hoạt động cụ thể đã khắc phục được những khó khăn mà với những biện pháp thông thường không thể giải quyết được, góp phần nâng cao hiệu quả rõ rệt trong công tác giảng dạy của người giáo viên.
Ngữ văn là một môn học có sự tích hợp nhiều nhất: Từ sự hợp lực của ba phân môn, từ kiến thức của các môn học khác, từ kiến thức trong cuộc sống xã hội, từ các tri thức kỹ năng, phương pháp giảng dạy, từ kinh nghiệm của thực tiễn.
Hơn thế nữa việc đổi mới phương pháp dạy và học phù hợp với xu thế phát triển của xã hội. Dạy học theo hướng “Tích cực hoá” lấy hoạt động học tập của học sinh làm trung tâm, vai trò của người thầy là người tổ chức – chủ đạo, học trò là người chủ động khám phá – lĩnh hội kiến thức.
Vấn đề tích hợp là nội dung quan trọng không thể thiếu trong việc đổi mới thay sách, đổi mới phương pháp giảng dạy trong nhà trường hiện nay. Vì vậy đòi hỏi người dạy phải linh hoạt vận dụng nhiều biện pháp, thao tác, kỹ năng để giảng dạy tốt hơn. Song vấn đề tích hợp quá còn mới mẻ, còn khó khăn của giáo viên trong sự đổi mới phương pháp giảng dạy tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh nhằm nâng cao giáo dục toàn diện cho học sinh.
Từ kết quả đạt được cũng như từ yêu cầu thực tiễn đó, tôi xin trình bày sáng kiến kinh nghiệm của mình để chia sẻ với đồng nghiệp, đặc biệt là những giáo viên đang trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở trường THCS. Mong sao được sự tiếp nhận và áp dụng của các đồng nghiệp để cùng nâng cao chất lượng giáo dục học sinh cũng như để thực hiện tốt nhiệm vụ của năm học.
14 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 6144 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Hoạt động nhóm và tổ chức trò chơi trong dạy học môn Ngữ văn THCS, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“HOẠT ĐỘNG NHÓM VÀ TỔ CHỨC TRÒ CHƠI
TRONG DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN THCS”
----------------------
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Mục đích, yêu cầu:
Chúng ta biết rằng, sáng kiến kinh nghiệm là những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà người viết tích luỹ được trong thực tiễn công tác giảng dạy và giáo dục bằng những hoạt động cụ thể đã khắc phục được những khó khăn mà với những biện pháp thông thường không thể giải quyết được, góp phần nâng cao hiệu quả rõ rệt trong công tác giảng dạy của người giáo viên.
Ngữ văn là một môn học có sự tích hợp nhiều nhất: Từ sự hợp lực của ba phân môn, từ kiến thức của các môn học khác, từ kiến thức trong cuộc sống xã hội, từ các tri thức kỹ năng, phương pháp giảng dạy, từ kinh nghiệm của thực tiễn...
Hơn thế nữa việc đổi mới phương pháp dạy và học phù hợp với xu thế phát triển của xã hội. Dạy học theo hướng “Tích cực hoá” lấy hoạt động học tập của học sinh làm trung tâm, vai trò của người thầy là người tổ chức – chủ đạo, học trò là người chủ động khám phá – lĩnh hội kiến thức.
Vấn đề tích hợp là nội dung quan trọng không thể thiếu trong việc đổi mới thay sách, đổi mới phương pháp giảng dạy trong nhà trường hiện nay. Vì vậy đòi hỏi người dạy phải linh hoạt vận dụng nhiều biện pháp, thao tác, kỹ năng để giảng dạy tốt hơn. Song vấn đề tích hợp quá còn mới mẻ, còn khó khăn của giáo viên trong sự đổi mới phương pháp giảng dạy tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh nhằm nâng cao giáo dục toàn diện cho học sinh.
Từ kết quả đạt được cũng như từ yêu cầu thực tiễn đó, tôi xin trình bày sáng kiến kinh nghiệm của mình để chia sẻ với đồng nghiệp, đặc biệt là những giáo viên đang trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở trường THCS. Mong sao được sự tiếp nhận và áp dụng của các đồng nghiệp để cùng nâng cao chất lượng giáo dục học sinh cũng như để thực hiện tốt nhiệm vụ của năm học.
Thực trạng ban đầu:
Trong những năm gần đây, tình hình học sinh trong nhà trường có sự biến đổi theo chiều hướng tiêu cực, với tình trạng học sinh chây lười trong việc học các môn, trong đó có bộ môn Ngữ văn. Tình trạng học sinh còn lười học môn ngữ văn cũng có nguyên nhân từ giáo viên chưa gây được sự hứng thú trong các tiết dạy của mình. Chính vì lẽ đó, kết quả cuối cùng mà học sinh đạt được là chưa cao.
Cụ thể như trong năm học 2010-2011, kết quả xếp loại học lực môn Ngữ văn - Học kì I của học sinh 3 lớp9 : 9a1,9a3,9a4 trường THCS Nguyễn Chí Thanh:
Tổng số
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
105
5
25
50
20
5
Với kết quả như trên so với yêu cầu của nhà trường đặt ra thì quả là đáng lo ngại. Là một giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn, tôi rất băn khoăn và trăn trở làm thế nào giúp các em ham học bộ môn này hơn, để các em tiến bộ và đạt được kết quả cao hơn. Nếu cứ duy trì tình trạng dạy và học như thế thì chắc chắn sẽ không cải thiện được mà thậm chí còn làm cho học sinh ngày càng sa sút hơn, nhàm chán hơn khi học bộ môn này.
Do đó tôi đã nghiên cứu cũng như đúc rút từ kinh nghiệm giảng dạy thực tế, tôi đã đưa ra giải pháp để áp dụng vào việc giảng dạy bộ môn của mình đó là: “ Hoạt động nhóm và sử dụng trò chơi trong dạy học môn Ngữ văn THCS”.
Giải pháp đã áp dụng:
Trước đây khi mới bước vào nghề giảng dạy, bản thân tôi tuy đã có ý thức đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn nhưng việc thực hiện chỉ mang tính hình thức, thử nghiệm chứ chưa đem lại hiệu quả như mong muốn. Đôi khi trong quá trình giảng dạy, giáo viên còn dạy học theo kiểu truyền thụ kiến thức một chiều. Giáo viên giảng giải, học sinh lắng nghe, ghi nhớ và biết nhắc lại những điều mà giáo viên truyền đạt. Giáo viên chủ động cung cấp tri thức cho học sinh, áp đặt những kinh nghiệm, hiểu biết, cách cảm, cách nghĩ của mình tới học sinh. Nhiều giáo viên còn chưa chú trọng đến việc tiếp thu, vận dụng kiến thức của học sinh cũng như chỉ ra cho người học con đường tích cực, chủ động để tiếp nhận kiến thức. Do đó có những tiết dạy giống như những giờ diến thuyết. Giờ học văn vì thế mà chưa thu hút được sự chú ý của học sinh. Do đó không ít học sinh còn tỏ ra thờ ơ với việc học tập bộ môn này.
Bên cạnh đó, do sự thiếu thốn về trang thiết bị dạy học như tranh, ảnh minh hoạ, đồ dùng trực quan, dụng cụ nghe, nhìn, tài liệu tham khảo… cho giáo viên cũng như học sinh khiến cho việc áp dụng phương pháp dạy học mới gặp nhiều khó khăn dẫn tới việc dạy – học chay.
Học sinh lại có thói quen thụ động, quen nghe, quen chép, ghi nhớ và tái hiện một cách máy móc, rập khuôn những gì mà giáo viên đã giảng. Đa phần học sinh chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học. Điều này đã thủ tiêu óc sáng tạo, suy nghĩ của người học, biến học sinh thành những người quen suy nghĩ và diễn đạt bằng những ý vay mượn, bằng những lời có sẵn của người khác. Lẽ ra học sinh là chủ của tri thức lại trở thành lệ thuộc sách vở. Học sinh chưa hào hứng và chưa quen bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm của cả nhân trước tập thể cho nên khi phải nói và viết, học sinh gặp rất nhiều khó khăn.
Qua phân tích những nguyên nhân trên, tôi thấy rằng phương pháp dạy học có vai trò rất lớn trong việc truyền thụ kiến thức cũng như hình thành cho học sinh kỹ năng và phong cách hoạt động để nắm tri thức một cách chủ động, sáng tạo.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
Cơ sở lí luận:
Như chúng ta đã biết, ngày 24/01/2002, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký và cho ban hành Quyết định số 03/2002/QĐ-BGD&ĐT. Môn Ngữ văn được triển khai dạy học theo nguyên tắc tích hợp (Văn học - Tiếng Việt - Tập làm văn) nhằm phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh. Trong những năm gần đây, vấn đề này lại càng được chú trọng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 của BCH TW Đảng khoá VIII nêu rõ: “Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học”, “phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, bồi dưỡng lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”.
Bên cạnh đó như tôi đã trình bày ở phần trên: Giáo viên tuy có ý thức đổi mới phương pháp dạy học nhưng nhìn chung vẫn còn chịu nhiều ảnh hưởng của phương pháp dạy học trước đây. Điều này gây tác động không nhỏ đến việc tiếp nhận tri thức một cách thụ động của học sinh. Học sinh như trở thành một cỗ máy tiếp nhận chứ không chủ động, sáng tạo. Trong khi việc dạy Ngữ văn có hiệu quả lại đòi hỏi cao. Dạy văn không chỉ là truyền thụ kiến thức mà còn phải hay, phải lôi cuốn học sinh, làm cho học sinh thích thú, say mê học tập. Đây là môn học kết tinh nhiều giá trị văn hoá của dân tộc cũng như của nhân loại, là môn học có ý nghĩa trong việc hình thành phát triển nhân cách cho học sinh và rèn luyện những kỹ năng cơ bản cần thiết cho các em. Mặt khác đây là môn học nghệ thuật kích thích trí tưởng tượng bay bổng, sáng tạo của các em học sinh. Điều này lại làm cho việc giảng dạy môn Ngữ văn càng khó hơn.
Thực tế chúng ta thấy rằng, càng ngày số lượng học sinh học giỏi bộ môn Ngữ văn càng ít bởi lẽ các em vẫn còn thấy chưa hứng thú với việc học bộ môn này. Các em thấy rằng việc học Ngữ văn là quá nặng nề vì phải học thuộc lòng nhiều, phải ghi nhiều trong quá trình học tập. Chính điều này đòi hỏi phải có những phương pháp cải tiến trong việc dạy và học Ngữ văn. Đây là yêu cầu bức thiết được đặt ra đối với những giáo viên giảng dạy bộ môn này.
Trước thực trạng đó, tôi rất băn khoăn và trăn trở là làm sao cho học sinh của mình học tập tiến bộ môn Ngữ văn hơn? Làm sao cho các em yêu thích môn hiọc này hơn? Để giải quyết được điều này, tôi đã phân tích, nghiên cứu và sáng tạo trong việc vận dụng phương pháp vào giảng dạy, tạo cho mỗi tiết dạy Ngữ văn trở thành những tiết học mà học sinh mong đợi.
Trong những năm giảng dạy vừa qua, tôi cũng đã tiến hành áp dụng một số phương pháp vào việc giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong đó việc “tổ chức hoạt động nhóm và vận dụng trò chơi trong dạy học” đã đạt được kết quả như mong đợi. Đó là học sinh càng yêu thích môn học này hơn và kết quả học tập càng cao hơn.
Từ những thực tế đó, tôi đã rút ra được những kinh nghiệm nho nhỏ đó là phương pháp “hoạt nhóm và tổ chức trò chơi trong dạy học môn Ngữ văn THCS”. Mong rằng kinh nghiệm của tôi được sự đón nhận của đồng nghiệp và áp dụng rộng rãi vào việc dạy học môn Ngữ văn. Mong sao kinh nghiệm đó sẽ giúp chất lượng giáo dục ngày càng đạt hiệu quả cao hơn.
2. Giả thiết:
Từ thực trạng học tập môn Ngữ văn chưa đạt hiệu quả cao, tôi đã tiến hành phương pháp hoạt động nhóm và tổ chức trò chơi trong quá trình giảng dạy. Tuy nhiên để làm được điều này, đòi hỏi người giáo viên phải nghiên cứu kỹ các tiết dạy để từ đó có định hướng lựa chọn các hình thức tổ chức hoạt động nhóm hay trò chơi cho thích hợp. Nhưng về cơ bản, hoạt động nhóm và tổ chức trò chơi trong dạy học môn Ngữ văn được thực hiện như sau:
a, Đối với hoạt động nhóm:
* Chuẩn bị:
- Giáo viên:
+ Bảng phụ: giấy rô-ki, bảng mê-ka
+ Bút viết bảng trắng.
+ Phiếu học tập: Có in sẵn câu hỏi và khoảng trống để học sinh thực hiện trên phiếu.
+ Xác định câu hỏi trong sách giáo khoa để cho học sinh thảo luận nhóm.
-> Chú ý khi lựa chọn câu hỏi hoạt động nhóm: Nội dung phải rõ ràng, phù hợp với tình hình học tập, khả năng nhận thức của đối tượng; câu hỏi phải phát huy khả năng tư duy, sáng tạo của học sinh; nội dung câu hỏi phải xoay quanh bài học.
- Học sinh:
+ Cử ra nhóm trưởng và thư ký để điều hành hoạt động của nhóm mình.
+ Thực hiện theo đúng yêu cầu đề ra.
* Cách tổ chức:
- Giáo viên cần dựa vào đặc điểm tình hình của lớp để phân nhóm cho thích hợp.
- Việc lựa chọn nhóm trưởng (có thể làm từ trước) rất cần thiết. Vì nhóm trưởng là người điều động được tất cả các nhóm viên tham gia tích cực vào cuộc thảo luận. Người nhóm trưởng phải là người biết lắng nghe, khuyến khích những người rụt rè, ngăn chặn những người nói nhiều, theo dõi, quan sát phản ứng của các thành viên để điều chỉnh cho phù hợp.
- Giáo viên phải quan sát và theo dõi hoạt động, công việc cuả từng nhóm để tìm cách giải quyết hợp lý nhất. Trong quá trình quan sát các nhóm làm việc, người giáo viên phải phát hiện sai lầm (nếu có) của các nhóm, những sai lầm mang tính điển hình và chưa được sửa chữa để cuối phần hoạt động nhóm, giáo viên có nhận xét, góp ý. Ngoài những vấn đề mà các nhóm thảo luận, giáo viên cũng có thể đặt ra những câu hỏi bổ sung để phát huy tính tích cực, chủ động của nhóm.
- Thực hiện trên bảng phụ -> Học sinh lên trình bày.
- Thực hiện trên phiếu học tập -> Học sinh trình bày, giáo viên có thể thu phiếu học tập.
- Thực hiện câu hỏi trong sách giáo khoa -> Học sinh trình bày ra giấy tự chuẩn bị.
- Sau khi các nhóm đã trình bày kết quả, giáo viên phải nhắc lại các ý kiến mà các nhóm đã trình bày một lần nữa khẳng định lại ý kiến của nhóm để các nhóm khác cần bổ sung ý kiến hay không? Sau đó giáo viên mới tóm tắt, tổng hợp, liên kết các ý của từng nhóm theo thứ tự để nêu bật được nội dung của bài học.
b, Đối với việc tổ chức trò chơi:
* Chuẩn bị:
- Giáo viên: Đọc và tìm hiểu nội dung bài học để lựa chọn trò chơi cho phù hợp với tiết dạy. Hướng dẫn thể lệ, cách thực hiện trò chơi (tuỳ thuộc vào từng trò chơi để đưa ra luật chơi).
- Học sinh: Nắm chắc thể lệ trò chơi do giáo viên đưa ra để tuân thủ thực hiện một cách nghiêm ngặt và đúng quy tắc. Nếu là trò chơi mang tính chất tập thể thì đòi hỏi mỗi thành viên phải có tinh thần trách nhiệm và ý thức cao khi tham gia chơi.
3. Quá trình thử nghiệm:
Tất cả những vấn đề tôi đã trình bày trên cũng chỉ là lý thuyết. Để thấy được kết quả cụ thể, bản thân tôi đã tiến hành thực hiện cụ thể nhiều tiết dạy có sử dụng “Phương pháp hoạt động nhóm và tổ chức trò chơi” ở khối 8 năm học 2009-2010, khối 9 năm học 2010-2011.
a, Hoạt động nhóm:
* Đặc điểm:
Hoạt động nhóm giúp các học sinh có cơ hội trao đổi với nhau, tự khẳng định mình, cũng như là dịp để các em rèn luyện khả năng diễn đạt, trình bày trước tập thể. Thông qua hoạt động này, giúp các em mạnh dạn hơn.
* Chuẩn bị:
- Giáo viên cần định hướng và chọn ra nhóm trưởng của các nhóm, phân nhóm phù hợp với tình hình của lớp học, chuẩn bị những đồ dùng cần thiết để sử dụng cũng như phát cho học sinh thực hiện.
- Học sinh chuẩn bị theo yêu cầu của giáo viên.
* Ví dụ:
Ngữ văn 9 - Tiết 33: TRAU DỒI VỐN TỪ
- Giáo viên cho học sinh thảo luận trong phần thực hiện các bài tập 7 và 8.
- Giáo viên chia lớp thành 8 nhóm (mỗi tổ 2 nhóm).
- Phát yêu cầu bài tập có ghi sẵn ra phiếu học tập cho học sinh. Tổ 1 và 2 làm bài tập 7; tổ 3 và 4 làm bài tập 8.
- Học sinh nhận phiếu, tiến hành thảo luận và ghi kết quả ra phiếu học tập.
- Nhóm trưởng điều hành nhóm của mình thực hiện tốt.
- Giáo viên quan sát quá trình hoạt động của học sinh. Có sự nhắc nhở nếu cần thiết.
- Sau khi các nhóm đã thực hiện xong, giáo viên cho một nhóm ở tổ 1, một nhóm ở tổ 2 lên bảng thi bằng cách ghi ra bảng các cách giải thích về nghĩa của các từ: Nhuận bút, thù lao; tay trắng, trắng tay; kiểm điểm, kiểm kê; lược khảo, lược thuật.
Sau đó cho các nhóm khác nhận xét, bổ sung. Giáo viên khuyến khích bằng cách ghi điểm cho từng cá nhân trong nhóm nếu trả lời tốt.
Tương tự giáo viên cho tổ 3 và 4 lên trình bày bài tập 8.
- Giáo viên nhận xét và chốt lại vấn đề.
b, Trò chơi:
b.1, Trò chơi điền bảng (kết hợp với hoạt động nhóm):
* Đặc điểm:
Trò chơi này dùng trong những giờ ôn tập. Thay bằng việc cho học sinh lập bảng thống kê kiến thức bình thường, ta có thể làm thành những thẻ (tờ phiếu) kiến thức, sau đó phát cho nhóm và yêu cầu các nhóm học sinh dùng thẻ này để điền vào ô trống trên bảng thống kê. Mục tiêu cuối cùng là giúp học sinh thống kê được kiến thức. Cách này nhẹ nhàng mà huy động được sự tham gia của cả lớp.
* Chuẩn bị:
Giáo viên làm một bảng tổng kết trong đó chỉ có đề mục và các tiêu chí thống kê. Phần nội dung các ô trong bảng sẽ được chuyển thành các thẻ, các thẻ này phát cho các nhóm.
* Ví dụ:
Ngữ văn 8 –tập 1 – Tiết 38: ÔN TẬP TRUYỆN KÝ VIỆT NAM
- Trong phần lập bảng thống kê các văn bản truyện ký Việt Nam, ta giữ lại các ô: Tên các tác phẩm, thứ tự, tác giả, tác phẩm, thể loại, năm sáng tác, phương thức biểu đạt, nội dung chủ yếu, đặc điểm nghệ thuật. Các ô nội dung khác bỏ trống để học sinh dán thẻ kiến thức.
TT
Tác phẩm, tác giả
T.loại
Năm ST
PTBĐ
Nội dung chủ yếu
Đặc sắc nghệ thuật
01
Tôi đi học
(Thanh Tịnh)
02
Trong Lòng Mẹ
(Nguyên Hồng)
03
Tức nước vỡ bờ
(Ngô tất Tố)
04
Lão Hạc (Nam Cao)
- Các nhóm học sinh nhận thẻ kiến thức và tiến hành trao đổi thảo luận để tìm và đưa ra những thẻ kiến thức phù hợp với các ô trống.
- Đại diện các nhóm học sinh lên trình bày và dán phiếu vào bảng tổng kết. Nhóm nào dán đúng thì tất cả thành viên sẽ được khen.
TT
Tác phẩm, tác giả
T.loại
Năm ST
PTBĐ
Nội dung chủ yếu
Đặc sắc nghệ thuật
01
Tôi đi học
(Thanh Tịnh)
Truyện ngắn
1941
Tự sự, trữ tình
Những kỷ niệm trong sáng về ngày đầu tiên đến trường.
Tự sự kết hợp với trữ tình; kể chuyện kết hợp miêu tả và biểu cảm, đánh giá; những hình ảnh so sánh mới mẻ và gợi cảm.
02
Trong Lòng Mẹ
(Nguyên Hồng)
Hồi ký (trích)
1940
Tự sự, trữ tình
Nỗi đau của chú bé mồ côi và tình yêu thương mẹ của chú bé.
Văn hồi ký chân thực, trữ tình thiết tha
03
Tức nước vỡ bờ
(Ngô tất Tố)
Tiểu thuyết (trích)
1939
Tự sự
Phê phán chế độ tàn ác bất nhân và ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng của người phụ nữ nông thôn.
Khắc hoạ nhân vật và miêu tả hiện thực một cách chân thực, sinh động.
04
Lão Hạc (Nam Cao)
Truyện ngắn (trích)
1943
Tự sự, trữ tình
Số phận bi thảm của người nông dân cùng khổ và nhân phẩm cao đẹp của họ.
Nhân vật được đào sâu tâm lý, cách kể chuyện tự nhiên, linh hoạt, vừa chân thực vừa đậm chất triết lý và trữ tình.
b.2, Trò chơi: Đọc thơ (hoạt động cá nhân):
* Đặc điểm:
Học sinh thường sợ đọc thuộc lòng các bài thơ hay đoạn thơ. Nhưng với trò chơi này sẽ giúp học sinh hứng thú hơn và thuộc thơ nhanh hơn. Hoạt động này nên sử dụng sau những tiết học xong bài thơ hặc ca dao.
* Chuẩn bị:
- Sau khi học xong bài thơ, giáo viên cho học sinh nhẩm lại bài thơ.
- Học sinh nhẩm lại các câu thơ trong bài thơ vừa học xong.
* Ví dụ:
Ngữ văn 9 – tập 2: Văn bản: VIẾNG LĂNG BÁC CỦA VIỄN PHƯƠNG
- Sau khi học xong bài thơ này, giáo viên cho học sinh nhẩm lại và sau đó tiến hành thực hiện trò chơi.
- Giáo viên đọc trước một câu:
“ Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”.
- Sau đó yêu cầu học sinh đọc câu thơ tiếp theo:
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát”.
- Học sinh vừa đọc xong thì có quyền chỉ định một bạn bất kỳ trong lớp đọc tiếp các câu còn lại của bài thơ .
- Tương tự thực hiện cho đến khi hết bài thơ hoặc có yêu cầu dừng của giáo viên.
- Bạn nào đọc sai sẽ làm một hoạt động do lớp hoặc giáo viên yêu cầu.
b.3, trò chơi: Thuyết minh biểu tượng (hoạt động nhóm):
* Đặc điểm:
Trò chơi này kích thích khả năng sáng tạo, trí tưởng tượng và khả năng diễn đạt của học sinh. Nó cũng đơn giản, thích hợp với nhiều giờ học tập làm văn. Mục đích chủ yếu của trò chơi này là kỹ năng làm văn, đặc biệt là đối với văn thuyết minh.
* Cách tiến hành:
- Giáo viên chia học sinh thành các nhóm (4-10 học sinh, trong đó nên có một số học sinh có năng khiếu về hội hoạ).
- Mỗi nhóm sẽ vẽ một bức tranh biểu tượng trong khoảng thời gian quy định sau đó thuyết minh ý nghĩa của nó.
- Từng nhóm lên thuyết trình về biểu tượng của nhóm mình.
- Các nhóm khác đặt câu hỏi phản biện với nhóm thuyết trình.
- Giáo viên cần tìm ra một ban giám khảo: Giáo viên và một số học sinh trong lớp.
-> lưu ý: Trò chơi này do học sinh thực hiện theo ý tưởng riêng của nhóm, cho nên ban giám khảo cần nhìn nhận và đánh giá cho phù hợp, không nên đánh giá theo ý kiến chủ quan. Với dạng trò chơi này thì cũng có thể áp dụng cho học sinh làm đồ vật sau đó thuyết trình.
* Ví dụ:
Ngữ văn 8 – tập một: Tiết 54: LUYỆN NÓI: THUYẾT MINH VỀ MỘT
THỨ ĐỒ DÙNG.
- Giáo viên chia học sinh thành các nhóm và yêu cầu mỗi nhóm vẽ một đồ vật bất kỳ trong gia đình và giới thiệu về đồ vật đó.
- Các nhóm sẽ vẽ đồ vật theo ý thích và thuyết trình về đặc điểm, công dụng của đồ vật đó trong gia đình.
- Khi trình bày, giáo viên nên cho học sinh treo tranh lên và giới thiệu.
b.4, Trò chơi: Ô chữ (hoạt động nhóm hoặc cá nhân):
* Đặc điểm:
Trò chơi này khá quen thuộc và đã được áp dụng nhiều nhưng nó lại được sự đón nhận rất nhiệt tình và hứng khởi của các em học sinh. Chính vì thế, nó mang lại hiệu quả cũng rất cao. Trò chơi này thích hợp với một giờ văn học hoặc tiếng Việt.
*Chuẩn bị:
- Giáo viên hoặc học sinh soạn ra một bảng ô chữ cùng các câu hỏi đi kèm tương ứng với kiến thức của các ô hàng ngang cần thực hiện. Từ gợi ý của các ô hàng ngang, học sinh dần dần tìm ra nội dung của ô hàng dọc – Đây là ô chính mà nội dung của nó có tầm quan trọng đối với bài học mà học sinh cần nắm chắc và ghi nhớ được.
- Bảng ô chữ này có thể chuẩn bị từ bảng phụ. Để trò chơi mới lạ hơn, giáo viên yêu cầu học sinh tự làm hoặc có thể áp dụng công nghệ thông tin để tạo ra phần mềm trò chơi.
* Ví dụ:
Ngữ văn 9 – tập một: Bài : TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU
- Dạy xong bài này, giáo viên cho học sinh tham gia vào trò chơi. Giáo viên chia ra nhóm hoặc cá nhân.
- Yêu cầu cầu của trò chơi: Học sinh nắm được những nội dung cơ bản về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm truyện Kiều cũng như các nhân vật trong truyện. Đặc biệt, khi kết thúc trò chơi học sinh phải nắm được một trong hai giá trị lớn của Truyện kiều đó là “giá trị nhân đạo”.
- Giáo viên treo bảng phụ và lần lượt nêu ra các câu hỏi cho các nhóm thực hiện, bắt đầu từ nhóm 1. Các nhóm có quyền lựa chọn ô hàng ngang. Nếu nhóm nào không trả lời được theo thời gian quy định thì phải nhường lượt cho nhóm khác tiếp tục trò chơi.
- Nhóm nào tìm được kiến thức ở ô hàng ngang thì được cộng điểm, tìm được ô hàng dọc khi chưa giải hết ô hàng ngang sẽ là đội thắng cuộc.
- Cụ thể: Bảng ô chữ, câu hỏi và đáp án như sau:
+ Bảng ô chữ:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
+ Câu hỏi:
Hàng ngang 1. Tác giả của “Truyện Kiều” là ai?
Hàng ngang 2. Thuý Kiều phải làm gì khi gia đình bị vu oan, cha bị bắt.
Hàng ngang 3. Từ Hải đã giúp Thuý Kiều làm gì?
Hàng ngang 4. Em gái của Thuý Kiều tên là gì?
Hàng ngang 5. Khi đi du xuân, Thuý Kiều đã gặp và phải lòng ai?
Hàng ngang 6. Ai là người đến mua Thuý Kiều?
Hàng ngang 7. Đây là quê hương của tác giả Nguyễn Du.
Hàng ngang 8. Nguyễn Du có tên hiệu là gì?
Hàng ngang 9. Năm 1965, Nguyễn Du được công nhận là:
Hàng ngang 10. Truyện Kiều được viết dựa trên tác phẩm nào?
Hàng ngang 11. Nguyễn Du được coi là:
Hàng ngang 12. Phần cuối trong phần tóm tắt của Truyện Kiều có tên là gì?
Hàng ngang 13. Truyện Kiều còn có tên gọi khác là gì?
+ Đáp án:
1
N
G
U
Y
E
N
D
U
2
B
A
N
M
I
N
H
3
B
A
O
A
N
B
A
O
O
A
N
4
T
H
U
Y
V
A
N
5
K
I
M
T
R
O
N
G
6
M
A
G
I
A
M
S
I
N
H
7
H
A
T
I
N
H
8
T
H
A
N
H
H
I
E
N
9
D
A
N
H
N
H
A
N
V
A
N
H
O
A
10
K
I
M
V
A
N
K
I
E
U
T
R
U
Y
E
N
11
D
A
T
H
I
H
A
O
12
D
O
A
N
T
U
13
D
O
A
N
T
R
U
O
N
G
T
A
N
T
H
A
N
H
4. Hiệu quả mới:
Qua thời gian giảng day, đặc biệt là những tiết có sự vận dụng phương pháp hoạt động nhóm và và tổ chức trò chơi trong dạy học, tôi nhận thấy kết quả đạt được rất đáng khích lệ, cụ thể:
a, Về phương pháp hoạt động nhóm:
Như ông cha ta đã viết : “Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.
Phương pháp hoạt động nhóm mà tôi áp dụng đã tạo ra một không khí hoạt động năng động và hữu ích cho các nhóm trong lớp học. Bởi lẽ, hoạt động theo nhóm có đặc điểm: dễ trao đổi, thông cảm, dễ thân thiện và dễ thống nhất ý kiến. Bên cạnh đó phương pháp hoạt động theo nhóm sẽ giúp tất cả các thành viên trong nhóm có cơ hội tham gia chia sẻ ý kiến, kinh nghiệm của mình với cả nhóm. Đồng thời, hoạt động theo nhóm cũng giúp cho từng cá nhân có tính kiên trì trong công việc theo đuổi mục đích, nâng cao khả năng tư duy, phê phán, bổ sung kiến thức nhờ học hỏi lẫn nhau, hình thành kỹ năng phát hiện vấn đề và nắm bắt thông tin, kỹ năng làm việc tập thể, kỹ năng thương lượng .v.v.
b, Về việc sử dụng trò chơi:
Qua quá trình áp dụng những trò chơi vào các tiết dạy học Ngữ văn ở THCS, tôi nhận thấy rằng: Trò chơi là một hoạt động bổ trợ cho việc dạy Ngữ văn. Hoạt động này thiên về chơi nên nó xoá đi sự nặng nề. Học sinh được tiếp nhận nhiều kiến thức, kỹ năng qua những hoạt động dễ dàng, gây hứng thú. Chính vì lẽ đó mà những học sinh đã được học qua những tiết dạy có áp dụng trò chơi không chỉ có cơ hội tìm hiểu, ôn tập kiến thức mà còn thể nghiệm hành vi, rèn luyện kỹ năng, sự tư duy, phản ứng nhanh. Các em được rèn khả năng quyết định lựa chọn các phương án đúng, cách giải quyết tình huống hợp lí. Đây là bài học thực tế trước khi học sinh rút ra kết luận, lý thuyết trừu tượng. Trò chơi cũng là biện pháp tăng cường sự phấn đấu tích cực trong từng cá nhân hoặc trong nhóm học sinh. Tổ chức trò chơi theo nhóm còn giúp tăng cường hoạt động làm việc nhóm, từ đó phát triển kỹ năng giao tiếp cho học sinh.
Như vậy so với thời điểm mà tôi chưa áp dụng phương pháp hoạt động nhóm và tổ chức trò chơi trong giảng dạy môn Ngữ văn, tôi nhận thấy rằng: Nếu như trước đây các em học sinh có khích khi đón nhận nó. Đó là kết quả mà tôi không thể mong đợi hơn. vẻ rất lo ngại mỗi khi đến tiết Ngữ văn thì bây giờ các em rất hồ hởi và phấn Bởi lẽ, từ sự thích thú, yêu mến môn học này đã giúp các em chăm chỉ học tập và kết quả học tập ngày càng tốt hơn. Cụ thể như trong năm học 2010-2011, kết quả xếp loại học lực môn Ngữ văn vào cuối năm của học sinh 3 lớp 9 : 9a1,9a3,9a4 trường THCS Nguyên Chí Thanh:
Tổng số
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
105
6
35
60
4
0
So sánh với kết quả của học kì I, tôi nhận thấy rằng việc học tập của học sinh có sự tiến bộ rõ rệt. Nhiều em trước đây học còn trung bình hoặc yếu thì nay có sự tiến bộ rất nhiều. Kết quả này đã được nhà trường, đồng nghiệp cũng như các bậc phụ huynh học sinh ghi nhận và tỏ ra rất hài lòng.
III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM.
1. Kinh
File đính kèm:
- SKKN thi truong.doc